NGŨ HÀNH TRẠM TRANG 1.0
Dòng phái Wang Shu Chin
Biên soạn: võ sư motgiot
Ghi chú: Đây là tài liệu quý, đã được biên soạn rất lâu bởi võ sư motgiot,
một người anh cả của các dòng phái nội gia quyền, thái cực quyền Việt
nam hiện đang sinh sống tại Mỹ.
Do tài liệu phát hành đã q lâu, thơng tin có thể bị mất mát do vậy xin
phép được ghi chú là bản 1.0 trong khi chờ bản mới tốt hơn.
Tài liệu tài liệu được tìm lại, chỉnh sửa giao diện và upload bởi
NgoThuatTaichi.com, quý vị có thể tham khảo các ebook khác: top 16
ebook thái cực quyền miễn phí
Trạm trang là một phương pháp dưỡng sinh cổ đạI của (TQ). Từ 2000 năm
trước, trong sách ”Hoàng đế nộI kinh” đã viết ”…. Thượng cổ hữu chân
nhân, đề khiết thiên địa, bả ác âm dương, hơ hấp tinh khí, độc lập thủ thần,
cơ nhục nhược nhất, cố năng thọ tế thiên địa,…” Nhưng 1000 năm trở lạI,
phương pháp này chỉ được ngườI ta coi là cơ bản công trong q trình
nhập mơn võ thuật. Dùng tính ngun lí, chất căn bản của trạm trang như
cương nhu, hư thực, động tĩnh, lỏng chặt đan kết và công dụng của âm
dương tương giao, thủy hỏa khắc chế, kết hợp thể nghiệm mấy chục năm
luyện công, sáng tạo ra một loạI công pháp động tĩnh tương kiêm, nội
ngoạI ôn dưỡng, dùng để phịng bệnh, trị bệnh, kiện thân, ích thọ, gọi là
Trạm trang công. Thông qua Viện y học đường sắt thuộc Viện y học Bắc
kinh, Viện nghiên cứu Trung y thuộc tỉnh Hà bắc và vớI chứng minh thực
tiễn nhiều năm chữa bệnh của tơi, loại cơng pháp này thích hợp vớI các
loại bệnh trường vị , bệnh gan, bệnh thần kinh , viêm khớp, cao huyết áp,
bán thân bất toạI, phụ khoa, nhãn khoa & nhiều loại bệnh khác. Tác dụng
cơ bản trị bệnh của Trạm trang cơng chính là nó có thể bảo dưỡng tâm
thần, lại có thể luyện tập thân thể. Tức là có thể làm tăng não lực, lại có thể
tăng cường thể lực. Khoa học hiện đạI cho rằng loại cơng pháp này khơng
những có thể làm cho huyết dịch tuần hồn thơng suốt mà cịn có tác dụng
thải cũ nạp mớI, tăng cừơng cơng năng của các khí quan, cơ quan & các
tế bào. Đồng thờI làm cho toàn thân cơ bắp luyện tập & đạt tớI tính ”nọa
lực” , sản sinh ra một loại xung động hướng nội, từ đó mà kích thích đại
não,…. Trước khi nhập tĩnh thể hội cảm giác nhẹ nhàng sảng khối, đối
với đại não cũng là kích thích thực tính. Nhập tĩnh rồi, sẽ sản sinh ra ức
chế, có tác dụng bảo vệ. Trung y cho rằng loại công pháp này có tác dụng
lưu thơng kinh lạc, điều tức khí huyết, làm cho âm dương tương giao, thủy
hỏa tương tế, tăng cường tinh thần, luyện tập cơ thể, tăng cường khí lực.
Các đặc điểm:
1. Miệng hơi mở, hơ hấp tự nhiên, bất luận châu thiên tuần hồn. Do đó
khơng sinh ra tác dụng phụ.
2. Thực tiễn chứng minh: ngườI mớI luyện cơng, chỉ cần kiên trì luyện tập,
dù khơng đạt tớI yếu lĩnh nhập tĩnh, thì vẫn thu được hiệu quả trị liệu.
3. Không phụ thuộc thờI gian, địa điểm, điều kiện; bất kể đi, đứng, nằm,
ngồI tùy thờI tùy chỗ, đều có thể luyện cơng. Loại cơng này đơn giản, dễ
tập, hồn tồn có thể tạo thành một phần của cuộc sống, dễ dàng được
công chúng tiếp thu & nắm vững.
