BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
…………/…………
BỘ NỘI VỤ
……/……
HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA
LÊ VĂN QUYỀN
BẢO VỆ HIẾN PHÁP
BẰNG PHÁP LUẬT TẠI VIỆT NAM HIỆN NAY
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HIẾN PHÁP VÀ LUẬT HÀNH CHÍNH
HÀ NỘI - NĂM 2020
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
…………/…………
BỘ NỘI VỤ
……/……
HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA
LÊ VĂN QUYỀN
BẢO VỆ HIẾN PHÁP
BẰNG PHÁP LUẬT TẠI VIỆT NAM HIỆN NAY
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HIẾN PHÁP VÀ LUẬT HÀNH CHÍNH
Chuyên ngành: Luật Hiến pháp và Luật hành chính
Mã số: 8 38 01 02
NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS. NGUYỄN MINH TUẤN
HÀ NỘI - NĂM 2020
LỜI CAM ĐOAN
Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số
liệu và kết quả trình bày trong luận văn là trung thực và chƣa từng đƣợc ai
cơng bố trong bất cứ cơng trình nào khác, các thơng tin trích dẫn trong luận
văn đều đã đƣợc chỉ rõ nguồn gốc.
Hà Nội, ngày 10 tháng 4 năm 2020
Ngƣời cam đoan
Lê Văn Quyền
LỜI CẢM ƠN
Trƣớc tiên, tôi xin bày tỏ sự cảm ơn sâu sắc đến ngƣời hƣớng dẫn khoa
học PGS.TS. Nguyễn Minh Tuấn đã tận tình hƣớng dẫn và đóng góp nhiều ý
kiến khoa học trong quá trình nghiên cứu và thực hiện luận văn này.
Tôi cũng xin chân thành cảm ơn Ban Giám đốc Học viện Hành chính
Quốc gia, Ban QLĐT Sau đại học cùng tồn thể các thầy, cơ giáo đã nhiệt tình
giảng dạy và tạo điều kiện cho tơi hồn thành nhiệm vụ học tập của mình.
Tơi xin trân trọng cảm ơn các cơ quan, đơn vị, cá nhân có liên quan đã
cung cấp số liệu giúp tơi hồn thành luận văn của mình.
Cuối cùng, tơi xin gửi lời cảm ơn chân thành nhất tới các thầy giáo, cơ
giáo, gia đình, bạn bè và đồng nghiệp. Sự động viên giúp đỡ của thầy, cơ giáo,
gia đình, bạn bè và đồng nghiệp là nguồn động viên quý báu cho tơi hồn thành
luận văn này!
Hà Nội, ngày 10 tháng 4 năm 2020
Học viên
Lê Văn Quyền
MỤC LỤC
TRANG
MỞ ĐẦU ........................................................................................................... 1
CHƢƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ VI PHẠM HIẾN PHÁP VÀ BẢO VỆ
HIẾN PHÁP BẰNG PHÁP LUẬT ................................................................... 8
1.1. Hiến pháp và các dạng thức vi phạm Hiến pháp .................................... 8
1.2. Khái niệm, đặc điểm, nội dung của bảo vệ Hiến pháp bằng pháp luật 13
1.3. Những tác động từ phƣơng diện chính trị, kinh tế, pháp lý, xã hội đối
với việc bảo vệ Hiến pháp bằng pháp luật ................................................... 21
1.4. Bảo vệ Hiến pháp bằng pháp luật của một số quốc gia trên thế giới và
bài học kinh nghiệm có thể tham khảo ở Việt Nam .................................... 25
Tiểu kết chƣơng 1 ........................................................................................ 32
CHƢƠNG 2. THỰC TRẠNG BẢO VỆ HIẾN PHÁP BẰNG PHÁP LUẬT
VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN BẢO VỆ HIẾN PHÁP BẰNG PHÁP LUẬT
TẠI VIỆT NAM HIỆN NAY ......................................................................... 32
2.1. Thực trạng bảo vệ Hiến pháp bằng pháp luật trong lịch sử và trong
Hiến pháp 2013 hiện hành ........................................................................... 33
2.2. Giải pháp hoàn thiện bảo vệ Hiến pháp bằng pháp luật tại Việt Nam
hiện nay ........................................................................................................ 67
Tiểu kết Chƣơng 2 ........................................................................................... 81
KẾT LUẬN ..................................................................................................... 81
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................ 83
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
Chữ viết tắt Chữ
Chữ viết đầy đủ
CQĐP
Chính quyền địa phƣơng
HĐND
Hội đồng nhân dân
TAND
Tịa án nhân dân
UBND
Ủy ban nhân dân
UBTVQH
Ủy ban thƣờng vụ Quốc hội
VBQPPL
Văn bản quy phạm pháp luật
VKSND
Viện kiểm sát nhân dân
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Ở bất kỳ quốc gia nào trên thế giới, Hiến pháp cũng có có vị trí cực kỳ
quan trọng. Hiến pháp khơng chỉ là văn bản pháp lý có hiệu lực cao nhất
trong hệ thống pháp luật, là cơ sở, nền tảng của cả hệ thống pháp luật mà cịn
thể hiện ý chí của các lực lƣợng chính trị trong xã hội, là phƣơng tiện quan
trọng để ghi nhận, bảo đảm, bảo vệ quyền con ngƣời, quyền cơng dân.
Chính vì tầm quan trọng đặc biệt của Hiến pháp nên việc tơn trọng, giữ
gìn và bảo vệ Hiến pháp cũng đặc biệt cần thiết. Để bảo vệ Hiến pháp, các
nƣớc trên thế giới đều sử dụng kết hợp nhiều phƣơng thức với sự tham gia
của nhiều chủ thể và nguồn lực, từ bảo vệ Hiến pháp bằng chính trị, bằng kinh
tế, xã hội, từ các cơ quan nhà nƣớc đến các tổ chức, cá nhân trong xã hội.
Trong số đó, bảo vệ Hiến pháp bằng pháp luật chiếm một vị trí khơng thể phủ
nhận, nhất là trong xu thế xây dựng và hoàn thiện nhà nƣớc pháp quyền ở các
nƣớc trên thế giới.
Ở Việt Nam, Hiến pháp là kết tinh trí tuệ của tồn dân tộc, là sản phẩm
đấy tranh lâu dài và bền bỉ của các thế hệ ngƣời dân Việt Nam. Do đó, trách
nhiệm tơn trọng, giữ gìn và bảo vệ Hiến pháp là của toàn dân và thiêng liêng.
Với tƣ cách là công cụ điều chỉnh các quan hệ xã hội điển hình, khơng gì có
thể thay thế pháp luật trong việc bảo vệ Hiến pháp. Pháp luật nói chung, pháp
luật Việt Nam nói riêng với những thuộc tính và chức năng của mình đã
chứng minh đây là cơng cụ hữu hiệu bảo vệ Hiến pháp.
