Bài Điều Kiện
Môn: Bảo quản, tu bổ, tôn tạo di tích.
Đề bài: Nhận thức của anh/chị về Di Tích Lịch Sử Văn Hóa, Danh
Lam Thắng Cảnh ở Việt Nam? Liên hệ thực tế với một di tích mà
anh/chị quan tâm nhiều?
Bài Làm
I.
Nhận thức về Di tích lịch sử văn hóa, Danh lam thắng cảnh ở Việt
Nam.
1. Di tích lịch sử văn hóa.
a. Về khái niệm.
Di tích lịch sử văn hóa là công trinh, địa điểm, di vật, cổ vật, bảo vật quốc gia
thuộc cơng trình, địa điểm đó có giá trị lịch sử, văn hóa, khoa học.
b. Tiêu chí trở thành di tích lịch sử văn hóa.
- Cơng trình địa điểm gắn với sự kiện lịch sử, văn hoas tiêu biểu của quốc gia
hoặc địa phương.
- Cơng trình xây dựng, địa điểm gắn với thân thế anh hùng dân tộc, danh
nhân, nhân vật lịch sử, có ảnh hưởng tích cực đến sự phát triển của quốc gia
hoặc địa phương trong các thời kì lịch sử.
- Những địa điểm khảo cổ có giá trị tiêu biểu về mặt lịch sử văn hóa khoa học.
- Cơng trình kiến trúc nghệ thuật, quần thể kiến trúc đơ thị và địa điểm cư trú
có giá trị tiêu biểu cho một hoặc nhiều giai đoạn phát triển.
c. Đặc trưng của di tích lịch sử văn hóa.
- Di tích lịch sử văn hóa là biểu hiện của tính sáng tạo và tích lũy thơng tin.
- Di tích lịch sử văn hóa là nơi chứa đựng những giá trị tiêu biểu: giá trị về
lịch sử, văn hóa (cả vật thể và phi vật thể), giá trị thẩm mĩ và giá trị khoa
học.
- Tính lịch sử, găn với lịch sử, đại diện cho sự kiện lịch sử, thể hiện bản sắc
văn hóa của dân tộc, của cộng đồng dân tộc, của địa phương, thậm chí mang
tính quốc tế. Thời điểm ra đời gắn với một lịch sử nhất định.
- Di tích lịch sử văn hóa mang tính biểu tưởng, có ý nghĩa và giá trị biểu
tượng khá sâu sắc.
- Nó gắn với khơng gian và thời gian xác định: mỗi di tích tồn tại trong một
khơng gian cụ thể, và thời gian là yếu tố làm nên giá trị của di tích và cổ vật.
d. Có rất nhiều cách tiếp cận và phân loại di tích.
- Phân loại theo niên đại (thời điểm hình thành di tích).
- Phân loại theo hiện trạng và trình độ kĩ thuật của di tích (có ba dạng).
- Phân loại theo các vùng địa lý quốc gia.
- Phân loại theo giá trị.
e. Giá trị của di tích lịch sử văn hóa.
- Giá trị lịch sử:
+ di tích lịch sử văn hóa là nơi lưu giữ và phản ánh một phần lịch sử của địa
phương và đất nước qua hệ thống các cơng trình kiến trúc, các tác phẩm điêu khắc,
hội họa, hệ thống di vật, cổ vật, bảo vật đặc sắc.
+ di tích lịch sử văn hóa được xây dựng trên địa bàn gắn với những vị trí quan
trọng, nơi đã từng diễn ra các sự kiện, biến cố về chính trị, quân sự, văn hóa - xã
hội trong quá khứ cũng như hiện tại.
+ di tích lịch sử văn hóa chính là nơi lưu giữ và tơn vinh những giá trị đặc sắc về
vật chất và tinh thần của ông cha ta đã hình thành nên trong suốt tiến trình lịch sử
dựng và giữ nước.
- Giá trị tâm linh, tinh thần:
+ sự tồn tại của di tích lịch sử văn hóa gắn liền với sự tồn tại của “tính thiêng”, một
thuộc tính vốn có khơng thể thiếu được trong hoạt động tơn giáo, tín ngưỡng, thờ
cúng, tơn vinh của con người.
