Tải bản đầy đủ (.docx) (16 trang)

Tuần 21. Vợ nhặt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (213.51 KB, 16 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>

<b>Ngày soạn Ngày ôn thi : </b>


<b>Vợ nhặt ( Kim Lân )</b>


* Mục đích chuyên đề giúp các em củng cố những nội dung cơ bản xung quanh tác phẩm “Vợ
nhặt” của nhà văn Kim Lân.


- Ý nghĩa nhan đề và nghệ thuật xây dựng tình huống.


- Hình ảnh người nông dân Việt Nam trong bối cảnh làng quê ngày đói.
- Giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo độc đáo.


- Nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật tinh tế, sắc sảo.
- Nghệ thuật sử dụng ngôn ngữ đối thoại tài tình.
<b>KIẾN THỨC CƠ BẢN</b>


<b>1 – Nhà văn Kim Lân</b>


- Kim Lân (1920 – 2007), tên khai sinh là Nguyễn Văn Tài, quê ở xã Tân Hồng, huyện
Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh. Kim Lân tham gia Hội Văn hố cứu quốc từ năm 1944, sau đó liên tục
hoạt động văn học nghệ thuật phục vụ kháng chiến và cách mạng. Năm 2001, ông được tặng
Giải thưởng Nhà nước về văn học nghệ thuật.


- Các tác phẩm tiêu biểu : tập truyện Nên vợ nên chồng (– 1955), tập truyện Con chó xấu
<i>xí (1962)…</i>


- Kim Lân là cây bút chuyên viết truyện ngắn. Đề tài quen thuộc của ông là cuộc sống
nông thôn và người nơng dân. Ơng có những trang viết đặc sắc về phong tục và đời sống làng
quê. Ông viết chân thật, xúc động về cuộc sống và người dân quê mà ông hiểu sâu sắc cảnh ngộ
và tâm lí của họ.



<b>2 – Truyện ngắn Vợ nhặt</b>
<b>a. Hoàn cảnh ra đời</b>


- Vợ nhặt là truyện ngắn xuất sắc của Kim Lân in trong tập Con chó xấu xí (1962) Tiền
thân của truyện là tiểu thuyết Xóm ngụ cư – được viết sau CM Tháng Tám nhưng dang dở và
thất lạc bản thảo. Sau khi hồ bình lập lại (1954), ơng đựa vào một phần cốt truyện cũ để viết
truyện ngắn này.


</div>
<span class='text_page_counter'>(2)</span><div class='page_container' data-page=2>

<b>b. Tóm tắt truyện</b>


<b>c. Ý nghĩa nhan đề: Nhan đề “Vợ nhặt” thâu tóm giá trị nội dung tư tưởng tác</b>
phẩm:


+ Những thứ nhặt được thường là những thứ khơng ra gì <sub></sub> Thân phận con
người bị rẻ rúng như cái rơm, cái rác, có thể "nhặt" ở bất kì đâu, bất kì lúc
nào. Người ta hỏi vợ, cưới vợ, còn ở đây Tràng "nhặt" vợ. Đó thực chất là sự
khốn cùng của hoàn cảnh.


+ Trong thực tế "vợ" là sự trân trọng, người vợ là người xây tổ ấm. Trong tác
phẩm, gia đình Tràng từ khi có người vợ nhặt, mọi người trở nên gắn bó,
quây quần, chăm lo, thu vén cho tổ ấm của mình => Khát vọng hạnh phúc
và niềm tin của con người trong cảnh khốn cùng.


+ Ngồi ra, nhan đề Vợ nhặt đã gói trọn tình huống truyện độc đáo của tác phẩm – tình huống
“cười ra nước mắt”.


<b>d. Tình huống truyện</b>


<b> Tình huống truyện của tác phẩm này một phần thể hiện ngay trong nhan đề tác</b>
<b>phẩm : Vợ nhặt. Anh Tràng đã “nhặt” được vợ ở chợ, như người ta nhặt được một thứ đồ vật</b>


vơ chủ nào đó. Người ta lấy vợ có dạm hỏi, cưới xin đàng hồng, có cỗ bàn dù ít cũng phải một
vài mâm. Tràng lấy vợ nhờ một câu nói đùa và bốn bát bánh đúc.


Đây quả là một tình huống vừa lạ, bất ngờ, vơ lí nhưng cũng vừa tự nhiên, hợp lí. Bất
ngờ, vơ lí bởi lẽ, người như Tràng mà lấy được vợ, thậm chí có vợ theo. Hơn nữa, trong thời
buổi đói khát hồnh hành dữ dội, người như Tràng, ni thân chẳng xong mà dám lấy vợ !
Nhưng tình huống cũng tự nhiên, hợp lí là vì : “Người ta có gặp bước khó khăn, đói khổ này,
<i>người ta mới lấy đến” Tràng. Cịn với Tràng thì đây là “dịp may” hiếm có, hơn nữa “may ra mà</i>
<i>qua khỏi được cái tao đoạn này” thì anh cũng có vợ.</i>


Tràng và người đàn bà kia như hai cành củi khô nhưng họ đã chụm vào nhau để nhen lên
ngọn lửa. Tội nghiệp thay, người này thì cần hạnh phúc cịn người kia thì lại cần chỗ dựa. Một
người vì tình yêu, người kia vì miếng ăn. Nói tóm lại là họ liều, nhưng cái liều kia của họ làm
người ta bật khóc. Bây giờ thì họ là người dũng cảm, dũng cảm bởi vì họ dám nắm tay nhau để
bước qua ranh giới của sự sống và cái chết. Họ làm ta khâm phục và kính trọng. Phải chăng hai
con người khốn khổ ấy là niềm tin của Kim Lân về một giống nịi sẽ tiếp nối sẽ sinh sơi khi mà
cả dân tộc đang đứng trước sự diệt vong của nạn đói ?


</div>
<span class='text_page_counter'>(3)</span><div class='page_container' data-page=3>

Ngạc nhiên trước nhất là những người trong xóm ngụ cư. Khi Tràng dắt vợ về ngang qua
xóm, những người dân trong xóm đã “đứng cả trong ngưỡng cửa nhìn ra bàn tán” : “Ai đấy nhỉ
<i>?...”, “Quái nhỉ ?”. Đến khi hiểu ra là Tràng có vợ theo về, thì họ lại càng ngạc nhiên hơn nữa.</i>
Có người lo dùm cho anh ta : “- Ơi chao ! Giời đất này cịn rước cái của nợ đời về. Biết có ni
<i>nổi nhau sống qua được cái thì này khơng ?”. Tuy nhiên, họ cũng không giấu được một vẻ vui</i>
vui : “Những khuôn mặt hốc hác u tối của họ bỗng dưng rạng tỡ hẳn lên. Có một cái gì lạ lùng
<i>và tươi mát thổi vào cuộc sống đói khát, tăm tối ấy của họ”. </i>


Còn bà cụ Tứ, mẹ của Tràng càng bất ngờ hơn. Bà hiểu rõ tình cảnh con mình hơn ai hết
nên càng khó tin Tràng có vợ. Khi thấy người đàn bà đứng ngay ở đầu giường con mình, bà cụ
cứ ngơ ngác tự hỏi : “Quái sao lại có người đàn bà nào ở trong ấy nhỉ ?... Sao lại chào mình
<i>bằng u ?... Ai thế nhỉ ?...”. </i>