Bảo vệ Hiến pháp bằng pháp luật ở Việt Nam trong thời gian qua, bên
cạnh những kết quả đạt đƣợc bƣớc đầu, vẫn còn nhiều vấn đề cần tiếp tục
nghiên cứu, hoàn thiện cả ở phƣơng diện lý luận, thực tiễn và pháp lý. Cụ thể:
i) Hệ thống lý luận về bảo vệ Hiến pháp bằng pháp luật mặc dù đã đƣợc
nghiên cứu trong một số cơng trình song chƣa thực sự tồn diện, đầy đủ và
cập nhật; ii) về thực tiễn, hoạt động bảo vệ Hiến pháp bằng pháp luật trong
thời gian qua còn nhiều bất cập trên nhiều phƣơng diện; iii) về mặt pháp lý,
1
hệ thống pháp luật về bảo vệ Hiến pháp còn nhiều bất cập, hạn chế do cả
những yếu tố chủ quan và khách quan; nội dung bảo vệ Hiến pháp còn khá
trừu tƣợng, chung chung; thiết chế bảo vệ Hiến pháp chƣa rõ, thẩm quyền
không đủ mạnh; phƣơng thức bảo vệ Hiến pháp cịn mang tính lồng ghép,
thiếu cụ thể, hiệu quả.
Bảo vệ Hiến pháp đƣợc Đảng đặc biệt quan tâm. Văn kiện Đại hội đại
biểu toàn quốc lần thứ X, Đảng đã xem việc “xây dựng và hoàn thiện cơ chế
kiểm tra, giám sát tính hợp hiến và hợp pháp trong các hoạt động và các quyết
định của các cơ quan công quyền” và “xây dựng cơ chế phán quyết về những vi
phạm Hiến pháp trong hoạt động lập pháp, hành pháp và tƣ pháp” nhƣ một trong
những công việc quan trọng để góp phần “tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà
nƣớc pháp quyền xã hội chủ nghĩa”. Đến Đại hội XII, Đảng ta tiếp tục đƣa ra
nhiệm vụ: Xây dựng Nhà nƣớc pháp quyền phải tiến hành đồng bộ cả lập pháp,
hành pháp, tƣ pháp và đƣợc tiến hành đồng bộ với đổi mới hệ thống chính trị
theo hƣớng tinh gọn, hiệu lực, hiệu quả; gắn với đổi mới kinh tế, văn hóa, xã hội.
Tiếp tục hồn thiện cơ chế bảo vệ Hiến pháp và pháp luật [7].
Chính vì những lý do trên, đặt trong bối cảnh ở Việt Nam: Đảng, Nhà
nƣớc và Nhân dân đang đẩy mạnh xây dựng và hoàn thiện nhà nƣớc pháp
quyền xã hội chủ nghĩa, việc bảo vệ Hiến pháp bằng pháp luật là hết sức cần
thiết và cấp thiết. Đây cũng chính vì những lý mà học viên lựa chọn đề tài:
“Bảo vệ Hiến pháp bằng pháp luật tại Việt Nam hiện nay” làm Luận văn thạc
sỹ Luật Hiến pháp và Luật Hành chính, mã số: 8 38 01 02.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Các cơng trình nghiên cứu về Hiến pháp
Sách “Hiến pháp năm 2013 - Sự kết tinh ý chí, trí tuệ tồn dân tộc” do
Báo Nhân Dân phối hợp Nhà xuất bản Chính trị quốc gia - Sự thật xuất bản.
Cuốn sách tập hợp đầy đủ nội dung Hiến pháp Việt Nam từ ngày thành lập
nƣớc đến nay cũng nhƣ tuyển chọn các ý kiến của các tổ chức, cá nhân đóng
góp những ý kiến tâm huyết, q báu đại diện cho trí tuệ của tồn dân tộc.
Bằng tâm huyết và trí tuệ của mình, đồng bào, chiến sĩ cả nƣớc, đồng bào ta ở
2
nƣớc ngồi đã hƣởng ứng và tích cực tham gia đóng góp ý kiến vào Dự thảo
sửa đổi Hiến pháp; tập trung nghiên cứu, thảo luận dân chủ, cởi mở và xây
dựng; góp nhiều ý kiến cụ thể, thiết thực. Trong cuốn sách có một số bài viết
có giá trị đối với đề tài.
Sách chuyên khảo “Hiến pháp năm 2013 – Những điểm mới mang tính
đột phá” do PGS.TS. Hồng Thế Liên (Chủ biên), Nxb Tƣ pháp đã khái lƣợc
những điểm mới mang tính đột phá của các chế định cơ bản của Hiến pháp
năm 2013.
Sách chuyên khảo “Sửa đổi Hiến pháp - Những vấn đề lý luận và thực
tiễn”, Khoa luật – Đại học Quốc gia Hà Nội, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội
(2011) đã khái quát những vấn đề cơ bản về Hiến pháp, nhu cầu và những
định hƣớng quan trọng trong sửa đổi Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi, bổ sung
năm 2001).
Sách chuyên khảo “Các thiết chế hiến định độc lập kinh nghiệm quốc
tế và triển vọng ở Việt Nam”, Viện chính sách cơng và pháp luật, Nxb Đại
học quốc gia Hà Nội (2013). Cuốn sách gồm 6 phần với nhiều giá trị cho việc
nghiên cứu đề tài, nhất là các thiết chế có liên đến bảo vệ Hiến pháp.
Cuốn sách “ABC về Hiến pháp: 83 câu hỏi đáp” của các tác giả
Nguyễn Đăng Dung, Vũ Công Giao, Đặng Minh Tuấn, Nguyễn Minh Tuấn,
Lã Khánh Tùng, Nxb Thế giới (2013). Cuốn sách với 83 câu hỏi – đáp đã khái
quát các vấn đề cơ bản của Hiến pháp nhƣ khái quát về Hiến pháp và sửa đổi
Hiến pháp; các nội dung cơ bản của Hiến pháp. Cuốn sách là tài liệu quý cho
học viên khi nghiên cứu cơ sở lý luận về Hiến pháp và bảo vệ Hiến pháp bằng
pháp luật.
Các cơng trình nghiên cứu về bảo hiến
Trong số này có thể kể tới các cơng trình tiêu biểu nhƣ: “Xây dựng và
bảo vệ Hiến pháp - Kinh nghiệm thế giới và Việt Nam” của tập thể tác giả
Nguyễn Đăng Dung, Trƣơng Đắc Linh, Nguyễn Mạnh Hùng, Lƣu Đức
Quang, Nguyễn Văn Trí (2006); Tài liệu tham khảo “Kỷ yếu Hội thảo quốc tế
về bảo hiến, Văn phòng Quốc hội, Nxb Thời đại (2009); Sách chuyên khảo
3
“Về pháp quyền và chủ nghĩa hợp hiến”, Nxb Lao động - xã hội (2012); Sách
chun khảo “Mơ hình tổ chức và hoạt động của Hội đồng Hiến pháp ở một số
nước trên thế giới”, Ban Biên tập dự thảo sửa đổi Hiến pháp (1992), Nxb Chính
trị quốc gia (2013); “Xây dựng các cơ chế nhà nước bảo vệ Hiến pháp ở nước
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam”, Luận văn thác sĩ Luật học, chuyên
ngành: Lý luận và Lịch Sử nhà nƣớc và pháp luật của tác giả Trịnh Phƣơng
Thảo, Khoa Luật – Đại học Quốc gia Hà Nội; “Bảo hiến trong nhà nước pháp
quyền”, Luận án Tiến sĩ Luật học của tác giả Nguyễn Mậu Tuân (2011), Khoa
Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội; tác giả Tào Thị Qun (2012) với cơng trình
“Cơ chế bảo vệ Hiến pháp trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt
Nam”, Luận án tiến sĩ luật học, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh; tác
giả Bùi Thanh Cƣơng với cơng trình “Cơ chế bảo vệ Hiến pháp ở Việt Nam”,
Luận văn thạc sĩ Luật học Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội, 2014; tác giả
Bùi Hải Đƣờng với cơng trình “Sự lựa chọn mơ hình bảo hiến ở Việt Nam”,
Luận văn thạc sĩ Luật học, Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội, 2015;…
Các cơng trình trên đã khái qt đƣợc sự cần thiết khách quan của bảo
hiến ở Việt Nam và thế giới; phân tích một số vấn đề lý luận về bảo hiến;
đánh giá thực trạng một số mặt về thể chế, thiết chế, phƣơng thức bảo hiến ở
Việt Nam cũng nhƣ đề xuất xây dựng mơ hình, hồn thiện thể chế và các giải
pháp khác đảm bảo tuân thủ Hiến pháp. Mặc dù một số tài liệu đã đƣợc ban
hành trƣớc Hiến pháp năm 2013, song nhìn chung có giá trị tham khảo lớn
cho học viên khi nghiên cứu đề tài.