4. Căn bản thể chất, tuổI tác, bệnh tình, tính cách, thiên bẩm, thói quen
sinh hoạt khác nhau v…v… sử dụng, điều phối thế thức & ý niệm hoạt
động khác nhau. Do đó loạI biện chứng luận trị này tùy ngườI, tùy bệnh mà
định ra phương pháp phù hợp, tăng tốc độ & hiệu quả chữa bệnh
5. Đây là loại hoạt động chỉnh thể có quan hệ tương hỗ, chế ước nhau,
điều chỉnh cân bằng âm dương giữa hình, ý, khí, lực. Do đó nó cũng là một
lọai phương pháp luyện tập mà động tĩnh tương kiêm, nội ngoại ơn dưỡng
. Tức có thể tu dưỡng tinh thần, luyện tập hình hài (đặc biệt là Trang thức).
Do đó nó khơng chỉ thích hợp vớI việc trị bệnh, mà càng kiên trì luyện tập,
thì có thể làm cho người thể chất yếu đuối trở thành khỏe mạnh, người
khỏe càng khỏe hơn. Phịng chống lão hóa, trị bệnh, ích thọ. Từ đó mà có
thể xây dựng xã hộI tốt đẹp hơn.
Tự Nhiên Trang – hay Vô Cực Trang là công pháp bước đầu làm quen
với dưỡng khí cơng.
Cơng Pháp: Đứng tự nhiên, 2 tay thả lõng hơi khuỳnh, 2 chân khoãng cách
bằng vai hoặc đứng cách nào thoải mái nhất cho mình, gối hơi chùn. Hư
linh đỉnh kình – Huyệt Bách Hội trên đĩnh đầu như treo, Huyệt Trường
Cường ở cuối xương cùn rơi xuống, mông hơi đưa về trước, cột xương
sống hơi giãn cho khí dể thơng, người tồn thân thả lõng chìm xuống. Lưỡi
đặt lên trên nóc giọng, răng mơi hơi khép, mắt nửa đóng nửa mở lim dim,
thần nội liễm nhìn vào trong thân, ý thủ đan điền, trí khơng nghĩ ngợi mơng
lung mà phải thã mỡ thãnh thơi thư thái, hít thở điều hịa chậm sâu đều
mịn khơng gián đoạn, hít thở tuỳ theo sức mình, khơng cố gắng hít thở sâu
sẽ bị chóng mặt. Lúc đầu có thể đứng 1 phút, lâu dần có thể tăng lên
khoảng 1 tiếng hoặc hơn, tập hằng ngày vào mỗi buổi sáng và tối, nếu
không có thời gian thì có thể tập trước khi đi ngũ.
Tập chổ thống mát dễ chịu, tránh chổ gió to hoặc lạnh nhiều, có thể đứng
trong phịng tập nếu khơng có chổ, tránh tập lúc bụng đói hoặc no quá.
Sau khi ta đứng một thời gian thì khí tự động phát sinh, cứ để cho khí tự
do chuyển động luân lưu khấp châu thân.
Âm Dương Trang – Sau khi đứng Tự Nhiên Trang một thời gian,
khí trong người đã phát sinh thì lúc đó hãy tập Âm Dương Trang.
Cơng Pháp: đứng và tập giống như Tự Nhiên Trang nhưng đến lúc khí ln
lưu khấp châu thân là lúc đó ta hãy nương theo khí để chuyển Âm Dương
bằng cách chuyển sức nặng từ phải qua trái và ngược lại, khi chuyển sức
nặng phải đợi cho thân chìm xuống chân và có cảm giác như chân chìm sâu
và mọc rễ xuống đất, lúc đó mới chuyển sức nặng về phiá bên chân kia. Tay
chân và toàn thân nương theo sự chuyển động của khí mà cứ để đóng mở
Âm Dương một cách tự nhiên.
Càn Khôn Trang – Sau khi đã thành thục Tự Nhiên và Âm Dương
Trang sau 1 thời gian tập luyện, thì lúc đó ta mới bắt đầu tập Càn
Khơn Trang.