Bản thân Tràng cũng lấy làm lạ cho mình. Nhìn vợ ngồi ngay giữa nhà, anh ta “vẫn ngờ
<i>ngợ như khơng phải thế. Ra hắn đã có vợ rồi đấy ư ?”. Ngay cả đến hôm sau, “Việc hắn có vợ</i>
<i>đến hơm nay hắn vẫn cịn ngỡ ngàng như khơng phải”…</i>


<b>Nhưng chính trong hồn cảnh bi đát, tuyệt vọng ấy, ba con người cùng khổ vẫn</b>
<b>không mất niềm tin vào sự sống, họ nương tựa vào nhau, cùng nhau hi vọng vào tương lai.</b>


Chỉ trong thời gian ngắn, cả ba con người ấy đều có những sự thay đổi mà sâu sắc nhất là
bà cụ Tứ, người mẹ nghèo đơn hậu, giàu tình u thương. Khi hiểu ra mọi chuyện, bà cảm thấy
“vừa ai ốn vừa xót thương cho số kiếp đứa con mình…”. Bằng tình thương con vơ bờ của
người mẹ, bà không khỏi lo âu : “Biết rằng chúng nó có ni nỗi nhau cho sống qua được cơn
<i>đói khát này khơng ?”. Nhưng dù sao, bà cũng cảm thấy mừng thay cho con, vì theo bà “May ra</i>
<i>mà qua khỏi được cái tao đoạn này thì thằng con bà cũng có vợ, nó yên bề nó”. Chính vì vậy,</i>
bà đã đón nàng dâu mới trong niềm thương xót và cảm thơng.


Vậy là ba con người trong gia đình nghèo ấy đã nương tựa vào nhau, họ cũng đã bắt đầu
bộc lộ niềm tin vào cuộc sống mới. Sáng hơm sau, hình như ai cũng nghĩ rằng “thu xếp cửa nhà
<i>cho quang quẻ, nền nếp thì cuộc đời họ có thể khác đi, làm ăn có cơ khấm khá hơn</i>”. Trong bữa
cơm, họ tồn nói chuyện vui, chuyện ở ngày mai sáng sủa : “Khi nào có tiền ta mua lấy đôi
<i>gà… Này ngoảnh đi ngoảnh lại chả mấy mà có ngay đàn gà cho mà xem…”.</i>


<b>Tác giả Vợ nhặt đã sáng tạo được một tình huống độc đáo. Một tình huống vừa rất</b>
<b>thực, vừa mang nhiều ý nghĩa biểu tượng sâu sắc. </b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(4)</span><div class='page_container' data-page=4>

đã lên án tội ác của bọn phát xít đã gây ra cho nhân dân ta nạn đói khủng khiếp vào năm 1945.
Tuy nhiên, trong hoàn cảnh khốn cùng ấy những người dân vẫn yêu thương đùm bọc nhau,
cùng khát vọng sống và hạnh phúc.


Thứ hai, tình huống vừa có ý nghĩa giúp bộc lộ sâu sắc tâm trạng, tính cách nhân vật vừa


giúp thể hiện rõ chủ đề tư tưởng của truyện : Những người đói, họ khơng nghĩ đến “<i>cái chết”</i>
mà luôn nghĩ đến “cái sống”.


<b>3. Ndung: </b>


<b>a. Bức tranh ảm đạm của nạn đói: Khơng gian làng quê Việt Nam ngày đói quay quắt, xơ</b>
xác, tiêu điều


+ Cái đói “tràn đến”: Sự hiện hình của cái đói giống như một thảm họa, một cuồng phong, càn
quét mọi sinh linh.


- Thời gian: chiều “chạng vạng” - Khơng gian: Con đường vì cái đói mà “ khẳng khiu”.
- Con người:


+ Trẻ con: ủ rũ, không buồn nhúc nhích.


+ Người sống: “từ Nam Định, Thái Bình đọi chiếu lũ lượt bồng bế, dắt díu nhau lên xanh xám
<i>như những bóng ma và nằm ngổn ngang khắp lều chợ”</i>


+ Người chết: : “ như ngả rạ. Không buổi sáng nào người trong làng đi chợ, đi làm đồng khơng
<i>gặp ba bốn cái thây năm cịng queo bên đường. Khơng khí vẩn lên mùi ẩm thối của rác rưởi và </i>
<i>mùi gây của xác người” Khơng khí chết chóc bao trùm</i>


+ Đàn quạ săn xác người cứ lượn từng đàn như những đám mây đen.


=> Bút pháp tả thực đến trần trụi, qua những so sánh cụ thể, tạo ám ảnh. Câu văn tả người sống
liền kề câu văn tả người chết, hao hao nhau, từa tựa nhau, nhấn mạnh ấn tượng về ranh giới
mong manh giữa sống và chết, cõi âm và cõi dương, chỉ chút sơ sẩy là sa vào âm địa. <sub></sub> Sự sống
đang bị đặt sát bờ vực cái chết



<b>- Nạn đói cịn ảnh hưởng sâu sắc đến cuộc đời, số phận của mỗi con người:</b>


+ Người đàn bà là vợ Tràng hiện lên như một con ma đói: “áo quần tả tơi như tổ đỉa, thị gầy
<i>sọp hẳn đi, trên cái khuôn mặt lưỡi cày xám xịt chỉ cịn thấy hai con mắt.”</i>


+ Chuyện tỏ tình của họ chỉ cịn trơ trọi là sà vào miếng ăn: “Có ăn gì thì ăn, chả ăn giầu.”
+ Người đàn bà phải từ bỏ lòng tự trọng và danh dự chỉ vì cái đói: chỉ có bốn bát bánh đúc mà
theo khơng anh chàng xấu trai, gặp tầm phào ngồi đường.


- Tràng nhặt được vợ trong khi sự sống đang đặt bên bờ vực cái chết:


+ Lấy vợ là một trong những việc trọng đại nhất đời người, cần có những nghi lễ trang trọng…
thì ở đây Tràng lại nhặt được vợ ngoài chợ như một mớ rau.


+ Tràng thân mình cịn lo khơng nổi lại cịn đèo bịng trong niềm vui hớn hở, khiến mọi người
hết sức ngạc nhiên.


</div>
<span class='text_page_counter'>(5)</span><div class='page_container' data-page=5>

- Bà mẹ chồng đãi nàng dâu mới bằng bữa cơm thê thảm, bằng món cháo cám mà bà gọi là
<i>“chè khốn”</i>




Tình huống truyện được xây dựng bất ngờ, hợp lí. Qua đó, thể hiện rõ giá trị hiện thực và nhân
đạo.


<b>* Tóm lại: Ngịi bút tài hoa của Kim Lân đã khơi lật được mảng hiện thực trần trụi “tối sầm lại </b>
vì đói khát” tạo ấn tượng về một cõi dương đậm đặc âm khí. Cả làng quê giống như một đám
ma khổng lồ mà bản nhạc huyên luôn ám ảnh chỉ chực cất lên khi có thêm một ma đói.


