Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (116.85 KB, 4 trang )
<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>
<b>Ngày soạn Ngày ơn thi: </b>
<b>THƠNG ĐIỆP NHÂN NGÀY THẾ GIỚI</b>
<b>PHỊNG CHỐNG AIDS, 1-12-2003 - Cô-Phi An -nan</b>
<i><b>(1 tiết) </b></i>
<b>1. Tác giả</b>
- Cô- phi An- nan sinh ngày 8- 4- 1938 tại Gan- na, một nước cộng hoà thuộc châu Phi.
- Ông là người châu Phi da đen đầu tiên được bầu làm Tổng thư kí Liên hợp quốc và đảm nhiệm chức vụ
này 2 nhiệm kì .
- Được trao giải thưởng Nơ- ben Hồ bình năm 2001.
<b>2. Hồn cảnh ra đời</b>
Nhân Ngày thế giới phòng chống AIDS 1-12-2003, Tổng thư kí Liên hợp quốc Cơ-phi An-nan đã gửi bức thơng
điệp đến tồn thế giới, nhằm kêu gọi mọi quốc gia, tổ chức và mọi người hãy nỗ lực ngăn chặn phịng chống đại
dịch này trên tồn cầu.
<b>3. Thể loại </b>
- Văn bản nhật dụng: Là loại văn bản mà nội dung đề cập đến những vấn đề có có ý nghĩa bức thiết đối với thời
đại như vấn đề môi trường, bệnh dịch thế kỉ, vấn đề văn hố dân tộc…
- Thơng điệp: Là những lời thông báo mang ý nghĩa quan trọng đối với nhiều người, nhiều quốc gia.
<b>4 . Nội dung bản thông điệp</b>
Phịng chống HIV/AIDS <sub></sub> bức thiết của tồn nhân loại
<b> </b> <b> Những vấn đề đã đạt được.</b>
- Ngân sách phịng chống HIV tăng.
- Quỹ tồn cầu phịng chống lao, sốt rét được thông qua.
- Các nước đã xây dựng kế hoạch phịng chống HIV.
- Các cơng ty đã áp dụng chính sách phịng chống HIV nơi làm việc, nhiều nhóm từ thiện và cộng đồng phối hợp
với chính phủ và tổ chức khác phịng chống HIV.
<b> </b> <b> Những vấn đề chưa đạt được.</b>
- HIV vẫn gây tỉ lệ tử vong cao, ít có dấu hiệu suy giảm (1 phút có 10 người bị nhiễm HIV, HIV đang lây lan ở
mức báo động đối với phụ nữ, phụ nữ đã chiếm một nửa số người bị nhiễm, bệnh dịch này lan rộng ở những nơi
trước đây được coi là an toàn: châu Á, Đơng Âu, Uran đến Thái Bình Dương), điều này dẫn đến dân số có nguy
cơ giảm, ảnh hưởng đến lực lượng lao động toàn cầu.
- Chúng ta chưa đạt được chỉ tiêu đề ra trong năm 2005: chưa giảm được số thanh niên, trẻ sơ sinh nhiễm HIV,
chưa triển khai chương trình chăm sóc tồn diện trên thế giới.
* Các biện pháp cần thực hiện để đẩy lùi HIV (Lời kêu gọi)
- Cần có nguồn lực và hành động cần thiết “ chúng ta cần phải nổ lực nhiều hơn nữa để thực hiện cam kết của
<i>mình bằng những nguồn lựcvà hành động cần thiết”.</i>
- Đưa vấn đề AIDS lên vị trí hàng đầu và sẵn sàng đối mặt với nó “ chúng ta phải đưa vấn đề AIDS lên vị trí
<i>hàng đầu trong chương trình nghị sự về chính trị và hành động thực tế của mình. Đó là lí do chúng ta phải cơng</i>
<i>khai lên tiếng về AIDS”.</i>
- Mọi người cùng chung tay để chống lại căn bệnh của thế kỉ “ Hãy sát cánh cùng tôi, bởi lẽ cuộc chiến chống
<i>lại HIV/AIDS bắt đầu từ chính các bạn”.</i>
<b>5. Hình thức nghệ thuật:</b>
- Tác giả sử dụng hệ thống lập luận chặt chẽ, thuyết phục:
+ Mở đầu nêu luận điểm xuất phát “ ngày hôm nay chúng ta đã cam kết và các nguồn lực đã được tăng
<i>lên. Song những hành động của ta vẫn cịn q ít so với u cầu thực tế”.</i>
+ Sau đó đi vào từng luậm điểm : luận điểm 1, tác giả nêu lên những gì thế giới đã làm được để phòng
chống HIV thời gian qua, tác giả đưa ra những luận cứ, những dẫn chứng xác thực, dẫn chứng được đưa theo
phương diện từ rộng đến hẹp ( ngân sách phòng chống HIV trên thế giới, quốc gia, công ty….). Luận điểm 2, tác
giả nêu lên những gì thế giới chưa làm được trong phịng chống HIV, đưa ra những số liệu chính xác, thuyết
phục ( trong năm qua mỗi phút đồng hồ …. Thái Bình Dương).