+ di tích lịch sử văn hóa là cái “vỏ vật chất” chứa đựng nội hàm văn hóa, tín
ngưỡng phong phú, nơi diễn ra các hoạt động thuộc đời sống tâm linh.
- Giá trị nghệ thuật, văn hóa – xã hội:
Hệ thống di tích lịch sử văn hóa là nơi lưu giữ và trao truyền cho các thế hệ
người Việt Nam những giá trị của kho tàng di sản văn hóa vật thể và phi vật
thể của dân tộc.
2. Danh lam thắng cảnh.
a. Khái niệm:
Danh lam thắng cảnh là cảnh quan thiên nhiên hoặc địa điểm có sự kết hợp
giữa cảnh quan thiên nhiên với cơng trình kiến trúc có giá trị lịch sử, thẩm mĩ,
khoa học.
b. Tiêu chí để trở thành danh lam thắng cảnh cần có:
- Là cảnh quan thiên nhiên hoặc những địa điểm có sự kết hợp giữa cảnh quan
thiên nhiên với cơng trình kiến trúc có giá trị thẩm mĩ tiêu biểu.
- Các khu vực thiên nhiên có giá trị khoa học về địa chất địa mạo, địa lý, đa
dạng sinh học, hệ sinh thái đặc thù. Khu vực thiên nhiên chứa đựng các dấu
vết về các giai đoạn phát triển của trái đất.
c. Đặc điểm:
- Địa điểm do thiên nhiên tạo ra.
- Địa điểm kết hợp với cơng trình xây dựng.
d. Các loại hình danh lam thắng cảnh.
- Danh lam thắng cảnh là do thiên nhiên tạo ra khơng có sự can thiệp của con
người (Vd: Vịnh Hạ Long, Động Phong Nha, Khu dự trữ sinh quyển,…)
- Danh lam thắng cảnh có sự kết hợp cảnh quan và cơng trình kiến trúc.
e. Giá trị của danh lam thắng cảnh.
- Giá trị về tự nhiên, không gian, cảnh quan, mơi trường,…nơi có danh lam
thắng cảnh là nơi có mơi trường tự nhiên và xã hội tốt do được lựa chọn cẩn
thận, là nơi có cảnh quan thiên nhiên tươi đẹp, khí hậu ơn hịa, chưa hoặc ít
chịu sự xâm thực, tác động của con người.
- Giá trị kinh tế khai thác tiềm năng phát triển du lịch từ các khu di tích sinh
thái, các khu nghỉ dưỡng với cảnh quan thiên nhiên đẹp. Bảo lưu giá trị văn
hóa truyền thống, xây dựng văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà, bản sắc dân
tộc.
II.
Di tích lịch sử Đền thờ Hai Bà Trưng.
1. Khái quát về đền thờ Hai Bà Trưng.
Đền thờ Hai Bà Trưng ở thôn Hạ Lôi, xã Mê Linh, huyện Mê Linh, thành phố
Hà Nội được xây dựng trên vùng đất thiêng đắc địa, ngay chính nơi Hai Bà sinh ra,
lớn lên, tế cờ khởi nghĩa giành thắng lợi, xưng Vương và định đô ngay từ những
năm 40-43 sau công nguyên.
Đền toạ lạc trên một khu đất cao, rộng, thoáng giữa cánh đồng, nhìn ra đê sơng
Hồng. Trên cửa chính của Tam mơn nội có bức hồnh phi mang dịng chữ “Ly
chiếu tứ phương” (ví Hai Bà như ánh sáng chiếu toả bốn phương). Theo thuyết
phong thuỷ, khu đất này có hình dáng giống như hình của một con voi trắng đang
uống nước (Bạch tượng yển hồ). Ban đầu ngôi đền được dựng bằng tre, lá. Đến
triều Đinh (968-980), đền được xây lại bằng gạch. Đền đã trải qua nhiều lần trùng
tu, tôn tạo. Năm 1881-1889, đền được trùng tu lớn và đổi hướng lại ban đầu như
hướng ngày nay.