<b>2. Hình ảnh người nơng dân ngày đói. </b>


<b>a. Nhân vật bà cụ Tứ</b>


<b>Bà cụ Tứ là người nông dân đôn hậu và có thân phận đáng thương : nhà nghèo, gố</b>
<b>bụa, sống thầm lặng với một anh con trai “dở hơi”. Bà cụ Tứ lần đầu tiên xuất hiện ở thiên</b>
truyện là lúc bóng hồng hơn tê tái của nạn đói phủ xuống, cùng lúc đó người con trai đáng
thương của bà làm nghề kéo xe, đưa về người đàn bà xa lạ và thị gọi bà bằng u. Là người sống
gắn bó lâu với cái nghèo, gần hết cuộc đời nên khi ấy, bà đã lo nghĩ rất nhiều…


<b>Việc anh Tràng, con trai của bà “nhặt” vợ đã khiến bà khơng khỏi ngạc nhiên, ai</b>
<b>ốn xót thương, vừa mừng vừa lo.</b>


Trước hết là bà cụ tỏ ra rất ngạc nhiên . Bà cụ hiểu tình cảnh con mình hơn ai hết nên
càng khó tin con bà có vợ. Thấy người đàn bà đứng ngay ở đầu giường con mình, đến giữa sân
bà lão đứng sững lại, ngơ ngác tự hỏi : “Quái sao lại có người đàn bà nào ở trong ấy nhỉ ? Sao
<i>lại chào mình bằng u ? Ai thế nhỉ ?”… Bà cụ làm sao hiểu nổi, nghèo như con bà ai người ta</i>
them lấy mà có được vợ. Vả lại, trời làm đói khát thế này, ni thân chẳng nổi, lấy gì ni vợ
ni con ?


Khi vỡ lẽ, đã hiểu ra con mình “nhặt” được vợ, bà cúi đầu nín lặng và cảm thấy ai ốn
<b>xót xa</b> biết bao . Bà “hiểu ra biết bao nhiêu cơ sự vừa ai oán vừa xót thương cho số kiếp đứa
<i>con mình”. Ngẫm cái phận nghèo, bà tự nhủ : “Người ta có gặp bước khó khăn, đói khổ này,</i>
<i>người ta mới lấy đến con mình. Mà con mình mới có vợ được…”. Bà liên tưởng đến người</i>
chồng quá cố, đến đứa con gái đã qua đời, lịng bà trĩu nặng tủi buồn, xót xa.


Đi liền với nỗi niềm ai oán là nỗi lo của bà : “Biết rằng chúng nó có ni nổi nhau sống
<i>qua được cơn đói khát này không”. Bà cụ lo lắng thực sự cho con trai, con dâu, lo cho cái gia</i>
đình nghèo túng của bà giữa lúc đói kém này liệu có ni nổi nhau ? Tương lai sẽ ra sao…


</div>
<span class='text_page_counter'>(6)</span><div class='page_container' data-page=6>

<b>Với người con dâu, bà không rẻ rúng mà tỏ ra gần gũi, chân tình. Chính những tình</b>
<b>cảm ấy đã xố đi rất nhiều mặc cảm cho người con dâu. Sống hơn nữa đời người, bà cụ hiểu</b>


rất rõ về cái nghèo, về cái nạn đói này. Nên khi nhìn người đàn bà khốn khổ, bà cụ Tứ tỏ ra rất
hiểu hồn cảnh của thị và cảm thơng : “Người ta có gặp bước khó khăn, đói khổ này, người ta
<i>mới lấy đến con mình”. Và, xuất phát từ tấm lịng nhân hậu bà lão đã chấp nhận thị là dâu : “Nó</i>
<i>bây giờ là dâu là con trong nhà rồi”. Bà cụ chấp nhận thị làm dâu trong nhà không chỉ xuất</i>
phát từ tình cảm nhân ái của con người. Mà với bà cụ Tứ, bà đón nhận người đàn bà kia như
đón nhận “ân nhân” của gia đình bà. Bởi lẽ, con bà khơng thể nào có vợ, bổn phận bà là mẹ, bà
đã chẳng lo lắng được cho con chuyện vợ con, thị đã thay bà lo việc ấy cịn gì. Cũng vì lẽ đó mà
trong lời nói với nàng dâu, bà luôn tỏ ra một thái độ rất chân tình, thân mật : “Bà lão hạ thấp
<i>giọng xuống thân mật : - Kể có ra làm được dăm ba mâm thì phải đấy”. Sáng hơm sau, trong</i>
bữa cơm bà tươi cười và đon đả múc cho con dâu những bát cháo… Chính những tình cảm ấy
đã làm cho người con dâu xoá đi những mặc cảm để cùng hướng về một ngày mai tươi sáng.


<b>Tuy có buồn lo, xót xa trước hồn cảnh, nhưng lịng người mẹ nghèo khổ ấy vẫn bộc</b>
<b>lộ một sự lạc quan và niềm tin mãnh liệt vào cuộc sống, luôn động viên và vun đắp hạnh</b>
<b>phúc cho đôi trẻ. Bằng những triết lí giản dị từ kinh nghiệm sống của đời bà, người mẹ nông</b>
dân suốt đời kham khổ ấy đã cố gieo vào hai con những ý nghĩ tốt đẹp về tương lai : “<i>Rồi ra</i>
<i>may mà ông giời cho khá (…) ai giàu ba họ ai khó ba đời ? Có ra thì rồi con cái chúng mày về</i>
<i>sau”. Mặc dù cuộc sống khắc nghiệt, ngặt nghèo đến tàn bạo đã đày đoạ mẹ con bà, bà Tứ vẫn</i>
cố tạo ra khơng khí hồ thuận ấm cúng trong gia đình và kể tồn chuyện vui, chuyện làm ăn,
chăn ni... : “Tràng ạ. Khi nào có tiền ta mua lấy đơi gà […] Này ngoảnh đi ngoảnh lại chả
<i>mấy mà có ngay đàn gà cho mà xem”…</i>


<b>Hình tượng nhân vật bà cụ Tứ đã thể hiện sự thành công của tác giả trong</b> <b>nghệ</b>
<b>thuật khắc hoạ hình tượng và miêu tả diễn biến tâm lí của nhân vật</b>. Đó là tâm trạng phức
tạp, đầy mâu thuẫn nhưng rất chân thực và tinh tế của một người mẹ nghèo trước tình cảnh
khốn cùng của con mình.


<b>Tóm lại, nhân vật bà cụ Tứ là hiện thân của những nét đẹp truyền thống. Trong cái</b>
thân hình khẳng khiu, tàn tạ, với cái mặt bủng beo, u tối, bà vẫn nung nấu một ý chí sống mãnh
liệt. Bà là hình ảnh của những người mẹ nghèo khổ mà từng trải, hiểu biết, hết lòng yêu thương


con, yêu thương những cảnh đời tội nghiệp, oái ăm, lòng nung nấu một khát vọng về cuộc sống
gia đình hạnh phúc.


</div>
<span class='text_page_counter'>(7)</span><div class='page_container' data-page=7>

<b>b. Nhân vật anh Tràng</b>


<b>Nhân vật Tràng xuất hiện với một thân phận đáng thương. Tràng có vẻ ngồi xấu xí,</b>
thơ kệch : “Đầu trọc nhẵn, hai con mắt nhỏ tí, gà gà, quai hàm bạnh ra, cái lưng to rộng như
<i>lưng gấu, đi thì cứ chúi đầu về phía trước lại hay nói lầm bầm trong miệng, khi cười thì ngửa</i>
<i>mặt lên cười hềnh hệch”. Tràng mồ côi bố, sống với mẹ già, nhà nghèo và làm nghề kéo xe bò</i>
thuê, lại là dân ngụ cư. Dân ngụ cư là những người vốn từ nơi khác đến. Vì thế, dân ngụ cư
khơng có ruộng đất, chỉ đi làm thuê làm mướn. Đã vậy, họ còn bị phân biệt đối xử, thường phải
ở nơi bìa làng, hoặc ở chỗ hẻo lánh. Với những đặc điểm như vậy, có thể nói Tràng có nguy cơ
“ế vợ” rất cao.