Cơng Pháp: đứng, tập, hít thở giống như phần 1 & 2. Lúc nầy cơng phu của
chúng ta đã có phần tiến triển, tiếp theo ta để 2 tay lên nhau sau cho 2
huyệt Lao Cung trong lòng bàn tay chồng lên nhau ( Nam – tay trái đặt lên
hạ đan điền, tay phải đặt lên tay trái. Nử – tay phải đặt lên hạ đan điền, tay
trái đặt lên tay phải) nằm trên hạ đan điền, hạ đan điền là vùng ở dưới rốn
khoản 1 thốn rưởi, nương theo khí tay ta di chuyển vòng tròn từ trái qua
phải hoặc từ phải qua trái tuỳ theo lúc khí di chuyển, tay di chuyển như xoa
nhẹ vòng quanh hạ đan điền, tay xoay nhẹ nhàn thoải mái.
Thức thứ nhất: Tâm Kinh
Chú ý các điểm đánh A,B,C…, Tơi sẽ chú thích sau
vẫn trong thức thứ nhất
thức thứ nhất
A- cầm hơi rút vào, nhắm mắt lại cũng được nếu chỉ muốn dưỡng sinh,
nếu muốn tập cho võ thuật thì mắt hé mở, lưởi để tự nhiên sẽ chạm phần
trên lợi của răng trên, khơng cong lưởi để chạm vịm như một số khí cơng
gia khuyến khích. Mắt và cả mặt bng xã
B- vai trầm và hơi đưa ra trước thì như vậy ngực hàm hung và relax (K).
Hơi tách khớp xương tay và vai, khi làm đúng thì
C- hai cùi chỏ sẽ hướng ra ngoài, một phần thật nhỏ lực sẽ đi theo hình
mũi tên vịng cung mà tơi vẽ từ vai xuống bàn tay
D- cổ tay hơi có gốc độ, tức bàn tay hơi nâng lên đồng thời cổ tay để một
chút lực xoắn như hình cuối
E- bàn tay xoè, hổ khẩu mở, ngón tay khơng căng thẳng nhưng cũng
khơng q cong. Trong 5 thức bàn tay có chút khác biệt cũng như khi đi
bài quyền thái cực, bàn tay tuy mở nhưng không giống nhau cho tất cả các
thức
G- cạnh ngoài của bàn chân hướng thẳng về phía trước hay hướng vào
phía trong cũng được, như vậy thì cạnh trong của chân (H) sẽ hội tụ hình
chữ bát
F- khi G làm đúng và khoảng cách cạnh ngoài của chân tương đương
chiều rộng vai, rùn ngừoi xuống và bng xã thì đầu gối có khuynh hướng
đi về gần nhau, như vậy 3 kinh dương và 3 kinh chân đều đựoc kích thích
J- Đối với người tập võ thì rùn sâu một chút và với cấu trúc đó bàn tọa tự
động đẩy vào, hậu mơn tự động khoá. Đối với ngừoi lớn tuổi đứng hơi cao
thì bàn toạ nên cố ý đẩy vào
I- khi B, C làm đúng thì lưng sẽ trịn bạt bối
L- vì tay khuỳnh nên hành giả sẽ thấy cạnh trong cũng như cạnh ngồi
cùng với vai tạo thành vịng trịn và với tính chất mở rộng của nó nên cạnh
ttrong của của tay, nách, cạnh thân có khoảng trống như có thể kẹp trái
banh (L) vậy
M- người khơng nghiêng ngả, nhìn rất vững chảy, lâu dần tấn sẽ trụ
Nếu làm đúng cách thì nếu có người vổ và lưng hơng bụng với sức mạnh
thì hành giả vẫn cảm thấy thoải mái không đau đớn
Hành giả phải cố gắng buông xã không gồng cứng. Cũng như thái cực
quyền, những tư thế khó relax nhưng tập lâu sẽ relax được, lúc đó sẽ hiểu
được thế nào là nhu mà không nhược, cương mà không cường
tiếp
tiếp
Thức thứ 2: Can Kinh
Sau khi đứng thức thứ nhất- thí dụ 5 phút-thì chuyển qua thức thứ nhì.
Động tác chuyển thật chậm như đi TCQ.
Khi chuyển, lưng bàn tay hướng vào trong và đối diện nhau, cổ tay hơi vặn
căng, đến khi 2 bàn tay ngang vai thì mới xoay tay, hướng lịng bàn tay
vào người như ôm trăng, khoảng cách từ 1 nắm tay đến 3 nắm tay tuỳ theo
cấu trúc cơ thể của mỗi người. Khoảng cách này tuỳ theo hành giả, sau
một thời gian tập, cảm giác khí lực sẽ là yếu tố xác định cho mỗi người biết
được khoảng cánh nào là đúng cho mình
Thức thứ ba: Tỳ Kinh
sau khi đứng thức thứ nhì- thí dụ 5 phút- thì chuyển qua thức thứ ba.