Các cơng trình nghiên cứu về bảo vệ Hiến pháp bằng pháp luật ở
Việt Nam
Luận văn thạc sĩ “Cơ chế bảo vệ Hiến pháp bằng pháp luật ở Việt Nam
hiện nay” của tác giả Tạ Quốc Long, Học viện Hành chính Quốc gia, 2015.
Trong luận văn này, tác giả đã tìm hiểu thực trạng pháp luật về cơ chế bảo vệ
Hiến pháp theo tinh thần của bản Hiến pháp năm 2013, trên cơ sở những giá
trị kế thừa, tham khảo từ lịch sử bảo hiến ở Việt Nam và trên thế giới, đề xuất
giải pháp hoàn thiện bảo hiến bằng pháp luật ở Việt Nam trong điều kiện xây
4
dựng nhà nƣớc pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Trọng tâm của luận văn tập
trung vào cơ chế bảo vệ Hiến pháp, nhấn mạnh đến yếu tố cấu thành cơ chế
pháp lý bảo vệ Hiến pháp. Luận văn là tài liệu tham khảo có giá trị cho việc
nghiên cứu của học viên.
Các bài viết: “Các mơ hình cơ quan bảo hiến trên thế giới và lựa chọn
mơ hình phù hợp với Việt Nam” của PGS.TS. Thái Vĩnh Thắng, đăng trên
(2013) đã khái qt 4 nhóm mơ hình bảo hiến trên thế
giới, phân tích những nét đặc trƣng của mỗi mơ hình và có những gợi mở cho
mơ hình bảo hiến ở Việt Nam.
Nhƣ vậy, qua khảo sát cho thấy có nhiều cơng trình ở các cấp độ khác
nhau nghiên cứu về Hiến pháp, bảo hiến cũng nhƣ hoàn thiện hệ thống pháp
luật với nhiều đề xuất, giải pháp có giá trị. Tuy nhiên chƣa thấy chƣa có cơng
trình nào nghiên cứu trực tiếp, có hệ thống, cập nhật về bảo vệ Hiến pháp
bằng pháp luật tại Việt Nam hiện nay, trong khi đây vấn đề có tính hệ trọng,
có nhiều vấn đề về lý luận và thực tiễn cần đƣợc làm sáng tỏ. Vì vậy, đề tài
này đƣợc thực hiện có dựa trên việc tham khảo, tiếp thu có chọn lọc những
kết quả nghiên cứu của các cơng trình trƣớc đó và vẫn đảm bảo tính mới,
khơng trùng lặp.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
Mục đích nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu những vấn đề lý luận về bảo vệ Hiến pháp bằng
pháp luật; thực trạng và đƣa ra các quan điểm, giải pháp hoàn thiện bảo vệ
Hiến pháp bằng pháp luật tại Việt Nam hiện nay.
Nhiệm vụ nghiên cứu
- Làm rõ thêm cơ sở lý luận bảo vệ Hiến pháp bằng pháp luật: khái
niệm, đặc điểm, nội dung bảo vệ Hiến pháp bằng pháp luật; các yếu tố ảnh
hƣởng đến bảo vệ Hiến pháp bằng pháp luật và kinh nghiệm bảo vệ Hiến
pháp bằng pháp luật của một số quốc gia trên thế giới.
- Đánh giá thực trạng pháp luật và thực hiện pháp luật về bảo vệ Hiến
pháp bằng pháp luật tại Việt Nam, những kết quả, hạn chế và nguyên nhân.
5
- Trên cơ sở thực trạng, nguyên nhân ở trên, luận văn đề ra các quan
điểm và giải pháp hoàn thiện bảo vệ Hiến pháp bằng pháp luật tại Việt Nam
hiện nay.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
Đối tượng nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu về bảo vệ Hiến pháp bằng pháp luật tại Việt Nam
hiện nay.
Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi thời gian: chủ yếu tập trung trong giai đoạn từ năm 2014
(năm Hiến pháp 2013 có hiệu lực) đến nay.
- Phạm vi khơng gian: trên cả nƣớc (có tham khảo một số kinh nghiệm
ở nƣớc ngoài).
- Phạm vi nội dung: bảo vệ Hiến pháp bằng pháp luật tại Việt Nam có
nội dung rất rộng lớn, nhiều vấn đề, trong phạm vi một luận văn thạc sĩ, tác
giả tập trung nghiên cứu bảo vệ Hiến pháp bằng pháp luật của một số chủ thể
nhƣ Quốc hội, Chính phủ, TAND và CQĐP với thẩm quyền, nội dung,
phƣơng thức gắn với với từng chủ thể.
5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu
Phương pháp luận
Đề tài đƣợc nghiên cứu dựa trên phƣơng pháp luận duy vật biện chứng
và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác – Lênin và tƣ tƣởng Hồ Chí Minh; chủ
trƣơng, đƣờng lối, quan điểm của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà
nƣớc về nhà nƣớc, pháp luật nói chung, về bảo vệ Hiến pháp, xây dựng nhà
nƣớc pháp quyền nói riêng.
Phương pháp nghiên cứu
Để đạt đƣợc mục tiêu trên, tác giả sử dụng các phƣơng pháp nghiên cứu
cụ thể trong khi thực hiện đề tài là: phƣơng pháp phân tích, tổng hợp, phƣơng
pháp lịch sử, phƣơng pháp so sánh, phƣơng pháp thống kê và các phƣơng
pháp khác.
6
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Ý nghĩa lý luận
Luận văn góp phần làm rõ thêm những vấn đề lý luận về bảo vệ Hiến
pháp bằng pháp luật, bổ sung những nhận định về thực trạng và đề xuất, chi
tiết một số giải pháp hoàn thiện bảo vệ Hiến pháp bằng pháp luật tại Việt
Nam hiện nay.