<b>Điều bất ngờ xảy ra với Tràng là bỗng dưng Tràng có được vợ. </b>


Thật ra, ban đầu Tràng khơng chủ tâm tìm vợ . Khi đẩy xe bò mệt mỏi anh chỉ hò một câu
cho vui, để xua đi mỏi mệt : " Muốn ăn cơm trắng mấy giò này/ Lại đây mà đẩy xe bị với anh
<i>nì". Ai ngờ có người đàn bà đói xơng xáo đến đẩy xe thật. Vì đùa vui nên Tràng đã khơng giữ</i>
đúng thỏa thuận của câu hị. Nhưng Tràng cũng cảm thấy hạnh phúc biết bao khi gặp được cái
<i>"cười tít mắt của thị" bởi "từ xưa đến giờ có ai cười với hắn một cách tình tứ như vậy đâu".</i>


Lần thứ hai gặp lại người đàn bà, trước mặt hắn là một người đàn bà thảm hại đã bị cái
đói tàn hại cả nhan sắc lẫn nhân cách. Tràng động lòng thương. Thế rồi Tràng cho người đàn bà
kia ăn, khơng chỉ cho ăn mà cịn cho ăn rất nhiều " bốn bát bánh đúc". Vốn tính hay đùa, Tràng
lại tầm phơ tầm phào "Nói đùa chứ có về với tớ thì ra khn đồ lên xe rồi về". Nói đùa thế thơi, ai
ngờ thị về thật. Vậy là, Tràng đã “nhặt” được vợ !


<b>Sự kiện bất ngờ “nhặt” được vợ đã làm thay đổi cuộc đời, số phận của Tràng</b>. Có
<b>được vợ, Tràng như đã thành một con người khác với những biểu hiện tâm trạng như : lo</b>


<b>lắng, ngạc nhiên, vui mừng, hạnh phúc và ý thức về bổn phận trách nhiệm đối với gia đình</b>
<b>trong Tràng trỗi dậy.</b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(8)</span><div class='page_container' data-page=8>

Tràng và người đàn bà kia như hai cành củi khô nhưng họ đã chụm vào nhau để nhen lên
ngọn lửa. Tội nghiệp thay, người này thì cần hạnh phúc cịn người kia thì lại cần chỗ dựa. Một
người vì tình yêu, người kia vì miếng ăn. Nói tóm lại là họ liều, nhưng cái liều kia của họ làm
người ta bật khóc. Bây giờ thì họ là người dũng cảm, dũng cảm bởi vì họ dám nắm tay nhau để
bước qua ranh giới của sự sống và cái chết. Họ làm ta khâm phục và kính trọng, phải chăng hai
con người khốn khổ ấy là niềm tin của Kim Lân về một giống nịi sẽ tiếp nối, sẽ sinh sơi khi mà
cả dân tộc đang đứng trước sự diệt vong của nạn đói ?


Chuyện khó thể xảy ra nhưng đã xảy ra, việc Tràng có vợ cũng đã khiến cho Tràng khơng
khỏi <b> ngạc nhiên . Về đến nhà rồi mà hắn vẫn cịn ngờ ngợ như khơng phải là chuyện có thật.</b>
Đến sáng hơm sau mà hắn vẫn cịn ngạc nhiên : “Việc hắn có vợ đến hơm nay hắn vẫn cịn ngỡ
<i>ngàng như không phải”. Sao không ngạc nhiên ? Nếu khơng có nạn đói này thì chắc chuyện hắn</i>
có vợ sẽ không bao giờ xảy ra. Hắn hiểu thế nên mới ngạc nhiên.


Tất nhiên khi có được vợ, Tràng cũng tỏ ra thích chí và tự đắc (có tới khoảng 20 lần
nhà văn miêu tả gương mặt Tràng biểu lộ niềm vui khi có vợ). Trên đường về, “Mặt hắn có một
<i>vẻ gì phớn phở khác thường. Hắn tủm tỉm cười nụ một mình và hai mắt thì sáng lên lấp lánh</i>”,
“cái mặt cứ vênh lên tự đắc với mình”… Tự đắc cũng phải, vì Tràng cũng thừa biết, người như
hắn thì khơng thể có vợ. Nên bây giờ có vợ, với hắn có thể xem đây là một “kì tích hiển hách” !


Sáng hơm sau, Tràng thay đổi rất nhiều.


Tràng thật sự đã khác với Tràng hơm qua. Trong lịng Tràng tràn ngập niềm vui sướng
miên man : “Trong người êm ái lửng lơ như người vừa ở trong giấc mơ đi ra”. Đó là tâm trạng
hạnh phúc. Tràng cảm động khi thấy mẹ và vợ dọn dẹp lại nhà cửa nhất là khi nghe tiếng chổi
tre quét từng nhát sàn sạt trên sân. Một nỗi lòng yêu thương, một nguồn vui sướng, phấn chấn
đột ngột tràn ngập trong lòng "Bỗng nhiên hắn thấy hắn thương yêu gắn bó với cái nhà của hắn


<i>lạ lùng. Hắn đã có một gia đình. Hắn sẽ cùng vợ sinh con đẻ cái ở đấy. Cái nhà như cái tổ ấm</i>
<i>che mưa che nắng". Từ đó, Tràng nhận ra trách nhiệm của mình với gia đình, cái mà trước đây</i>
Tràng chưa bao giờ nghĩ tới : “Bây giờ hắn mới thấy hắn nên người, hắn thấy hắn có bổn phận
<i>phải lo lắng cho vợ con sau này…”. </i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(9)</span><div class='page_container' data-page=9>

Qua sự biến đổi tâm trạng của nhân vật Tràng, ta thấy vẻ đẹp tâm hồn, tính cách nhân
vật : tình thương, niềm khao khát hạnh phúc, niềm lạc quan tin tưởng vào tương lai, đồng thời
thấy được tình cảm nhân đạo của nhà văn dành cho người lao động nghèo khổ.


Thơng qua tình huống truyện độc đáo – tình huống Tràng nhặt vợ, bút pháp xây dựng
hình tượng nhân vật và nghệ thuật diễn tả tâm trạng nhân vật chân thực, sinh động, tinh tế nhà
văn đã tạo nên những trang văn đặc sắc về người nông dân nghèo.


<b>Bài học nhân sinh: </b>


- Ngay trên bờ vực cái đói, khi tưởng như miếng ăn là nhu cầu bức thiết thì tình người, giá trị
con người và khao khát được yêu thương vẫn cao quí hơn cả và vẫn không bị mất đi.


- Hạnh phúc làm thay đổi con người. Trong tăm tối khốn cùng, khát vọng được yêu thương
giống như một bản năng bất diệt vẫn cháy sáng.