+ Sử dụng lập luận phản đề ( lẽ ra…lẽ ra…và lẽ ra…) làm cơ sở để đưa ra kiến nghị của mình.
+ Để tăng tính thuyết phục bài viết sử dụng câu văn dài ngắn khác nhau, sử dụng nhiều câu khẳng định,
mệnh lệnh ( chúng ta đã… chúng ta hãy….chúng ta không thể…hãy cùng tôi….) và cũng để tạo nên giọng điệu
hùng hồn cho bài viết.
- Câu văn chứa đựng nhiều yếu tố biểu cảm nhất là đoạn “Đó là lí do chúng ta phải cơng khai lên tiếng → chính
<i>các bạn”. Nhờ yếu tố biểu cảm đó giúp bài văn không khô khan mà dễ thuyết phục và thúc giục mọi người hành</i>
động phịng chống HIV.
- Ngơn ngữ hàm súc,chọn lọc, bài viết ngắn gọn, súc tích, cơ đọng.
<b>* Ý nghĩa ( Cô-phi An-nan gửi gắm thông điệp gì qua bài “Thơng điệp nhân ngày thế giới phịng chống AIDS,</b>
1-12-2003" ? )
- Bản thơng điệp là tiếng nói kịp thời trước một nguy cơ đe doạ cuộc sống của lồi người. Nó thể hiện thái độ
sống tích cực, một tinh thần trách nhiệm cao, tình yêu thương nhân loại sâu sắc.
- Thông điệp giúp mọi người biết quan tâm tới hiện tượng đời sống đang diến ra; biết chia sẻ, không vô cảm
trước nổi đau của con người
<b>6. Câu hỏi tham khảo: </b>
+ Anh/chị hãy xác định vấn đề cốt lõi mà bản Thông điệp nhân ngày thế giới phịng chống AIDS, 1 – 12 – 2003
của Cơ – phi An – nan hướng tới?
Chúng ta phải có những nỗ lực cao nhất để ngăn chặn đại dịch AIDS.
Chúng ta có thể làm được điều này trên cơ sở tinh thần trách nhiệm, tình yêu thương và ý thức tự bảo vệ
cuộc sống của mình.
<b>Suy nghĩ và quan niệm của em về HIV/AIDS</b>
HIV /AIDS là 1 trong những tệ nạn nguy hiểm cho xã hội.
Nguyên nhân dấn vào con đường "nàng tiên nâu":Sự quá đà trong lối sống ->đem đến những hậu quả khó lường
với bạn trẻ. Chỉ vì thiếu hiểu biết mà họ có tâm lý "thử cho biết " ,thử để "lấy cảm giác", và nhiều khi họ tìm đến
ma túy để có được khối cảm. Nhiều khi chỉ vì thiếu lập trường,đua địi cho bằng bạn bằng bè mà họ bất chấp
nhắm mắt dấn thân vào con đường chết .
Đi vào con đường HIV nhiều khi không phải do tự bản thân mà còn do tác động bên ngồi của bạn bè,GĐ.
Có rất nhiều yếu tố nguy cơ dẫn dắt một người đến tình trạng nghiện thuốc, cũng như có nhiều yếu tố bảo vệ
giúp cho một người khó bị Ma Túy tấn cơng. Một thiếu niên bình thường sẽ
chịu tác động của 4 lĩnh vực: quan hệ gia đình, quan hệ bạn bè, mơi trường học đường và mơi trường cộng đồng,
nhưng gia đình là cơ sở chính cho thiếu niên sinh sống, lớn lên và phát triển
tâm lý xã hội, chính gia đình là nơi chứa đựng những yếu tố bảo vệ cũng như nguy cơ nhiều hơn cả.