Ý nghĩa thực tiễn
Những kết quả nghiên cứu của luận văn có thể là tài liệu tham khảo cho
hoạt động nghiên cứu, học tập về Hiến pháp, bảo vệ Hiến pháp và hoàn thiện hệ
thống pháp luật của các tổ chức, cá nhân có quan tâm.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, mục lục, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn có
kết cấu nội dung gồm 2 chƣơng, cụ thể nhƣ sau:
Chương 1: Cơ sở lý luận về vi phạm Hiến pháp và bảo vệ Hiến pháp
bằng pháp luật.
Chương 2: Thực trạng bảo vệ Hiến pháp bằng pháp luật và giải pháp
hoàn thiện bảo vệ Hiến pháp bằng pháp luật tại Việt Nam hiện nay.
7
CHƢƠNG 1.
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ VI PHẠM HIẾN PHÁP
VÀ BẢO VỆ HIẾN PHÁP BẰNG PHÁP LUẬT
1.1. Hiến pháp và các dạng thức vi phạm Hiến pháp
1.1.1. Hiến pháp
Hiện nay có rất nhiều nghiên cứu của các học giả, nhà khoa học nên
cũng có nhiều quan điểm và định nghĩa về Hiến pháp. Dù vậy, cũng cần phải
hiểu một cách chung nhất, Hiến pháp là đạo luật cơ bản của một quốc gia,
dùng để xác định thể chế chính trị, cách thức tổ chức, hoạt động của bộ máy
nhà nƣớc và bảo vệ các quyền con ngƣời, quyền công dân. Hiến pháp là một
hệ thống quy định những nguyên tắc chính trị căn bản và thiết lập kiến trúc,
thủ tục, quyền hạn và trách nhiệm của một chính quyền. Nhiều Hiến pháp
cũng bảo đảm các quyền nhất định của nhân dân. Xét về mặt nội dung, Hiến
pháp là đạo luật cơ bản quy định các quy tắc pháp lý quan trọng nhất của quốc
gia, ấn định hình thể quốc gia, ấn định các cơ quan điều khiển quốc gia cùng
những thẩm quyền của các cơ quan ấy. Hiến pháp là văn bản phản ánh tổ
chức chính trị của quốc gia.
Hiến pháp là hình thức VBQPPL do Quốc hội ban hành, có giá trị pháp
lý cao nhất trong hệ thống pháp luật Việt Nam, quy định các vấn đề cơ bản
nhất của nhà nƣớc nhƣ: hình thức và bản chất của nhà nƣớc, chế độ chính trị,
chế độ kinh tế, văn hóa, xã hội; quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân; tổ
chức và hoạt động của các cơ quan nhà nƣớc,… Trong ngôn ngữ hiện đại,
Hiến pháp là từ đƣợc sử dụng rộng rãi ở tất cả các nƣớc với nghĩa luật cơ bản
của một nhà nƣớc [40, tr.330].
Trong hệ thống pháp luật của quốc gia, Hiến pháp là đạo luật có hiệu
lực pháp lý cao nhất. Hiến pháp…phải trở thành không chỉ là một đạo luật,
mà phải hơn là một đạo luật. Hiến pháp không phải là một đạo luật thông
thƣờng nhƣ những đạo luật khác, mà là một đạo luật cơ bản của nhà nƣớc [35,
tr.66]
8
Mọi văn bản pháp luật khác phải phù hợp, không đƣợc trái với Hiến
pháp. Vị trí tối cao của Hiến pháp là do nó phản ánh sâu sắc nhất của chủ
quyền nhân dân và về nguyên tắc phải do nhân dân thông qua (qua hội nghị
lập hiến, quốc hội lập hiến hoặc trƣng cầu ý dân). Điều này khác với các đạo
luật bình thƣờng chỉ do quốc hội (nghị viện) gồm những ngƣời đại diện do
dân bầu và ủy quyền xây dựng.
Từ những phân tích trên, có thể hiểu một cách khái quát, Hiến pháp là
đạo luật cơ bản của một quốc gia, dùng để xác định thể chế chính trị, cách
thức tổ chức, hoạt động của bộ máy nhà nƣớc và bảo vệ các quyền con ngƣời,
quyền công dân [6, tr.13].
1.1.2. Tầm quan trọng của Hiến pháp
1.1.2.1. Đối với các quốc gia
Trong xã hội hiện đại, Hiến pháp đều đƣợc coi là đạo luật gốc của quốc
gia, là nền tảng để xây dựng hệ thống pháp luật. Mọi đạo luật thơng thƣờng
đều nhằm để cụ thể hố các chế định, quy phạm của Hiến pháp, và vì vậy,
khơng đƣợc trái với Hiến pháp. Khi Hiến pháp đƣợc thay thế hoặc sửa đổi,
các đạo luật có những quy định trái hoặc còn thiếu so với nội dung của Hiến
pháp đều phải đƣợc thay thế hoặc sửa đổi theo. Điều này tạo ra tính thống
nhất của hệ thống pháp luật quốc gia [6, tr.22].
Bên cạnh đó, Hiến pháp của quốc gia nào cũng đóng vai trị nhƣ là một
đạo luật gốc, cơ bản và khái quát nhất, về tổ chức quyền lực nhà nƣớc. Chúng
đều có những chế định (tập hợp các quy định, quy phạm) xác lập cơ cấu, các
quy tắc tổ chức, vận hành và mối quan hệ giữa các cấu phần cơ bản của bộ
máy nhà nƣớc, bao gồm cơ quan lập pháp (quốc hội/nghị viện), cơ quan hành
pháp (chính phủ) và cơ quan tƣ pháp (tịa án). Dựa trên các chế định này của
Hiến pháp, các đạo luật về tổ chức nhà nƣớc sẽ đƣợc xây dựng để chi tiết hố
những vấn đề cịn chƣa cụ thể. Các đạo luật này chỉ có thể cụ thể hóa mà
khơng đƣợc có những quy định trái với Hiến pháp [6, tr.26].
1.1.2.2. Đối với người dân
Một bản Hiến pháp tốt rất quan trọng với mọi ngƣời dân, xét trên nhiều
phƣơng diện. Trƣớc hết, một bản Hiến pháp tốt giúp tạo lập một nền dân chủ
9
thực sự, trong đó mọi ngƣời dân có thể tự do bày tỏ tƣ tƣởng, ý kiến và quan
điểm về các vấn đề của đất nƣớc và bản thân mình mà không sợ hãi bị đàn áp
hay trừng phạt. Đây là tiền đề để khai mở và phát huy trí tuệ, năng lực của
mọi cá nhân trong xã hội, cũng nhƣ để phòng, chống lạm quyền và tham
nhũng. Bất cứ Hiến pháp nào trên thế giới đều có thể đƣợc đặt dƣới một câu
hỏi: Hiến pháp này đƣợc làm ra để thể hiện cái tinh thần gì vậy? Dân chúng
chỉ cần biết cái tinh thần ấy một cách tỏ tƣờng và chân thật là đã có thể phát
biểu ngay đó là Hiến pháp của mình hay của ai.
Thomas Payne – lý thuyết gia nổi bật của cách mạng Mỹ đã khẳng
định: Hiến pháp là một văn bản không phải của chính quyền mà là của dân
chúng tạo ra một chính quyền, và một chính quyền khơng có Hiến pháp là
một chính quyền khơng có luật [41].