- Đặt nhân vật trong tình huống đặc biệt, một mặt nhà văn lột tả được đời sống khổ cực của
người nơng dân trong năm đói, mặt khác khám phá vẻ đẹp kì diệu nơi tâm hồn của họ.
<b>c. Nhân vật người vợ nhặt</b>


<b>Vợ nhặt xoay quanh câu chuyện của 3 ng trong 1 gia đình ngụ cư. Điều lạ là 1 ng làm nên </b>
<b>chính cái tên của truyện lại ko có tên. Ko biết tuổi. Đó chính là vợ T. Ng phụ nữ ấy chỉ là 1</b>
<b>trong số hàng ngàn, hàng vạn thân phận phụ nữ cùng thời. Do đó ng ấy rất dễ bị lãng </b>
<b>quên, ít ai chú ý tới nhưng với nhà văn đó là 1 số phận ko thể bỏ qua, 1 số phận gây nhức </b>
<b>nhối, trăn trở. Sự hấp dẫn của n/vật nữ này phải chăng là 1 ng từ cõi mù mịt ko đâu vào </b>


<b>đâu lại trở thành 1 nàng dâu hiếu thảo, hiền thục của bà cụ Tứ ?</b>


<b>Nhân vật người vợ nhặt xuất hiện với một thân phận thật bi thương. Người vợ nhặt</b>
là con số khơng trịn trĩnh : khơng tên tuổi, không quê hương, không quá khứ. Từ đầu đến cuối
tác phẩm, nhân vật này chỉ được gọi là “cô ả”, là “thị”, là “người đàn bà”,…


Chân dung chị ta hiện ra ngay từ đầu là những nét không mấy dễ nhìn. Đó là hình ảnh
một người đàn bà gầy vêu vao, ngực gầy lép, khuôn mặt lưỡi cày xám xịt, cịn quần áo thì rách
như tổ đĩa.


Chị ta hiện ra trước mặt mọi người với điệu bộ cịn xa mới gọi là dịu dàng. Đàn bà gì mà
“sầm sập chạy tới”, “sưng sỉa nói”, “đứng cong cớn trước mặt hắn”… Đã thế, chị ta thuộc loại
ăn nói chỏng lỏn, ghê gớm, mở miệng thì “Điêu ! Người thế mà điêu”, “bỏ bố”…


</div>
<span class='text_page_counter'>(10)</span><div class='page_container' data-page=10>

Nói tóm lại, hồn cảnh của cái đói đã “bóp méo” hình hài, nhân cách của một người đàn
bà đến đáng thương, tội nghiệp. Chiều sâu tư tưởng của tác phẩm là thông qua những số phận bi
thương, tác giả thể hiện sự đồng cảm đối với họ, đồng thời tố cáo mạnh mẽ tội ác của bọn Thực
dân, phát xít đã gây ra nạn đói khủng khiếp năm 1945.


Tuy nhiên, khơng dừng lại ở đó. Nhà văn cịn tập trung miêu tả những thay đổi, nói
<b>đúng hơn là sự “phục hồi” nhân cách tốt đẹp của nhân vật này từ khi thị về làm vợ Tràng.</b>


Thực ra, tất cả những nét đanh đá, chỏng lỏn, chao chát ấy chỉ là cái vẻ bề ngồi mà chị
ta phơ ra để chóng chọi với đời. Còn con người thật của chị ta, khi đi cới Tràng mới hiện lên
đầy đủ.


Trên đường về cùng Tràng, thị đã bắt đầu biết e thẹn : “Thị cắp cái thúng con, đầu hơi
<i>cúi xuống, cái nón rách tàng nghiêng nghiêng che khuất đi nửa mặt”, “đưa tay lên xốc xốc lại</i>
<i>tà áo”. Khi biết mọi người đang nhìn mình, “thị càng ngượng nghịu, chân nọ bước díu cả vào</i>
<i>chân kia”.</i>



Về đến nhà, “Thị lẳng lặng theo hắn vào trong nhà”, “ngồi móm xuống mép giường”, cái
thế ngồi rất rụt rè và chơng chênh. Đó cũng chính là cái tâm trạng ngổn ngang trăm mối của
lịng người khi có một quyết định hệ trọng.


Nhưng có lẽ nét đẹp của người đàn bà ấy, thực sự hiện ra rõ nhất là sau buổi gặp gỡ với
bà cụ Tứ và buổi sáng hôm sau của cuộc đời làm vợ. Sáng sớm ra, chị đã thức dậy rất sớm cùng
người mẹ chồng thu dọn, quét tước nhà cửa. Rồi chị ngoan ngoãn vào trong bếp dọn dọn cơm.
Trong thấy chị lúc này, Tràng không khỏi cảm nhận về thị “rõ ràng là người đàn bà hiền hậu
<i>đúng mực khơng cịn vẻ gì chao chát chỏng lỏn như mấy lần Tràng gặp ngoài tỉnh”. Và bà cụ</i>
Tứ thì “nhẹ nhõm, tươi tỉnh khác ngày thường, cái mặt bủng beo u ám của bà rạng rỡ hẳn lên”.
Một chi tiết nữa khiến người đọc không thể quên ở người vợ nhặt là chi tiết chị bưng lấy bát chè
cám mà người mẹ chồng đưa cho. Hai con mắt chị “tối lại” nhưng ngay lúc đó chị “điềm nhiên
<i>và vào miệng”. Đây là một chi tiết đắt giá. Chị không nỡ làm mất đi niềm vui tội nghiệp của</i>
người mẹ già nua kia. Hoá ra người vợ nhặt vô danh ấy lại không vô nghĩa. Chị đã mang đến
một làn gió tươi mát cho cuộc sống tăm tối bên bờ cái chết.


</div>
<span class='text_page_counter'>(11)</span><div class='page_container' data-page=11>

Bằng nghệ thuật xây dựng tình huống truyện độc đáo, nghệ thuật xây dựng hình
<b>tượng nhân vật sắc sảo tác giả đã tạo nên một nhân vật gây ấn tượng lâu bền trong lòng người</b>
đọc, đồng thời tạo cho tác phẩm chứa đựng nhiều giá trị nhân văn sâu sắc.


<b>4. Giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo: Vợ nhặt của Kim Lân là một tác phẩm xuất sắc </b>
<b>thể hiện rất rõ giá trị hiện thực.</b>


<b>Thứ nhất, bức tranh hiện thực của Vợ nhặt chính là bức tranh nạn đói khủng khiếp</b>
<b>năm 1945 được tái hiện cụ thể. Cái đói đã tràn xuống, làm cho xóm ngụ cư vốn nghèo khổ giờ</b>
đây càng xơ xác, thê lương. Cái đói hồnh hành làm cho nhiều người “xanh xám nhưng những
<i>bóng ma, và nằm ngổn ngang khắp lều chợ”. Cảnh tang tóc bao trùm lên xóm : “người chết như</i>
<i>ngả rạ, khơng khí vẩn lên mùi ẩm thối của rác rưởi và mùi gây của xác người”.</i>



<b>Thứ hai, bức tranh hiện thực của tác phẩm là tình cảnh đau khổ, nỗi căm hờn và</b>
<b>phản kháng của nhân dân trước nạn đói ấy. Cái đói đã làm cho con người bị biến dạng cả</b>
nhân hình và tính cách. Một cơ gái rách rưới, áo quần tả tơi như tổ đĩa, mặt lười cày, chỉ qua
mấy câu đùa cợt, sẵn sàng sà xuống ăn một chập bồn bát bánh đúc, rồi sẵn sàng theo một người
đàn ơng xa lạ, hịng thốt khỏi cảnh chết đói. Cịn anh Tràng thì túng thế đành phải đi “nhặt”
vợ…