Đền được xây dựng theo kiểu kiến trúc tiền Nhất hậu Đinh, chữ Nhất là toà Tiền
tế, chữ Đinh là toà Trung tế và Hậu cung. Xung quang là tường gạch, hai bên là Tả
mạc và Hữu mạc bao lấy khu sân rộng. Hai cây muỗm bên hồ Bán Nguyệt cùng
các cây cổ thụ khác trong khu nội vi đền toả bóng mát càng làm tơn thêm cho đền
vẻ cổ kính, uy linh. Từ đền nhìn ra hướng Tây qua lạch vịi voi là Tam mơn nội, cột
đá thề, Tam mơn ngoại và đường Kéo quân dấu tích một thời, hướng Nam có hồ
Mắt Voi, hướng Bắc có hồ Tắm Voi. Trơng lên tồ Thượng điện, một khơng gian
tĩnh lặng, thâm nghiêm. Những cột lim trịn, các đầu hồi bít đốc, đầu đao, mái cong
cổ truyền và phần kiến trúc gỗ trong đền hợp nhất thành một thể thống nhất đầy
sức sáng tạo mang tính biểu tượng cao. Đặt trước Trung tế là đôi rồng đá với nghệ
thuật điêu khắc thời Lê, rất ít nơi có. Sự kết hợp đăng đối của ngôi đền khiến cho
người viếng thăm, chiêm bái cảm nhận được sự tơn nghiêm, thành kính.
Trong đền cịn lưu giữ được nhiều cổ vật quý: hai cỗ kiệu Bát Cống, Long Đình từ
thế kỷ XVII, gươm trường, bát bửu, cửa võng, hương án, chuông đồng (đúc năm
1803), bia đá (khắc năm 1889) trùng tu cải chính hướng đền. Đặc biệt, trong Tiền
tế và Hậu cung cịn có nhiều hồnh phi, câu đối mang ý nghĩa tự hào dân tộc ca
ngợi cơng đức Hai Bà. Đó là bức hồnh: Nam Quốc Sơn Hà và Hồng Đế Từ. Đơi
câu đối có niên đại xưa nhất của Vĩnh Tường Tri phủ Nguyễn Thái - cung tiến năm
1881 có nội dung:
“Bất thế anh hùng vương tỉ muội
Nhưng tiền cơ chỉ tuế xuân thu”
Tạm dịch:
“Vua chị, vua em, hào kiệt thế gian khó sánh
Còn nền, còn móng, xuân thu hương lưu dài lâu”
Vào những năm 1943-1945, đồng chí Trường Chinh - Tổng Bí thư của Đảng
đã lấy đền Hai Bà Trưng làm một trong những nơi hội họp bí mật để chuẩn bị cho
Tổng khởi nghĩa giành chính quyền ở thủ đơ Hà Nội ngày 19 tháng 8 năm 1945.
Hiện nay, đền còn lưu giữ 23 đạo sắc phong của các triều đại phong kiến Việt
Nam, sắc phong sớm nhất là từ đời Vua Lê Hiển Tông Niên hiệu Cảnh Hưng 44
(ngày 26 tháng 7 năm 1783) cho đến sắc phong triều Nguyễn năm Khải Định 9
(ngày 25 tháng 7 năm 1924) bao gồm sắc phong tôn hiệu cho Hai Bà và các sắc chỉ
cho dân làng Hạ Lôi cùng các vùng lân cận phải chăm sóc, giữ gìn đền thờ Hai Bà
Trưng.
Ngày 7 tháng 10 năm 1980, Khu thành cổ Mê Linh và đền thờ Hai Bà Trưng
ở làng Hạ Lôi xã Mê Linh đã được Bộ Văn hóa và Thơng tin (nay là Bộ Văn hóa,
Thể thao và Du lịch) cơng nhận là di tích lịch sử - văn hóa cấp Quốc gia.
Từ bao đời nay, đền thờ Hai Bà Trưng đã trở thành nơi sinh hoạt văn hóa tâm linh
của người dân Hạ Lôi và khách thập phương. Những khi vui, buồn, họ thường đến
đây thổ lộ trước anh linh của Hai Bà với mọi lời thỉnh cầu để được linh ứng.