Một bản Hiến pháp tốt cũng đồng nghĩa với việc ghi nhận đầy đủ các
quyền con ngƣời, quyền công dân phù hợp với các chuẩn mực chung của
cộng đồng quốc tế, cũng nhƣ các cơ chế cho phép mọi ngƣời dân có thể sử
dụng để bảo vệ các quyền của mình khi bị vi phạm. Hiến pháp tốt là công cụ
pháp lý đầu tiên và quan trọng nhất để bảo vệ dân quyền và nhân quyền. Cuối
cùng, một bản Hiến pháp tốt, với tất cả những ƣu điểm nêu trên, sẽ tạo ra sự
ổn định và phát triển của đất nƣớc, qua đó giúp ngƣời dân thốt khỏi sự đói
nghèo [6, tr.21].
1.1.3. Các dạng thức vi phạm Hiến pháp
Trƣớc khi là đạo luật cơ bản, Hiến pháp phải là một đạo luật. Với tƣ
cách là đạo luật, Hiến pháp phải đƣợc tổ chức thực thi, mà đã là thực thi thì
bên cạnh những hành vi thực hiện đúng, cũng có những hành vi thực thi sai,
khơng khác nào việc thực thi các đạo luật bình thƣờng khác.
Với tƣ cách là đạo luật cơ bản, tức là đặc biệt, có hiệu lực pháp lý tối
cao nên việc thi hành và việc vi phạm cũng đặc biệt: trƣớc hết, chủ thể thi
hành Hiến pháp là đặc biệt so với chủ thể thi hành các đạo luật bình thƣờng
khác. Điểm khác căn bản của Hiến pháp với các đạo luật khác ở việc tuân thủ
Hiến pháp bảo đảm ổn định chính trị, phát triển kinh tế, bảo đảm quyền con
10
ngƣời, quyền công dân, tạo cơ sở cho việc thực hiện các đạo luật khác. Cơ
quan nhà nƣớc càng có nhiều quyền lực, càng phải có trách nhiệm, nghĩa vụ
phải tuân thủ Hiến pháp.
Bên cạnh việc tuân thủ là nguy cơ vi phạm Hiến pháp từ các chủ thể
trong xã hội, trƣớc hết là các cơ quan nhà nƣớc. Đó là Nghị viện/Quốc hội, cơ
quan thực hiện quyền lập pháp; Chính phủ, cơ quan thực hiện quyền hành
pháp; là tịa án, thông qua việc không xét xử hoặc ra những bản án trái Hiến
pháp; là các đảng phái thông trong một quốc gia. Khác với đạo luật thƣờng
khác, việc tuân thủ Hiến pháp không những qua các quy định, mà còn cả tinh
thần của Hiến pháp.
Tiếp đến là mức độ nguy hại của các hành vi vi phạm Hiến pháp, chúng
gây hậu quả rất lớn, đến nhiều ngƣời và thậm chí nguy hại cho nhiều thế hệ,
cản trở sự phát triển của quốc gia, các hành vi vi phạm này rất đa dạng, nhƣng
càng các cơ quan có quyền lực lớn càng có nhiều nguy cơ và nhiều loại vi
phạm liên quan đến các chính sách, pháp luật, bầu cử.
Và cuối cùng, những hành vi vi phạm này rất khó phát hiện và rất khó
xử lý. Cho đến nay, mặc dù đã có gần 200 nƣớc có Hiến pháp, nhƣng chỉ mới
có dƣới 10% số nhà nƣớc có tịa án chuyên xử việc vi phạm Hiến pháp của
các cơ quan và quan chức nhà nƣớc vi phạm.
Cũng nhƣ việc thi hành các đạo luật bình thƣờng khác, thực tiễn cho
thấy có hai loại hành vi vi phạm Hiến pháp chủ yếu:
Thứ nhất, hành vi hành động vi hiến (hay còn gọi là vi phạm chủ động)
là hành vi của chủ thể thực hiện hành động trái với các quy định Hiến pháp,
hoặc khơng phù hợp với Hiến pháp. Đó có thể là hành vi của cơ quan ban
hành văn bản pháp luật không phù hợp hoặc trái với Hiến pháp; hành vi của
một cơ quan, tổ chức, cá nhân vi phạm thẩm quyền (lạm quyền) mà Hiến
pháp trao cho; hoặc hành vi của bất cứ cơ quan, tổ chức, cá nhân nào nhân
danh nhà nƣớc ngăn cản hoặc hạn chế việc thực hiện quyền và tự do hợp pháp
của cá nhân ngƣời dân theo quy định của Hiến pháp.
11
Ở Việt Nam, thời gian qua đã có những văn bản hoặc đề xuất có biểu
hiện vi hiến nhƣ quy định các điều kiện hạn chế kinh doanh, quy định về hộ
khẩu vi phạm quyền tự do lựa chọn chỗ ở, quy định hạn chế phƣơng tiện giao
thông vi phạm quyền sở hữu.
Thứ hai, hành vi không hành động vi hiến (hay còn gọi là vi phạm bị
động) là hành vi không thực hiện thẩm quyền và nghĩa vụ đã đƣợc Hiến pháp
quy định. Cơ quan, tổ chức, cá nhân đƣợc Hiến pháp giao thẩm quyền, nếu
không thực hiện hoặc thực hiện không kịp thời những thẩm quyền và nghĩa vụ
đó thì sẽ bị coi là vi phạm Hiến pháp không hành động (unconstitutional
omission) [42].
Trong các trƣờng hợp mà cơ quan, cá nhân có thẩm quyền chậm trễ
hoặc khơng thực hiện thẩm quyền ban hành văn bản quy định cụ thể về các
quyền và tự do hiến định của ngƣời dân thì khơng bị coi là vi phạm Hiến pháp
ở một số nƣớc. Trong mối quan hệ giữa nhà nƣớc và ngƣời dân, một khi nhà
nƣớc ghi nhận và khẳng định quyền và tự do của ngƣời dân trong Hiến pháp
đồng nghĩa với việc nhà nƣớc xác định nghĩa vụ, trách nhiệm của mình phải
bảo đảm thực hiện. Do vậy, sự thiếu hụt hay chậm trễ ban hành các VBQPPL
quy định quyền và tự do hiến định của ngƣời dân cũng phải đƣợc coi là hành
vi vi phạm Hiến pháp và phải bị xem xét tính hợp hiến của hành vi không
hành động của cơ quan, cá nhân đƣợc trao thẩm quyền.
Ở Việt Nam, theo Khoản 2, Điều 7 Hiến pháp năm 2013 thì: Đại biểu
Quốc hội, đại biểu HĐND bị cử tri hoặc Quốc hội, HĐND bãi nhiệm khi
không cịn xứng đáng với sự tín nhiệm của Nhân dân. Nếu chỉ dựa vào quy
định trên, cử tri không thể thực hiện đƣợc quyền bãi nhiệm của mình. Để hiện
thực hóa quy định này nhất thiết phải có một hoặc một số văn bản có tính chất
quy phạm hƣớng dẫn, cụ thể hóa cả về nội dung và quy trình, tuy nhiên, đến
nay chúng ta vẫn chƣa có trên thực tế. Đây có thể coi là một dạng vi hiến
khơng hành động.