Hình ảnh thê lương của nạn đói năm 1945 đã tố cáo tội ác tày trời của bọn phát xít Nhật.
Chúng đã đẩy nhân dân ta vào vịng cùng khổ, chết chóc. Tâm trạng của quần chúng trước cơn
bão tố của lịch sử được bộc lộ. Bà cụ Tứ đã than thở với con dâu : “Đằng thì nó bắt giồng đay,
<i>đằng thì nó bắt đóng thuế”. Trong đoạn cuối truyện, khi người con dâu nghe tiếng trống thúc</i>
thuế thì bảo : “ Trên mạn Thái Nguyên, Bắc Giang người ta khơng chịu đóng thuế nữa đâu.
<i>Người ta cịn phá cả kho thóc của Nhật, chia cho người đói nữa đấy”.</i>


<b>Vợ nhặt của Kim Lân chứa đựng giá trị nhân đạo sâu sắc, được thể hiện ở nhiều</b>
<b>phương diện :</b>


<b>Thứ nhất, Vợ nhặt là niềm đồng cảm, xót xa, day dứt của một cây bút gắn bó thực</b>
<b>sự với nông dân. Tác phẩm bắt đầu bằng việc miêu tả sự đổi thay to lớn của xóm làng khi nạn</b>
đói tràn tới . Anh cu Tràng, một người vơ tư, vui tính, được trẻ con u mến mà nay “đi từng
<i>bước mệt mỏi”, “cái đầu trọc nhẵn chúi về đằng trước”. Các lều chợ đầy những người đói bồng</i>
bế , dắt díu nhau “xanh xám như những bóng ma”, sáng nào cũng thấy ba bốn cái xác người
chết đói nằm ngổn ngang. Làng xóm xơ xác, đêm về khơng nhà nào có ánh đèn, lửa. Hình như
khơng ai tin mình có thể sống qua nạn đói.


</div>
<span class='text_page_counter'>(12)</span><div class='page_container' data-page=12>

người trở nên mất giá. Cô gái theo Tràng chỉ vì vài câu nói đùa và bốn bát bánh đúc làm cỗ
cưới. Nhưng đó khơng phải là cách nhìn của nhà văn. Với cái nhìn nhân đạo, nhà văn nhìn thấy
khát vọng sống cịn bức thiết của cơ gái . Ơng cũng thấy niềm khát khao có được vợ của anh cu
Tràng. Anh cũng liều lĩnh tặc lưỡi : “Kệ”, cứ đón cơ ta về đã. Trong hồn cảnh đói khủng khiếp
ấy, khát vọng của họ rất đáng cảm thông, chia sẻ.



<b>Thứ hai, nhà văn đã phát hiện và miêu tả chân thực, sinh động, đồng thời trân trọng</b>
<b>những phẩm chất tốt đẹp của những người lao động nghèo khổ trong cảnh tàn khốc của</b>
<b>nạn đói. </b>


Lịng u thương, trân trọng của tác giả đối với những người bất hạnh thể hiện ở cảnh dắt
díu nhau về làng của cả hai người. Nhà văn khơng hề có chút rẻ rúng nào khi miêu tả cuộc về
làng của họ. Với anh Tràng, bằng ngịi bút tươi vui, dí dỏm, tinh tế tác giả đã khắc họa mọi
cảm nhận hạnh phúc của anh Tràng. Hơn hai mươi lần truyện ngắn nhắc đến nụ cười của Tràng
với nhiều sắc thái khác nhau. Đi bên thị, anh “quên hết những cảnh sống e chề, tăm tối hàng
<i>ngày, quên cả cái đói khát ghê gớm đang đe doạ…”. Đó là gì, nếu khơng phải do anh đã thấy ở</i>
cô gái một nguồn ấm áp tươi sáng tỏa rạng đời mình, với cơ gái anh có thể tìm được hạnh phúc.
Và kể từ khi “nhặt” được vợ, anh Tràng thay đổi rất nhiều. Nhất là buổi sáng hôm sau, “hắn
<i>thấy hắn thương yêu gắn bó với cái nhà của hắn lạ lùng. Hắn đã có một gia đình. Hắn sẽ cùng</i>
<i>vợ sinh con đẻ cái ở đấy. Cái nhà như cái tổ ấm che mưa che nắng” và “hắn thấy hắn có bổn</i>
<i>phận phải lo lắng cho vợ con sau này”. Như vậy, khát vọng hạnh phúc và niềm tin vào tương</i>
lai tươi sáng đã làm Tràng quên đi nỗi sợ hãi và quên đi cái đói.


Về người vợ nhặt cũng vậy, cơ khơng hề có một chút mặc cảm thân phận “ bị nhặt ”. Bên
cạnh dáng vẻ thẹn thùng của nàng dâu mới về nhà chồng, cơ cịn biết chăm chỉ, chịu khó, biết
tạo niềm vui, đồng thời có một niềm tin và khát khao hạnh phúc gia đình. Sáng sớm ra, chị đã
thức dậy rất sớm cùng người mẹ chồng thu dọn, quét tước nhà cửa. Rồi chị ngoan ngoãn vào
trong bếp dọn dọn cơm. Trong thấy chị lúc này, Tràng không khỏi cảm nhận về thị “rõ ràng là
<i>người đàn bà hiền hậu đúng mực khơng cịn vẻ gì chao chát chỏng lỏn như mấy lần Tràng gặp</i>
<i>ngoài tỉnh”. Và bà cụ Tứ thì “nhẹ nhõm, tươi tỉnh khác ngày thường, cái mặt bủng beo u ám</i>
<i>của bà rạng rỡ hẳn lên”. Một chi tiết nữa khiến người đọc không thể quên ở người vợ nhặt là</i>
chi tiết chị bưng lấy bát chè cám mà người mẹ chồng đưa cho. Hai con mắt chị “<i>tối lại” nhưng</i>
ngay lúc đó chị “điềm nhiên và vào miệng”. Đây là một chi tiết đắt giá. Chị không nỡ làm mất
đi niềm vui tội nghiệp của người mẹ già nua kia. Bao nhiêu đó cũng đủ chứng minh thị có niềm
tin và khao khát có một chỗ dựa, một mái ấm gia đình biết dường nào.