Tương truyền, vào đời Vua Lý Thái Tông (1028-1054), gặp năm đại hạn, nhà Vua
sai thiền sư lập đàn cầu mưa. Một hôm mưa xuống lạnh thấu người, nhà Vua vui
mừng ngắm mưa, tự nhiên ngủ thiếp đi. Trong chiêm bao Vua mộng thấy hai người
con gái đội mũ phù dung, mặc áo xanh, thắt lưng đỏ, cưỡi ngựa sắt theo gió lướt
qua. Vua lấy làm lạ bèn hỏi, hai người trả lời: “chúng ta là chị em họ Trưng, vâng
mệnh Thượng đế làm ra mưa”. Tỉnh mộng nhà vua rất cảm kích liền cho sắm lễ và
đem đến dâng tại đền thờ Hai Bà.
Trong tâm thức của nhân dân, Hai Bà Trưng là hiển thánh của bách gia trăm
họ. Với đức độ và tấm lòng trong sáng, Hai Bà đặt nợ nước lên trên thù nhà, tạm
giấu khăn tang trước giờ ra trận để khỏi xúc động trước ba quân. Công lao to lớn
của Hai Bà trong cuộc khởi nghĩa, giành độc lập dân tộc, khơng có lời nào để ca
ngợi tuyệt đối, mà chỉ có lịng kính trọng: “Vua chị, Vua em hào kiệt thế gian khó
sánh”.
Ngồi đền thờ chính ở làng Hạ Lơi xã Mê Linh, huyện Mê Linh, thành phố
Hà Nội ngày nay, hiện ở nhiều địa phương khác trong cả nước, nhân dân tơn kính
lập đền thờ Hai Bà, hồng thân quốc thích, các tướng quốc của Hai Bà. Theo tư
liệu hiện có tại Ban quản lý di tích đền thờ Hai Bà Trưng, Mê Linh được sưu tầm
xác minh tập hợp thực tế đến ngày 31 tháng 10 năm 2012, trên 42 đơn vị quận,
huyện, thị xã, thành phố thuộc 11 tỉnh thành phía Bắc từ Bắc Giang đến Ninh Bình,
hiện có 215 nơi thờ tự 246 vị tướng của Hai Bà Trưng (40-43 sau công nguyên).
Trong đó có 149 vị nam tướng, 97 vị nữ tướng.
Dù đã qua nhiều lần trùng tu, tôn tạo nhất là thời Nguyễn song lần trùng tu
đầu thế kỷ XXI là lớn nhất. Để xứng đáng với vị thế của Hai Bà Trưng trong lịch
sử dân tộc và tiến tới kỷ niệm 1000 năm Thăng Long - Hà Nội, ngày 29 tháng 8
năm 2002, UBND tỉnh Vĩnh Phúc đã phê duyệt dự án đầu tư, quy hoạch tôn tạo và
xây dựng Khu di tích đền thờ Hai Bà Trưng Mê Linh trên diện tích gần 13ha. Dự
án bao gồm việc trùng tu, tơn tạo đền chính (Tam tồ chính điện), đồng thời xây
dựng một cách đồng bộ, hồn chỉnh các cơng trình phù trợ, tạo thành Khu di tích
Đền thờ Hai Bà Trưng Mê Linh, với quy mô kiến trúc bề thế khang trang. Tháng 5
năm 2003, Dự án trên đã được Thủ tướng chính phủ đưa vào danh mục dự án quan
trọng cấp Quốc gia.
Từ năm 2004, Khu di tích Đền thờ Hai Bà Trưng Mê Linh bắt đầu được tiến
hành trùng tu, tôn tạo lớn. Khởi đầu là tôn tạo Tam tồ chính điện, sau đó là tơn tạo
và xây dựng các hạng mục cơng trình hai bên…
Phía bên trái Tam tồ chính điện có đền thờ thân phụ, thân mẫu ông Thi Sách
và ông Thi Sách; đền thờ các nam tướng của triều Trưng; nhà bia ghi dấu tích hoạt
động cách mạng của đồng chí Tổng Bí thư Trường Chinh (Hộp thư bí mật).