Trên thế giới, trong đó có Hoa Kỳ, ln có những tranh luận về tính
hợp hiến của các quyết định, nhất là các quyết định của Tổng thống hoặc
12
Nghị viện. Năm 2018 Tổng thống Mỹ Donald Trump đã bị cáo buộc vi phạm
Hiến pháp khi quyết định tấn cơng Syria mà khơng có sự thơng qua của Quốc
hội theo Điều 2 của Hiến pháp Mỹ. Tuy nhiên cũng phải thừa nhận rằng, thẩm
quyền của Tổng thống trong Hiến pháp Mỹ có biên độ rất rộng, nhiều khi
khơng thực sự rõ ràng cùng với chế độ đa đảng lập nên các cáo buộc có thể
dẫn đến những kết luận khác nhau.
Cũng giống nhƣ các đạo luật thƣờng khác, một khi đã có hiện tƣợng vi
phạm thì phải có sự xét xử của tòa án. Nhƣng khác với đạo luật bình thƣờng
khác, việc xét xử các hành vi vi phạm Hiến pháp không đƣợc các nhà nƣớc
thừa nhận ngay từ đầu. Ngay cả nƣớc Mỹ, với bản Hiến pháp thành văn đầu
tiên thành khuôn mẫu của thế giới cũng rất đắn đo cho việc xét xử các hành vi
vi hiến của các cơ quan quyền lực quốc gia. Trong phán quyết nổi tiếng trong
vụ án Mabury kháng Madison của Chánh án Marshall làm rạng danh tên tuổi
của ơng có lập luận: Hiến pháp hoặc là đạo luật tối cao, không thể thay thế
bằng những phƣơng thức bình thƣờng hoặc nó ở hệ cấp bình thƣờng nhƣ các
đạo luật khác của ngành lập pháp và nó có thể bị ngành lập pháp thay đổi nếu
muốn. Nếu lựa chọn thứ nhất là đúng, thì luật mâu thuẫn với Hiến pháp khơng
thể là luật. Nếu lựa chọn thứ hai là đúng thì Hiến pháp thành văn là một nỗ
lực ngu xuẩn của con ngƣời trong việc giới hạn quyền lực nhà nƣớc trong bản
chất vơ giới hạn của nó [42].
1.2. Khái niệm, đặc điểm, nội dung của bảo vệ Hiến pháp bằng
pháp luật
1.2.1. Khái niệm bảo vệ Hiến pháp bằng pháp luật
Vì có các hành vi vi phạm Hiến pháp nên cần thiết phải đặt ra vấn đề
bảo vệ Hiến pháp. Bảo vệ Hiến pháp là tổng hợp các hoạt động đƣợc tiến
hành bởi các cơ quan, cá nhân mà Hiến pháp quy định nhiệm vụ và quyền hạn
nhằm bảo đảm sự tôn trọng và thi hành Hiến pháp, ngăn ngừa và xử lý mọi
hành vi vi phạm Hiến pháp. Nội dung cụ thể gồm: Giám sát tính hợp hiến của
các văn bản quy phạm pháp luật và điều ƣớc quốc tế mà quốc gia ký kết hoặc
gia nhập; giải thích Hiến pháp; giải quyết khiếu kiện vi hiến (trong đó có cả
13
khiếu kiện liên quan đến hành vi vi phạm quyền và tự do hiến định của công
dân) và xem xét tính hợp hiến của các cuộc bầu cử và trƣng cầu ý dân [44].
Bảo vệ Hiến pháp bằng pháp luật rất quan trọng. Về bản chất, pháp luật
là hệ thống những quy tắc xử sự mang tính bắt buộc chung do nhà nƣớc ban
hành hoặc thừa nhận và đảm bảo thực hiện, thể hiện ý chí của các lực lƣợng
trong xã hội và là nhân tố điều chỉnh các quan hệ xã hội phát triển phù hợp
với lợi ích của giai cấp mình. Pháp luật là cơng cụ bảo vệ các quan hệ xã hội
mà nó điều chỉnh. Khi có các hành vi vi phạm pháp luật xảy ra, xâm phạm
đến các quan hệ xã hội đƣợc pháp luật điều chỉnh thì các cơ quan nhà nƣớc có
thẩm quyền sẽ áp dụng các biện pháp cƣỡng chế đƣợc quy định trong bộ phận
chế tài của các quy phạm pháp luật đối với các chủ thể có hành vi vi phạm
pháp luật, trong đó có vi phạm Hiến pháp.
Khái niệm bảo vệ Hiến pháp bằng pháp luật có nhiều tƣơng đồng với
cơ chế bảo vệ Hiến pháp bằng pháp luật. Có thể hiểu, cơ chế bảo vệ Hiến
pháp bằng pháp luật là tổng thể các quy phạm pháp luật xác định hệ thống các
chủ thể (cơ quan nhà nƣớc, cá nhân) đƣợc Hiến pháp quy định (trực tiếp hoặc
gián tiếp) nhiệm vụ và quyền hạn tiến hành các hoạt động bảo vệ Hiến pháp,
cùng với phƣơng thức vận hành, các điều kiện đảm bảo hoạt động cho hệ
thống đó để tiến hành hoạt động bảo vệ Hiến pháp, nhằm bảo đảm sự tơn
trọng, giữ gìn Hiến pháp, ngăn ngừa và chống lại mọi hành vi vi phạm Hiến
pháp [13, tr.34]. Trong khi cơ chế bảo vệ Hiến pháp tập trung vào 3 nội dung
chính là thể chế, thiết chế và phƣơng thức, điều kiện vận hành thì bảo vệ Hiến
pháp bằng pháp luật tập trung vào hệ thống thể chế (tất nhiên sẽ cũng sẽ đề
cập đến thiết chế, hình thức, thủ tục bảo vệ Hiến pháp nhƣng tập trung dƣới
góc độ các quy định của pháp luật).
Tuy nhiên, cũng cần hiểu, bảo vệ Hiến pháp bằng pháp luật khơng chỉ
có những quy phạm vật chất mà cần phải có cả những quy phạm để thủ tục để
đƣa các quy phạm vật chất vào thực tiễn đời sống.
Có thể hiểu, bảo vệ Hiến pháp bằng pháp luật là tổng hợp các hoạt
động đƣợc tiến hành bởi các cơ quan, cá nhân mà Hiến pháp quy định nhiệm
14
vụ và quyền hạn nhằm bảo đảm sự tôn trọng và thi hành Hiến pháp, ngăn
ngừa và xử lý mọi hành vi vi phạm Hiến pháp.
1.2.2. Đặc điểm của bảo vệ Hiến pháp bằng pháp luật
Một là, bảo vệ Hiến pháp bằng pháp luật là một nguyên lý, sự lựa chọn
tối ƣu trong nhà nƣớc pháp quyền của xã hội hiện đại. Nhà nƣớc pháp quyền
là một tất yếu, một xu hƣớng chung của cả nhân loại. Nhà nƣớc pháp quyền
địi hỏi các chủ thể trong xã hội, khơng phân biệt là cơ quan nhà nƣớc hay
doanh nghiệp, công dân phải tuân thủ pháp luật, trƣớc hết là tôn trọng, tuân
thủ Hiến pháp. Muốn vậy, công cụ để nhà nƣớc, nhân dân thực hiện việc bảo
vệ Hiến pháp – thành quả đấu tranh của mỗi quốc gia, dân tộc và cả lồi
ngƣời, khơng có gì có thể tốt hơn pháp luật. Pháp luật – với những đặc trƣng
vốn có của mình, có khả năng bảo vệ Hiến pháp hữu hiệu nhất, hiệu quả nhất
và dân chủ nhất.