</div>
<span class='text_page_counter'>(13)</span><div class='page_container' data-page=13>

bà là mẹ, bà thấy sự “nhặt vợ” cũng là may, nên bà mừng lòng, bà ni hi vọng cho đơi trẻ. Bà
mẹ nhìn con dâu lịng đầy thương xót, khơng chút coi thường. Bà nghĩ đến việc phải có “dăm
<i>ba mâm cho phải lẽ”, chứng tỏ trong lịng bà khơng vướng ý nghĩ “nhặt khơng người đàn bà”</i>
cho con mình . Đó là tình cảm nhân đạo có tác dụng nâng cao phẩm giá con người. Đó là gì,
nếu khơng là tình thương u, đùm bọc con người của bà. Hơn nữa, từ khi có thị trong nhà, bà
cụ “nói tồn chuyện vui, tồn chuyện sung sướng về sau này…”. Bằng triết lí giản dị từ kinh
nghiệm sống của đời mình, bà bộc lộ một niềm tin mãnh liệt vào cuộc sống. Bà khuyên bảo hai
con chí thú làm ăn để “may ra mà ông giời cho khá… Biết thế nào hở con, ai giàu ba họ, ai khó
<i>ba đời ?...” và cùng hai con tính chuyện tương lai : “Khi nào có tiền ta mua lấy đôi gà […] Này</i>
<i>ngoảnh đi ngoảnh lại chả mấy mà có ngay đàn gà cho mà xem”…</i>


<b>Thứ ba, nhà văn đã tố cáo mạnh mẽ tội ác của bọn thực dân, phát xít đã gây ra nạn</b>
<b>đói làm cho người dân rơi vào tình cảnh khốn cùng. Ngịi bút của Kim Lân khơng trược tiếp</b>
miêu tả những tội ác của bọn phát xít. Hình ảnh thê lương của nạn đói năm 1945 đã tố cáo tội ác
tày trời của bọn phát xít Nhật. Chủ trương bắt nhân dân ta nhổ lúa trồng đay của chúng chính là
nguyên nhân của nạn đói khủng khiếp này. Bà cụ Tứ đã than thở với con dâu : “Đằng thì nó bắt
<i>giồng đay, đằng thì nó bắt đóng thuế”. </i>


<b>Ngồi ra, thông qua Vợ nhặt, tác giả đã hướng những con người khốn khổ đến con</b>
<b>đường giải thốt cuộc đời mình, hứa hẹn một tương lai tươi sáng cho họ. Không phải ngẫu</b>
nhiên mà ở cuối truyện có chi tiết người vợ nhặt kể chuyện ở mạn Thái Nguyên, Bắc Giang
người ta cướp thóc của Nhật chia cho dân nghèo. Khi hiểu ra những người phá kho thóc là Việt
Minh, Tràng thấy ân hận, tiếc rẻ vẩn vơ, khó hiểu. Rồi “Trong óc Tràng vẫn thấy đám người
<i>đói và lá cờ đỏ bay phấp phới”… Có thể người đọc sẽ nghĩ rằng, rồi đây trong đồn người cướp</i>
tho thóc ấy sẽ có anh Tràng. Tất yếu như vậy ? Vì đó là con đường giải phóng họ ra khỏi cái
đói, cái chết đói ! Tác giả đã khắc hoạ trạng thái tâm lí cá nhân bị dồn ép vào sự thay đổi số
phận của dân tộc.


Tóm lại tác phẩm là một truyện ngắn chứa chan tình cảm nhân đạo. Nó khẳng định sức


sống tiềm tàng trong mỗi con người và khát vọng hạnh phúc khơng gì có thể vùi lấp nổi. Đó là
một tư tưởng nhân đạo mới mẻ, đầy tính chiến đấu .


<b>Ý nghĩa nhan đề của truyện Vợ nhặt:</b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(14)</span><div class='page_container' data-page=14>

+ Nhưng "vợ" lại là sự trân trọng. Người vợ có vị trí trung tâm xây dựng tổ ấm. Trong tác
phẩm, gia đình Tràng từ khi có người vợ nhặt, mọi người trở nên gắn bó, quây quần, chăm lo,
thu vén cho tổ ấm của mình.


+ Như vậy, nhan đề Vợ nhặt vừa thể hiện thảm cảnh của người dân trong nạn đói 1945 vừa
bộc lộ sự cưu mang, đùm bọc và khát vọng, sức mạnh hướng tới cuộc sống, tổ ấm, niềm tin của
con người trong cảnh khốn cùng.


<b>Kim Lân đã miêu tả cảnh nạn đói bằng những chi tiết gì? Cảnh nạn đói có ý nghĩa như</b>
<b>thế nào trong việc thể hiện chủ đề tác phẩm?</b>


<b>Kim Lân đã miêu tả cảnh nạn đói bằng những chi tiết :</b>


Tình huống truyện đã làm làm nổi bật một sự thật thê thảm của người nơng dân trước cách
mạng. Đó là nạn đói khủng khiếp năm 1945 mà Kim Lân đã miêu tả bằng những chi tiết cụ thể,
chân thật, giàu ý nghiã nghệ thuật. Cái đói đã tràn vào tự lúc nào làm thay đổi mọi sinh hoạt,
bao trùm một khơng khí ảm đạm lên xóm chợ của những người ngụ cư. Trẻ con khơng cịn trêu
đùa mà ngồi ủ rũ dưới những xó tường khơng buồn nhúc nhích. Những người đói khát từ vùng
Thái Bình, Nam Định “đội chiếu lũ lượt bồng bế, dắt díu nhau lên xanh xám như những bóng
ma, và nằm ngổn ngang khắp lều chợ”. “Người chết như ngả rạ , không buổi sáng nào người
trong làng đi chợ, đi làm đồng khơng gặp ba bốn cái thây nằm cịng queo bên đường. Khơng khí
vẩn lên mùi ẩm thối của rác rưởi và mùi gây của xác người”.


<b>Cảnh nạn đói có ý nghĩa trong việc thể hiện chủ đề tác phẩm : </b>



Những dòng miêu tả từ tốn lặng lẽ của Kim Lân có sức tố cáo tội ác tày trời của thực dân
Pháp và phát xít Nhật. Đằng thì nó bắt đóng thuế nộp thóc gạo, đằng thì nó bắt nhổ lúa giồng
đay khiến người người dân lâm vào cảnh chết đói.


<b>Hình ảnh người Vợ nhặt được Kim Lân miêu tả bằng những chi tiết nào?Ý nghĩa của </b>
<b>nhân vật này trong việc bộc lộ chủ đề tác phẩm?</b>


- Hình ảnh người Vợ nhặt được Kim Lân miêu tả bằng những chi tiết: Cái đói, qua ngịi
bút của Kim Lân đã ảnh hưởng sâu sắc đến cuộc đời và số phận của người dân lao động. Người
đàn bà, vợ theo của Tràng hiện lên như một con ma đói: “Áo quần tả tơi như tổ đỉa, thị gầy sọp
<i>hẳn đi, trên khuôn mặt lưỡi cày xám xịt chỉ cịn có hai con mắt”.Gặp Tràng, chị gợi ý để được </i>
ăn và theo Tràng về nhà sau một lời nói đùa. Cái đói đã làm cho chị cùng đường liều lĩnh phải
từ bỏ lòng tự trọng và danh dự vốn có của người đàn bà. Chỉ có bốn bát bát bánh đúc mà theo
không một anh chàng xấu trai gặp giữa đường.Và bữa cơm đầu tiên đón nàng dâu mới trơng
thật thảm hại. Đêm tân hơn của vợ chồng Tràng có tiếng hờ khóc tỉ tê của nhà những người chết
đói. Niềm hạnh phúc của vợ chồng Tràng diễn ra dưới sự rập rình đe dọa của cái nghèo cái đói.


- Ý nghĩa của nhân vật này trong việc bộc lộ chủ đề tác phẩm : Xây dựng nhân vật vợ


Tràng, nhà văn đã gián tiếp tố cáo một xã hội đẫ đẩy con người đến sự rẻ rúng, tha hoá về nhân
phẩm chẳng qua vì sự đói khát. Thế nhưng, trong cảnh ngộ của mình bi đát, con người vẫn ln
vươn tới sự sống, hướng tới tương lai và ở một hoàn cảnh nhân đạo hơn, phẩm giá con người đã
sống dậy.