Phía bên phải Tam tồ chính điện là đền thờ thân phụ, thân mẫu, sư phụ, sư mẫu
của Hai Bà Trưng; đền thờ các nữ tướng triều Trưng; miếu thờ thổ thần.
Đây là những kiến trúc bằng gỗ lim được chạm trổ những hoạ tiết sinh động và
tinh tế. Tượng thờ, nội thất, hoành phi, câu đối được sơn son thếp vàng hài hoà,
lộng lẫy, thâm nghiêm.
Phía trước chính điện là sân trên, sân trong, sân ngồi đều được lát bằng đá
phiến.
Sân trong cịn gọi là sân nghi lễ, được lát đá theo hình chiếc chiếu hoa lớn ở
giữa và hình chiếc chiếu hoa nhỏ ở hai bên để chồng kiệu và bài trí voi, ngựa, cờ
sí… khi có lễ tiệc và tế lễ uy nghiêm. Hai bên trong là hai nhà Tả mạc và Hữu mạc
bề thế, kết cấu đầu hồi, bít đốc và lầu chng, gác trống.
Sân ngồi có kiến trúc hình “ngũ phúc” bởi ngọn đá thề giữa sân và bốn bồn
hoa hình con dơi ở bốn góc sân đá. Lời thề của Hai Bà Trưng khi làm lễ tế cờ được
khắc vào ngọn đá. 18 cỗ voi đá đặt ngay ngắn thành hai hàng bên sân đá hướng vào
giữa sân, tượng trưng cho voi của 18 đời Vua Hùng. Hai bên của sân ngoài là khu
vườn hoa cây cảnh, thảm cỏ, núi đá bon sai, cây bóng mát, đường dạo và khu trồng
cây lưu niệm của các đồng chí lãnh đạo Đảng và Nhà nước.
Kết nối giữa sân nội và sân ngoại là Tam mơn nội, đây là cơng trình kiến trúc
có từ thời nhà Nguyễn (1889). Năm 2005, Tam môn nội được tu bổ lại với chất liệu
gỗ lim, hệ thống cột to tròn nâng đỡ 4 mái và 4 đầu đao uốn cong mềm mại bởi
những con kìm hố rồng uyển chuyển.
Tam mơn ngoại được dựng bằng những khối đá tạo nên tứ trụ vuông và hai
mái cổng phụ, chạm trổ những đường nét, hoạ tiết hình những con giống trong “Tứ
Linh”: Long, Ly, Quy, Phượng ở bốn mặt phía trên của cột đá. Ở mỗi mặt cột đá có
khắc câu đối ngợi ca cơng đức của Hai Bà Trưng.
Đan xen trong khu nội vi cịn có hồ Bán nguyệt, hồ Mắt Voi, lạch Vòi Voi, hồ
Tắm Voi cũng được trùng tu. Đối xứng với hồ Tắm Voi có đồi đất cao trồng các
cây gỗ quý, cây bóng mát, cùng với hệ thống đèn đá, đèn cao áp đặt khắp khu nội
vi toả ánh sáng lung linh, huyền ảo vào ban đêm, khiến cho khu di tích trơng như
một cung điện tuyệt mỹ.
Hệ thống tường bao cùng Tam mơn ngoại khép kín khu nội vi rộng 4ha. Khu
ngoại vị rộng hơn 7ha là khu vực tái hiện không gian lịch sử diễn ra các trò chơi
dân gian trong lễ hội như vật dân tộc, đu tiên, chọi gà, bịt mắt bắt dê, cờ bỏi, cờ
người…
Việc quy hoạch, trùng tu, tơn tạo và mở rộng khu di tích đền thờ Hai Bà Trưng
Mê Linh đồng bộ, hoàn chỉnh đã mở ra một thời kỳ mới hứa hẹn nhiều thuận lợi
cho sự phát triển của Mê Linh. Người dân Mê Linh sẽ có điều kiện để phát huy thế
mạnh của mình và Mê Linh sẽ là điểm hẹn du lịch văn hoá tâm linh hấp dẫn đối
với du khách trong và ngoài nước.