Kéo tay vào sát ngực, lật bàn tay rồi đẩy từ từ ra
Sau khi đứng tỳ kinh- thí dụ 5 phút thì chuyển qua thận kinh
Thức thứ tư: Thận Kinh
Sau khi đứng tỳ kinh- thí dụ 5 phút thì chuyển qua thận kinh
Thức thứ 5: Phế Kinh
Sau khi đứng thế thứ tư thận kinh- thí dụ 5 phút thì chuyển chậm chậm qua
thức thư 5, theo hình vẽ. Nên chú ý sau khi hồn tất vị thế thì lịng bàn tay
hướng qua 2 bên phải trái, chứ khơng phải hướng về phía trước. Nhìn
hình cuối bên phải (hình nhìn ngang) sẽ rõ hơn.
Bí quyết về hình
Hỏi: Xin nói rõ hơn về người khi tập trang cơng hơi đẩy trọng tâm về phía
trước,hoặc phía sau để làm gì?
Đáp: Tạm mượn một hình ảnh của Trần thức. So sánh 2 hình các bạn sẽ
thấy trọng tâm của Trần thức đặt ở gót chân. Lối này cho những người
dưỡng sinh lớn tuổi gối đã yếu, thế đứng khó trụ vững chảy, chỉ đụng nhẹ
sẽ ngã ra sau. Đối với người tập võ thì khơng nên tập lối này. Cho dù
người yếu gối sau một thời gian tập luyện cũng nên dần dần đẩy trọng tâm
về giữa bàn chân, về phương diện khí thì sẽ nối liền Dũng tuyền và Hội
âm, có khả năng sửa gối, cũng giúp ích phát kình như là sức búng ra.
Lối đứng của 2 chân khác nhau. Trần thức như kỵ mã của ngoại gia, 2 bàn
chân chữ bát ngược. Nói ngược vì khi người tập nhìn xuống sẽ thấy
ngược.
Hỏi: Xin nói kĩ hơn nữa về vấn đề làm sao để thót hậu mơn trong khi đẩy vị
trí đan điền ra trước mà lưng vẫn thẳng và phần háng sát bẹn (hậu mơn) lại
có ý khép lại.
Đáp: Lối đứng của Trần thức làm hở hậu môn, thế là người ta chế ra thót
hậu mơn. Có khi người ta chủ trương thót hậu môn trong lúc đi TCQ. Nếu
đứng theo tự nhiên theo tơi chỉ dẫn thì gối tự đi vào, đẩy mơng ra một chút
phía trước thì hậu mơn được đóng một cách tự nhiên, nhờ vậy mà buông xã
dễ dàng, ý khơng bị tán loạn vì lo nhíu hậu mơn.
Thứ hai về phương diện đông y, Thận làm chủ, là lị của tinh. Tinh sung thì
khí mãn. Dũng tuyền nằm trên thận kinh. Mặc dầu 5 thức chia ra tâm can tỳ
thận phế nhưng thật ra chúng là mối liên hệ không tách rời, thế đứng khép
gối một cách tự nhiên không gồng gánh làm đường thận kinh thông suốt.
Trong TCQ, những 2 bàn chân theo chữ bát thuận thấy rất nhiều , nhất là
trong lúc chuyển hướng, người ta chỉ thấy phương diện chuyển hướng mà
khơng thấy sự kích thích thận kinh.
Hỏi : Khi tập trạm trang khí cảm sẽ quyết định khoảng cách giữa hai tay.
Vậy xin hỏi khí cảm như thế nào thì là đúng??
Đáp: Bạn thích ăn thịt chấm mắm nêm hay nước mắm, chỉ có bạn mới biết.
Sau một thời gian tập luyện bạn sẽ chọn đúng vị thế cho cơ thể của mình.