Hai là, bảo vệ Hiến pháp bằng pháp luật bị chi phối bởi nhiều yếu tố:
chính trị, hình thức nhà nƣớc, trình độ phát triển kinh tế, xã hội và quốc tế.
Trong đó yếu tố chính trị và hình thức nhà nƣớc ở mỗi quốc gia, mỗi giai
đoạn phát triển sẽ chi phối đên pháp luật về bảo vệ Hiến pháp. Xu hƣớng
chung, xã hội càng hiện đại, văn minh thì quyền con ngƣời, quyền công dân
càng đƣợc tôn trọng, Hiến pháp càng đƣợc quan tâm bảo vệ nhƣng cũng vì
thế mà các hành vi vi hiến cũng tinh vi hơn, khó phát hiện và xử lý hơn.
Ba là, về bản chất, bảo vệ Hiến pháp bằng pháp luật vừa là bảo vệ tính
tối thƣợng của Hiến pháp, vừa là bảo vệ chính bản thân hệ thống pháp luật.
Trong xã hội, nếu Hiến pháp khơng đƣợc tơn trọng, Hiến pháp bị xâm phạm thì
các văn bản luật, văn bản dƣới luật cũng khó đƣợc tuân thủ một cách nghiêm
túc. Mặt khác, bảo vệ Hiến pháp cũng là bảo vệ chế độ chính trị, nhà nƣớc và
quốc gia – dân tộc, bởi lẽ Hiến pháp là gốc rễ của mỗi quốc gia, mỗi chế độ,
việc bảo vệ gốc rễ này là cơ sở để phát triển mọi mặt của đời sống xã hội.
Bốn là, bảo vệ Hiến pháp bằng pháp luật đòi hỏi pháp luật phải hoàn
thiện, đồng bộ, chủ thể áp dụng pháp luật phải có năng lực, đạo đức cơng vụ
(và cả đạo đức chính trị và trách nhiệm với nhân dân). Đây vừa là yêu cầu của
15
mỗi nhà nƣớc và là yêu cầu của xã hội. Trong xã hội Việt Nam hiện nay, vấn
đề đạo đức chính trị, đạo đức cơng vụ và tinh thần phục vụ nhân dân của bộ
máy nhà nƣớc, đội ngũ cán bộ, cơng chức đóng một vai trị hết sức quan trọng
trong việc xây dựng hệ thống chính sách, pháp luật và thực hiện pháp luật. Đó
cũng là yếu tố quan trọng góp phần bảo vệ Hiến pháp.
1.2.3. Nội dung cơ bản bảo vệ Hiến pháp bằng pháp luật
Bảo vệ Hiến pháp bằng pháp luật là một nội dung phức tạp, có thể xem
xét ở nhiều góc độ khác nhau: từ chủ thể, nội dung, phƣơng thức, ngành
luật,… Mỗi cách tiếp cận sẽ có đặc điểm riêng, nội dung khác nhau. Pháp luật
là công cụ, nhƣng pháp luật phải do các chủ thể sử dụng để bảo đảm Hiến
pháp đƣợc tôn trọng, tuân thủ với những phƣơng thức phù hợp với vị trí, chức
năng, thẩm quyền của từng chủ thể. Do đó, có thể xem xét nội dung pháp luật
về bảo vệ Hiến pháp trên 3 phƣơng diện: chủ thể, nội dung và phƣơng thức.
Thứ nhất, pháp luật về những chủ thể có trách nhiệm bảo vệ Hiến pháp.
Để bảo vệ Hiến pháp bằng pháp luật thì hệ thống pháp luật (bao gồm cả
Hiến pháp) trƣớc tiên phải trả lời câu hỏi: chủ thể nào có trách nhiệm bảo vệ
Hiến pháp. Hay nói cách khác, pháp luật sẽ điều chỉnh về chủ thể bảo vệ Hiến
pháp nhƣ thế nào?.
Bảo vệ Hiến pháp là hoạt động đặc biệt đƣợc thể hiện ở mục đích, tính
chất, nội dung. Do vậy, địi hỏi hoạt động đó phải đƣợc tiến hành bởi chủ thể
đặc biệt [25]. Nội dung bảo vệ Hiến pháp quyết định và chi phối phạm vi
chức năng, nhiệm vụ của cơ quan, tổ chức có chức năng bảo vệ Hiến pháp.
Ở mỗi quốc gia, mỗi giai đoạn lịch sử, chức năng bảo vệ Hiến pháp
đƣợc ghi nhận trong hệ thống pháp luật sự khác nhau và có sự thay đổi theo
hƣớng ngày càng hồn thiện. Bên cạnh đó, cịn tùy thuộc vào cách tiếp cận
của từng quan điểm về trách nhiệm bảo vệ Hiến pháp mà xác định chủ thể,
trách nhiệm và phạm vi bảo vệ Hiến pháp có sự khác nhau.
Trong xã hội hiện đại, dù tiếp cận nhƣ thế nào đi chăng nữa thì Hiến
pháp là biểu hiện của thành quả đấu tranh lâu dài, bền bỉ của nhân dân. Hiến
pháp thể hiện quyền làm chủ của nhân dân, là “khế ƣớc xã hội” của toàn dân,
16
do đó trách nhiệm bảo vệ Hiến pháp là nhân dân và những cơ quan nhà nƣớc
– những ngƣời đƣợc nhân dân trao quyền.
Tuy vậy, nhân dân bảo vệ Hiến pháp nhƣng chức năng, thẩm quyền,
nguồn lực lại có những hạn chế. Mặt khác, vi phạm Hiến pháp hoặc trách
nhiệm tổ chức thi hành Hiến pháp (cũng đƣợc xem là một dạng bảo vệ Hiến
pháp) thì trƣớc hết thuộc về các cơ quan nhà nƣớc, đặc biệt là cơ quan nhà
nƣớc ở trung ƣơng. Do đó, có thể khẳng định, pháp luật về chủ thể có trách
nhiệm bảo vệ Hiến pháp phải quy phạm đƣợc cơ quan nào có chức trách,
nhiệm vụ bảo vệ Hiến pháp; bảo vệ những gì? bảo vệ thơng qua hình thức,
biện pháp, thủ tục nào và hậu quả pháp lý của việc khơng làm trịn chức trách,
nhiệm vụ của cơ quan đó?.
Có nhiều cách tiếp cận khác nhau, nhƣng có thể xem xét pháp luật về
trách nhiệm bảo vệ Hiến pháp của các cơ quan lập pháp, hành pháp, tƣ pháp
và cơ quan ở chính quyền địa phƣơng.
i) Cơ quan lập pháp với chức năng lập pháp, quyết định những vấn đề
quan trọng và giám sát (hoặc giám sát tối cao) có trách nhiệm bảo vệ Hiến
pháp. Chẳng hạn, Quốc hội (Nghị viện) giám sát Chính phủ trong việc tn
theo Hiến pháp, tránh tha hóa quyền lực, lạm quyền.
ii) Cơ quan hành pháp với chức năng lập quy và quản lý, điều hành
quốc gia phải đảm bảo đúng các nguyên tắc, quy phạm và tinh thần của Hiến
pháp. Chẳng hạn, pháp luật các nƣớc (trong đó có Việt Nam) quy định Chính
phủ ban hành các văn bản dƣới luật phải phù hợp với Hiến pháp, luật.