2. Nhân vật lịch sử Hai Bà Trưng.
Hai Bà Trưng Hai Bà Trưng (mất ngày mùng 6 tháng 2 năm Quý Mão 43) là tên
gọi chung của Trưng Trắc và Trưng Nhị, hai chị em (nhiều tài liệu nói là sinh đơi)
là anh hùng dân tộc của người Việt. Hai Bà Trưng khởi binh chống lại quân Hán,
lập ra một quốc gia với kinh đô tại Mê Linh và tự phong là nữ vương. Sau khi cuộc
khởi nghĩa này bị quân Hán dưới sự chỉ huy của Mã Viện đánh bại, tục truyền rằng
vì khơng muốn chịu khuất phục, hai Bà đã nhảy xuống sông tự tử. Đại Việt Sử ký
Toàn thư coi Trưng Trắc là một vị vua trong lịch sử Việt Nam. Tiểu sử Theo Đại
Việt Sử ký Toàn thư, hai bà nguyên là họ Lạc, con gái của Lạc tướng huyện Mê
Linh, Phong Châu. Mẹ hai bà là bà Man Thiện, theo truyền thuyết và thần tích bà
là người làng Nam Nguyễn (Ba Vì, Hà Tây), có tên là Trần Thị Đoan, chồng mất
sớm. Bà có cơng dạy hai chị em Trưng Trắc, Trưng Nhị giỏi võ, có tinh thần u
nước, có chí lớn. Trưng Trắc là vợ của Thi Sách con trai Lạc tướng huyện Chu
Diên. Tuy nhiên, theo Phó giáo sư Nguyễn Khắc Thuần trong sách Danh tướng
Việt Nam, thời đầu công nguyên, người Việt "chưa có họ". Tên Trần Thị Đoan của
mẹ hai bà chỉ là tên thần phả đặt sau này, khoảng thế kỷ 17, 18. Cả tên Man Thiện,
theo giáo sư Thuần, nghĩa là "người Man tốt", có thể do người Hán gọi. Tên của
ông Thi Sách, theo một số tư liệu Trung Quốc được xác định: chồng bà Trưng Trắc
tên là Thi. Cịn tên của hai bà, có nguồn gốc từ nghề dệt lụa truyền thống của Việt
Nam, tương tự như cách đặt tên theo các loài cá của các vua nhà Trần sau này vốn
xuất thân từ nghề chài lưới. Xưa kia nuôi tằm, tổ kén tốt gọi là "kén chắc", tổ kén
kém hơn gọi là "kén nhì"; trứng ngài tốt gọi là "trứng chắc", trứng ngài kém hơn
gọi là "trứng nhì". Do đó, theo sách Danh tướng Việt Nam, tên hai bà vốn rất giản
dị là Trứng Chắc và Trứng Nhì, phiên theo tiếng Hán gọi là Trưng Trắc và Trưng
Nhị. Khi hai bà Trưng khởi nghĩa chống quân Hán, bà Man Thiện ln ln có mặt
cùng các con bàn việc cơ mật. Bà mất trong thời gian chống Mã Viện. Nhân dân
địa phương lập miếu thờ bà, gọi là Miếu Mèn, nay ở làng Nam Nguyễn, huyện Ba
Vì, tỉnh Hà Tây vẫn cịn ngơi mộ cổ của bà. Nhân dân gọi đó là Mả Dạ (tiếng Việt
cổ gọi các cụ bà là "dạ"). Sự nghiệp Các Lạc tướng Mê Linh và Chu Diên có ý
chống lại sự cai trị tàn bạo của Thái thú Tô Định. Định bèn bắt giết Thi Sách để
trấn áp tinh thần người Việt. Tháng 2, năm Canh Tý (tức năm 40 sau công ngun),
vì Tơ Định dùng pháp luật trói buộc, lại thù Tơ Định giết chồng mình, Trưng Trắc
cùng với em gái là Trưng Nhị nổi binh đánh hãm trị sở ở châu. Tô Định chạy về
nước. Các quận Nam Hải, Cửu Chân, Nhật Nam, Hợp Phố đều hưởng ứng. Hai bà
lấy được 65 thành ở Lĩnh Nam. Trưng Trắc tự lập làm vua, xưng là Trưng Nữ
Vương. Ngày 30 tháng 2 năm Tân Sửu (tức năm 41 sau công nguyên), nhà Hán
thấy bà xưng vương dấy quân đánh lấy các thành ấp, các quận biên thùy, nên hạ
lệnh cho các quận Trường Sa, Hợp Phố và Giao Châu sắp sẵn xe thuyền, sửa sang