<b>Ý nghĩa chi tiết nồi cháo cám và lời khen ngon của bà cụ Tứ trong bữa cơm ngày đói? </b>
<b>Ý nghĩa :</b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(15)</span><div class='page_container' data-page=15>

- Chọn hình ảnh - Chọn hình ảnh nồi cháo cám , Kim Lân muốn chứng minh cho chất NGƯỜI : trong bất kỳnồi cháo cám , Kim Lân muốn chứng minh cho chất NGƯỜI : trong bất kỳ
hòan cảnh nào, tình nghĩa và hy vọng của con người vẫn khơng thể bị tiêu diệt. Con người vẫn
hịan cảnh nào, tình nghĩa và hy vọng của con người vẫn không thể bị tiêu diệt. Con người vẫn


muốn sống cho ra sống.


muốn sống cho ra sống.


<b> Ở phần cuối truyện ngắn “Vợ nhặt”của Kim Lân, trong ý nghĩ của Tràng hiện lên những </b>
<b>hình ảnh nào? Những hình ảnh đó nói lên điều gì? </b>


- Trong đọan cuối của truyện ngắn ”Vợ nhặt”, trong ý nghĩ của Tràng hiện lên hai hình ảnh :
Hình ảnh đám người đói và lá cờ đỏ bay phấp phới.


- Hai hình ảnh ấy có ý nghĩa :


+Về nội dung : Tràng đã nghĩ đến những người đói được Việt Minh phá kho thóc của
Nhật chia cho. Lá cờ đỏ thắm là hình ảnh của cách mạng.Lá cờ gắn với ước mơ , tín hiệu dự
báo về một sự đổi đời…


+Về nghệ thuật : Tạo kết thúc mở cho tác phẩm của giai đoạn văn học mới ( đây là điểm
<i>khác so với văn học hiện thực phê phán 1930-1945). </i>


<b>Hãy chỉ ra đặc sắc nghệ thuật của tác phẩm Vợ nhặt?</b>


<b>Nêu tình huống truyện trong truyện ngắn “Vợ nhặt” của Kim Lân, từ đó nhận xét về thái</b>
<b>độ của nhà văn với con người và thực trạng xã hội đương thời.</b>


a.Tình huống truyện của tác phẩm:


<b> </b><i><b> Trước hết, Tràng là một là một người mồ côi cha, ở với mẹ già tại xóm ngụ cư. Nhà</b></i>
nghèo, hắn làm nghề kéo xe bị th. Tràng có một ngoại hình xấu xí, thơ kệch. Đã thế lại có
phần dở người. Lời ăn tiếng nói cũng thơ kệch như chính ngoại hình của hắn. Có thể nói, nguy
cơ ế vợ đã rõ. Đã vậy, gặp năm đói khủng khiếp, cái chết ln ln đeo bám .Trong lúc không


một ai ( kể cả Tràng) nghĩ đến chuyện dựng vợ, gả chồng thì đột nhiên Tràng có vợ, mà lại có
vợ bằng cách nhặt được. Trong hồn cảnh ấy, Tràng có vợ cũng là phải có thêm một miệng ăn
và cũng là đem thêm tai hoạ về cho mình và mẹ, đẩy mau mình và mẹ đến cái chết. Như vậy,
việc Tràng có vợ là một nghịch cảnh éo le, vui buồn lẫn lộn, cười ra nước mắt.Chính điều này
đã làm cho nhiều người ngạc nhiên :


Đó là những người dân trong xóm ngụ cư : họ ngạc nhiên, bàn tán, phán đoán rồi họ cùng
nghĩ : “ biết có ni nổi nhau qua được cái thì này khơng?” Cịn bà cụ Tứ - mẹ Tràng- lại càng
ngạc nhiên . Lúc đầu bà lão không hiểu, rồi bà “ cúi đầu im lặng” với bao tâm sự vui - buồn lẫn
lộn “ biết chúng có ni nổi nhau sống qua được cơn đói khát này khơng?”. Nhất là, ngay chính
bản thân Tràng cũng bất ngờ với chính hạnh phúc của mình“ nhìn thị ngồi ngay giữa nhà đến
<i>bây giờ, hắn vẫn còn ngờ ngợ”. Thậm chí , sáng hơm sau Tràng cảm thấy “ êm ái như từ giấc</i>
<i>mơ đi ra”. </i>


<i><b> Tóm lại, tình huống truyện mà Kim Lân xây dựng vùa bất ngờ nhưng lại hợp lý, tạo sức</b></i>
hấp dẫn và nhiều suy nghĩ cho người đọc.


<b> b.Thái độ của nhà văn: </b>
<b> - Với người dân lao động:</b>


<b> </b><i><b> Qua câu chuyện, nhà văn đã dành những tình cảm tốt đẹp nhất đối với con người</b></i>
<b>nghèo khổ bằng cả tấm lịng nhân hậu của mình. Ông xót thương cho dân tộc trước thảm</b>
hoạ đói chết. Ông cũng ái ngại cho người con gái bị nạn đói cướp đi gần hết ( gia đình, nhan
<i>sắc, tính cách, tên tuổi …).</i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(16)</span><div class='page_container' data-page=16>

nói, nhà văn rất trân trọng và tự hào về vẻ đẹp nhân tính của con người lao động nghèo trước
thảm hoạ đau thương , chết chóc.


Đồng thời nhà văn còn tập trung ca ngợi những phẩm chất tốt đẹp của nhân dân lao động
qua hình ảnh của bà cụ Tứ : một người mẹ giàu tình thương con, giàu lịng nhân hậu và niềm


tin vào cuộc sống à đây cũng chính là niềm tin của nhà văn vào phẩm chất tốt đẹp của con
người.


<b> -Với thực trạng xã hội đương thời, thơng qua tình huống truyện, nhà văn lên án và tố cáo</b>
tội ác của Nhật –Pháp đã đẩy nhân dân ta vào thảm hoạ đói nghèo, chết chóc. Chính chúng đã
làm cho giá trị con người trở thành rẻ rúng như rơm như rác : vợ mà nhặt được .


<b>Qua truyện ngắn “Vợ nhặt”, Kim Lân muốn gởi đến người đọc ý tưởng gì ?</b>


- Lên án xã hội thực dân phong kiến tàn bạo đã đẩy nhân dân ta vào nạn đói khủng khiếp nam
1945, biến con người thành vật vơ giá trị, người ta có thể nhặt bất cứ lúc nào .


- Nhà văn phát hiện và diễn tả khát vọng của người lao động. Những con người Việt Nam
lương thiện cho dù bị đẩy vào tình cảnh bi đát, phải sống trong sự đe dọa của cái chết, vẫn khao
khát tình thương, khao khát hạnh phúc gia đình, hướng về sự sống, tin tưởng tương lai (mà
tương lai gắn liền với cách mạng ).


<i><b> </b></i>


<i><b> Đã duyệt</b></i>


</div>

<!--links-->
Gián án GA L4 tuần 21 mới nhất
  • 25
  • 254
  • 0
  • Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

    Tải bản đầy đủ ngay
    ×