Chính phủ là cơ quan thực hiện quyền hành pháp, cơ quan hành chính
nhà nƣớc cao nhất của nƣớc Cộng hịa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Chính phủ
có nhiệm vụ quản lý, điều hành thƣờng xuyên các hoạt động thuộc mọi lĩnh
vực đời sống xã hội, nên “chiếm” lợi thế là chủ thể trực tiếp nắm bắt đƣợc
trƣớc và sâu sát nhất những yêu cầu bức thiết do cuộc sống đặt ra. Thêm vào
đó, là việc giữ trong tay mọi nguồn lực khoa học và vật chất dồi dào của đất
nƣớc, cùng số lƣợng công chức, chuyên gia đông đảo có trình độ chun mơn
cao, kinh nghiệm thực tiễn phong phú nên hơn ai hết, Chính phủ là ngƣời hiểu
17
rõ xã hội cần gì? và cũng là ngƣời có điều kiện thuận lợi để biến “sự hiểu rõ”
đó thành dự án chính sách cụ thể. Bởi thế, việc chủ động phát hiện nhu cầu xã
hội và đƣa ra giải pháp đúng đắn để kịp thời làm tròn “sứ mệnh” hành pháp
của mình tự nó đã là “bản năng” của Chính phủ. Từ đó, tất yếu dẫn đến quyền
khởi xƣớng, hoạch định và quyết định thực hiện chính sách quốc gia của
Chính phủ, trƣờng hợp vƣợt thẩm quyền thì trình Quốc hội quyết định dƣới
dạng dự án luật.
Nhƣ vậy, bằng quyền hoạch định chính sách, quyền trình dự án luật
trƣớc Quốc hội, Chính phủ đã chuyển hóa một cách tự nhiên hoạt động hành
pháp của mình thành hoạt động “phối hợp” quan trọng theo đúng tinh thần
Hiến pháp, mở đầu cho quá trình lập pháp của Quốc hội. Vì thế, tiếp nối q
trình này bằng quyền xem xét, thơng qua dự án luật, tức làm luật, Quốc hội
trƣớc nhất, cần chú trọng làm tốt vai trò thẩm tra và chủ yếu là hƣớng vào
việc đánh giá, nhận định về sự phù hợp của chính sách trong dự án luật với
nguyện vọng của Nhân dân [14].
iii) Cơ quan tƣ pháp với chức năng xét xử, bảo vệ pháp luật sẽ xem xét
tính hợp hiến, hợp pháp của các hành vi (nhất là các quyết định, hành vi của
cơ quan, ngƣời có thẩm quyền) theo thủ tục tố tụng. Tùy theo mô hình tổ chức
bộ máy các nƣớc trên thế giới mà thẩm quyền bảo hiến của các tòa án là khác
nhau, nhƣng nhiều nƣớc đã giao cho tòa án thẩm quyền phán quyết các dự
luật, quyết định, hành vi vi hiến. Một số nƣớc lại giao quyền tuyên bố một dự
luật vi hiến thuộc một cơ quan thuộc nghị viện hoặc một thiết chế độc lập.
Một số nƣớc không cho phép tòa án đƣợc phán quyết đối với các văn bản có
tính quy phạm (trong đó có Việt Nam).
iv) Các cơ quan của chính quyền địa phƣơng nhìn chung có chức năng
tổ chức thi hành Hiến pháp, pháp luật và các văn bản của cơ quan nhà nƣớc
cấp trên, tổ chức quản lý xã hội theo quy định của pháp luật. Nhiệm vụ bảo vệ
Hiến pháp đƣợc bảo đảm khi thực hiện các chức năng, nhiệm vụ cụ thể. Ví dụ
nhƣ trong hoạt động quản lý xã hội, phải bảo đảm quyền con ngƣời, quyền
18
công dân đƣợc ghi nhận trong Hiến pháp và pháp luật. Ở Việt Nam, hai thiết
chế của chính quyền địa phƣơng là HĐND và UBND.
Thứ hai, pháp luật quy định những nội dung cần bảo vệ Hiến pháp, hay
nói cách khác, bảo vệ Hiến pháp sẽ trả lời câu hỏi: bảo vệ cái gì?. Tùy theo thể
chế chính trị - pháp lý mỗi quốc gia, thời kỳ mà những phƣơng diện này đƣợc
quy định khác nhau. Bảo vệ Hiến pháp là bảo vệ chủ quyền nhân dân, bảo vệ
chế độ chính trị, nền tảng pháp lý của nhà nƣớc; bảo vệ những giá trị trƣờng
tồn và cao quý nhất trong xã hội. Bảo vệ Hiến pháp có thể tiếp cận trên nhiều
phƣơng diện, nhƣng trƣớc hết là: i) bảo vệ sự tuân thủ nguyên tắc, quy phạm
đƣợc thể hiện trong Hiến pháp; ii) bảo vệ tinh thần cốt lõi của Hiến pháp.
i) Pháp luật phải bảo vệ sự tuân thủ nguyên tắc, quy phạm đƣợc thể
hiện trong Hiến pháp. Không thể có nhà nƣớc pháp quyền mà khơng có một
bản Hiến pháp tốt về phƣơng diện bảo vệ, bảo đảm quyền con ngƣời, quyền
công dân, đƣợc tôn trọng và tuân thủ, trƣớc hết là đối với các cơ quan và cá
nhân công quyền. Một trong những điều kiện cơ bản đảm bảo cho Hiến pháp
đƣợc tôn trọng, tuân thủ, đƣợc áp dụng trong cuộc sống hàng ngày chính là
hiệu lực của Hiến pháp: hiệu lực pháp lý cao nhất và hiệu lực áp dụng trực
tiếp. Cả hai cấp độ hiệu lực này của Hiến pháp cần phải đƣợc xác định trong
Hiến pháp [43].
Hiến pháp điều chỉnh các quan hệ xã hội căn bản nhất, quan trọng nhất
nên các quy phạm Hiến pháp vừa có tính chất cụ thể, tƣờng minh và phải
đƣợc viện dẫn trong thực tiễn áp dụng pháp luật cũng nhƣ sự tuân thủ của các
cơ quan lập pháp, hành pháp, tƣ pháp cũng nhƣ toàn xã hội.
ii) Pháp luật phải bảo vệ tinh thần của Hiến pháp. Vì tính chất của một
đạo luật gốc nên Hiến pháp của các nƣớc nhìn chung đều ngắn gọn, súc tích,
cơ đọng, vì vậy sẽ có nhiều nội dung khơng đƣợc quy phạm trực tiếp trong
Hiến pháp, điều này đặt ra cho các cơ quan, tổ chức cá nhân khi tổ chức triển
khai Hiến pháp, tổ chức thi hành pháp luật và quản lý xã hội bằng pháp luật
phải nắm đƣợc những giá trị, tƣ tƣởng, quan điểm định hƣớng của Hiến pháp
để đƣa Hiến pháp vào đời sống. Do tính chất đa dạng của đời sống xã hội từ
19