cầu đường, thơng các núi khe, chứa thóc lương, cho Mã Viện làm Phục Ba tướng
quân, Phù Lạc hầu Lưu Long làm phó sang xâm lược. Chiến tranh chống nhà Hán
của Hai Bà Trưng Tháng Giêng năm Nhâm Dần (tức năm 42), Mã Viện tiến theo
đường ven biển, san núi làm đường hơn nghìn dặm, đến Lãng Bạc (ở phía tây Tây
Nhai của La Thành) đánh nhau với vua. Hai bà thấy thế giặc mạnh lắm, tự nghĩ
qn mình ơ hợp, sợ không chống nổi, lui quân về giữ Cấm Khê (sử chép là Kim
Khê). Quân cũng cho vua là đàn bà, sợ không đánh nổi địch, bèn tan chạy. Năm
Quý Mão (tức năm 43 sau công nguyên), Hai Bà Trưng chống cự lại với quân nhà
Hán, thế cô, bị thua, đều tử trận. Mã Viện đuổi theo đánh quân còn sót lại huyện
Cư Phong thì tàn qn đầu hàng, Mã Viện bèn dựng cột đồng (tương truyền ở trên
động Cổ Lâu châu Khâm) làm giới hạn cuối cùng của nhà Hán, và khắc lên đó
dịng chữ thề: "Cột đồng gãy thì Giao Chỉ diệt" (Đồng trụ chiết, Giao Chỉ diệt). Từ
đây, nước Việt lại thuộc quyền kiểm soát của nhà Hán. Người dân đã dựng đền thờ
Trưng Nữ Vương ở xã Hát Giang, huyện Phúc Lộc (nay ở Hát Môn, huyện Phúc
Thọ, tỉnh Hà Tây), và ở đất cũ thành Phiên Ngung cũng có. Đánh giá Sử gia Lê
Văn Hưu viết: Trưng Trắc, Trưng Nhị là đàn bà, hô một tiếng mà các quận Cửu
Chân, Nhật Nam, Hợp Phố, cùng 65 thành ở Lĩnh Ngoại đều hưởng ứng, việc dựng
nước xưng vương dễ như trở bàn tay, có thể thấy hình thế đất Việt ta đủ dựng được
nghiệp bá vương. Tiếc rằng nối sau họ Triệu cho đến trước họ Ngơ, trong khoảng
hơn nghìn năm, bọn đàn ơng chỉ cúi đầu bó tay, làm tơi tớ cho người phương Bắc,
há chẳng xấu hổ với hai chị em họ Trưng là đàn bà hay sao? Ơi! Có thể gọi là tự
vứt bỏ mình vậy. Sử gia Ngơ Sĩ Liên viết: Họ Trưng giận thái thú nhà Hán bạo
ngược, vung tay hô một tiếng mà quốc thống nước ta cơ hồ được khơi phục, khí
khái anh hùng há chỉ lúc sống dựng nước xưng vương, mà sau khi chết cịn có thể
chống ngăn tai họa. Phàm gặp những việc tai ương hạn lụt, đến cầu đảo khơng việc
gì là khơng linh ứng. Cả bà Trưng em cũng thế. Vì là đàn bà mà có đức hạnh kẻ sĩ,
cái khí hùng dũng trong khoảng trời đất khơng vì thân chết mà kém đi. Bọn đại
trượng phu há chẳng nên ni lấy cái khí phách cương trực chính đại ấy ư? Hồng
đế Tự Đức viết trong Khâm định Việt sử thông giám cương mục: Hai Bà Trưng
thuộc phái quần thoa, thế mà hăng hái quyết tâm khởi nghĩa, làm chấn động cả
triều đình Hán. Dẫu rằng thế lực cô đơn, không gặp thời thế, nhưng cũng đủ làm
phấn khởi lòng người, lưu danh sử sách. Kìa những bọn nam tử râu mày mà chịu
khép nép làm tôi tớ người khác, chẳng những mặt dày thẹn chết lắm ru!... Di sản
gồm: Tranh Hai Bà Trưng đánh đuổi Tô Định (Tranh dân gian Đông Hồ). Lễ hội
tưởng nhớ hai bà Trưng ngày 26 tháng 4 năm 1957 tại Sài Gòn Hai Bà Trưng được
coi là anh hùng dân tộc của Việt Nam, và được thờ cúng tại nhiều đền thờ, trong đó
lớn nhất là Đền Hai Bà Trưng ở quận Hai Bà Trưng, Hà Nội và đền Hai Bà Trưng
tại thôn Hạ Lôi, xã Mê Linh, huyện Mê Linh, Hà Nội - quê hương của hai bà.