Một số yếu tố nguy cơ hình thành sớm từ trong gia đình như:
bệnh tâm thần;
2. Cha mẹ bất lực trong giáo dục, nhất là với những trẻ có tính khí bất thường hoặc khó dậy dỗ;
3. Các thành viên trong gia đình thiếu sự liên kết hoặc kém nuôi dưỡng.
4. Cha mẹ ly thân hay quá bận rộn, sự săn sóc và quan tâm đến con cái chưa đủ, ảnh hưởng trên
con cái chưa đúng mức
Một số yếu tố nguy cơ khác có nguồn gốc từ những hoạt động tương tác của trẻ với xã hội
như trường học, bạn bè, cộng đồng như:
1. Có thái độ rụt rè nhút nhát quá, hoặc có thái độ hung hăng quá trong lớp học;
2. Thất bại trong học tập;
3. Khó hịa mình trong tập thể;
4. Nhập bọn với bạn xấu hoặc thích chơi với bạn vơ đạo đức;
5. Ngầm đồng tình với những hành vi xấu, như việc sử dụng thuốc trong trường lớp, trong nhóm bạn bè, trong
cộng đồng;
6. Kỷ luật trường ốc có sơ hở với những học sinh bất hảo;
7. Mơi trường dễ kiếm thuốc.
Nếu không kể đến nguy cơ ban đầu trên, thì giai đoạn có nguy cơ lớn nhất đầu tiên là khi trẻ rời khỏi nơi an toàn
của em (gia đình) để đến trường học. Khi học xong tiểu học và lên trung học sơ cấp, các em bước đầu đã có kinh
nghiệm về những thách thức xã hội, chẳng hạn làm sao để thích hợp với tập thể, với những loại bạn bè khác
nhau, thành phần kinh tế khác nhau. Chính trong giai đoạn này, cá tính và nhân cách từng bước hình thành, mà
nếu gia đình phó thác cho các em tự phát "như một bơng hoa tự nở", thì giai đoạn thiếu niên sớm này các em
thường chạm trán với lần sử dụng thuốc lá, cần sa hay Ma Túy đầu tiên trong đời.
Khi em bước lên trung học cao cấp, bắt đầu chuẩn bị cho tương lai, chàng (hay nàng) tuổi trẻ phải đối mặt với
những thách đố xã hội, tâm lý và giáo dục. Hoặc chàng ham chơi tìm cảm giác lạ, các em đầu hàng những thách
đố trên, các em có thể sử dụng thuốc lá, rượu, hay những loại thuốc tác động tâm trí khác. Vai trị của gia đình
vào thời điểm này có thể khơng mạnh như trước đây, nhưng vai trị của đồn thể, xã hội vẫn cịn giá trị của nó.
Khi thanh niên bước vào đại học, lập gia đình hay đến sở làm, chàng vẫn ln ln phải đối phó với những cạm
bẫy và nguy cơ của môi trường dành cho người trưởng thành, những thú vui ăn chơi, lạm dụng tình dục, sử dụng
Ma Túy, nhậu nhẹt hàng ngày sau giờ tan sở... nếu như gia đình, đồn thể khơng cịn ảnh hưởng được đến các
em
Những nguy cơ sử dụng thuốc gây nghiện không chỉ giới hạn ở tuổi trẻ, thanh niên, trung niên, mà còn xảy ra
đối với tuổi già. Bởi người già thường đau đớn mãn tính nhiều nơi trong cơ thể, các cụ thường hay sử dụng
thuốc có nguy cơ gây nghiện cao như thuốc ngủ, an thần hay chống đau. Thêm nữa, tuổi già dễ bị nghiện cũng
như tuổi trẻ. Các cụ hay buồn, giận hờn vì lệ thuộc con cái, tâm trạng thất vọng, cơ đơn vì rất nhiều lý do nhân
sinh kèm theo suy giảm mắt, tai,sức sống, các cụ dễ nghiện rượu và thuốc an thần. Khác với tuổi trẻ, tình trạng
nghiện của các cụ hay bị bỏ sót, vì những tính nết bất thường, những hành vi quái lạ, những trục trặc cơ thể
thường bị đổ thừa cho tuổi tác hay bệnh tật.