Ngoài ra, tại tỉnh Hồ Nam (Trung Quốc) hiện nay vẫn còn miếu thờ Trưng
Vương (miếu này đã được kiểm chứng bởi hai nhà nho đi sứ đó là Nguyễn Thực và
Ngơ Thì Nhậm) do những cừ súy bị bắt về đất Hán sau khi khởi nghĩa của Hai Bà
Trưng thất bại lập ra để tưởng nhớ về quê hương và cũng là thể hiện tinh thần bất
khuất của người Việt thời Hai Bà Trưng. (Ngày nay tại các tỉnh miền nam Trung
Quốc vẫn có tục thờ vua Bà, một vị thần linh thiêng trong quan niệm của người
dân địa phương). Vua bà có khả năng chính là Hai Bà Trưng, do thời gian quá lâu
đã thất truyền nguồn gốc của những phong tục này. Các danh xưng của hai bà
(Trưng Trắc, Trưng Nhị, Trưng Vương, Hai Bà Trưng) còn được đặt cho nhiều
trường học, đường phố, quận... ở Việt Nam. Các câu chuyện về Hai Bà Trưng, Bà
Triệu, và các nữ tướng khác được một số sử gia trích dẫn để làm bằng chứng cho
luận điểm rằng xã hội Việt Nam trước khi bị Hán hóa là một xã hội mẫu hệ, trong
đó phụ nữ có thể giữ vai trị lãnh đạo mà khơng gặp trở ngại. Đại Nam quốc sử
diễn ca có đoạn kể về cuộc khởi nghĩa của Hai bà Trưng đã trở thành quen thuộc
đối với người Việt:
Bà Trưng quê ở Châu Phong
Giận người tham bạo thù chồng chẳng quên
Chị em nặng một lời nguyền
Phất cờ nương tử thay quyền tướng quân
Ngàn tây nổi áng phong trần
Ầm ầm binh mã xuống gần Long Biên
Hồng quần nhẹ bước chinh yên
Đuổi ngay Tô Định, dẹp yên biên thành
Kinh kỳ đóng cõi Mê Linh
Lĩnh Nam riêng mợt triều đình nước ta
Ba thu gánh vác sơn hà
Một là báo phục hai là Bá Vương
Uy danh động tới Bắc Phương
Hán sai Mã Viện lên đường tấn công
Hồ Tây đua sức vẫy vùng
Nữ nhi địch với anh hùng được sao!
Cẩm Khê đến lúc hiểm nghèo
Hai Bà thất thế cùng liều với sông!
Trước là nghĩa, sau là trung
Kể trong lịch sử anh hùng ai hơn.
Hàng năm, vào ngày 6 tháng 2 âm lịch, là ngày giỗ hay là lễ hội tưởng nhớ Hai
bà (cũng là Ngày Phụ nữ Việt Nam tại miền Nam trước kia) được tổ chức tại miền
Nam Việt Nam trước năm 1975 và hiện nay tại nhiều nơi trong nước Việt Nam
cũng như cộng đồng người Việt tại nước ngoài.
Hiện này thì ngày tổ chức lễ hội tại đền thờ Hai Bà Trưng (Mê Linh – Mê LinhHà Nội) để tưởng nhớ công ơn của hai bà là vào ngày 6 đến mùng 10 tháng giêng
âm lịch hàng năm.