Hãy nhìn lại hình trên để so sánh. Trần thức cho khoảng cách khá xa giữa
hai bàn tay. Lối này dễ cho các cụ, đỡ mỏi. Nhưng với thanh niên thì nên để
tay sát hơn, lưng sẽ trịn hơn (bạt bối), khí sẽ bọc trịn thân, từ nách đến
sườn tạo ra nội cơng thiết bố sam, dĩ nhiên khó bng xã hơn, nhưng cái
khó đã làm được thì cái dễ lại quá dễ dàng, sau này sử dụng kình từ vai sẽ
mạnh mẽ.
Thường người ta hay nói đến truỵ chỏ, thế là đua nhau cái gì cũng truỵ chỏ.
Khơng hẳn như vậy, phải hiểu tại sao phải truỵ chỏ thì khi hành trạm trang
hay đi bộ vị TCQ mới chính xác. Trong hình Trần thức, trỏ truỵ hơi nhiều,
dễ cho các cụ dưỡng sinh nhưng không tạo điều kiện nhiều để phát triển
bằng kình và thái kình, đó là chưa nói đến kình từ chỏ.
Hỏi : Có người bảo tập trạm trang cơng cũng có thể bị cứng? Vậy cứng ở
chỗ nào?
Đáp: Câu hỏi này có thể có hai ý và có liên quan với phần tơi nói trên nên
xin trả lời ở đây.
Thư nhất, tập trạm trang theo lối này và đứng với thời gian dài nên cơ bắp
phải căng thẳng, nhưng lúc nào ta cũng phải buông xã, có nghĩa là ta dụng
lực tối thiểu nhất để giữ bộ vị. Giữ bộ vị khơng có nghĩa cứng nhắc khơng
lay động, vì khi khí lực di chuyển cực mạnh thì có thể tạo lắc lư. Cho dù sự
lắc lư khơng phải do khí mà do mỏi mệt lay động thì ta lại càng phải bng
xã thư giãn, khơng dụng sức để kềm chế . Dù sao thì với thời gian tập luyện
cơ bắp khi để bình thường thì mềm nhưng ở những bộ vị liên quan thì cứng
một cách tự nhiên không phải do gồng mà ra, cơ bắp có âm dương cân bằng
và linh hoạt chứ khơng phải cứng ngắc như các nhà cử tạ, cơ bắp bị rút
ngắn.
Thứ hai, có người sinh ra đã mang chứng cứng cơ, hoặc do nghề nghiệp tạo
nên, thì như vậy khi tập trạm trang phải chuyển đổi cho phù hợp với cơ thể.
Tơi sẽ nói thêm về chiến lược bng xã, ý và hơi thở , cấp bậc của nội công.
Hỏi: Xin hỏi khi bắt đầu thì thế nào và kết thúc ra sao?
Đáp: Tôi không trả lời theo thứ tự thời gian cho các bạn mà theo mối liên
hệ của vấn đề, cho nên xin trả lời câu này trước.
Trước khi tập trạm trang ta nên khởi động theo lối của phái TCQ, nhất là
động tác xoay eo phải trái với 2 cánh tay đong đưa hồn tồn bng thả,
làm sao cảm thấy khớp vai, khớp chỏ khớp cổ tay, các khớp ngón tay như
tách ra vì khơng có một lực nào kềm chế chúng lại. Các khớp cột sống dãn
mở, thì bắt đầu đứng như thế chuẩn bị TCQ, bước chân trái qua trái tuần tự
tập 5 thức. Các bạn có thể đứng thời gian ngắn như 3 phút mỗi thế, cuối
cùng vung tay lên mặt đẩy xuống hạ đan điền như khi đóng TCQ, từ tư thế
đó thở 5, 6 hơi thở sâu nhẹ tự nhiên rồi khởi thái cực đi thái cực quyền.
Điều đó sẽ giúp tâm tĩnh và bạn sẽ đánh TCQ chất lượng hơn.
Nếu muốn chỉ tập trạm trang mà không tập tiếp TCQ thì thơng thường các
bạn phải tiến dần đến khả năng đứng lâu 1 hay 2 tiếng. Lúc đó bạn kết thúc
trạm trang giống như TCQ rồi bước chân trái 45 độ qua trái, 2 tay vòng lớn
như thức 2 nhưng lòng bàn tay úp xuống đất, hổ khẩu và các ngón mở, độ
cao khoảng ngang hay dưới vú, rồi làm động tác mhư người xây bột, ngược
chiều kim đồng hồ, xoay eo, lúc cánh tay ra trước ngực thì đẩy trọng lượng
trên chân trái 70%, lúc tay về sát ngực thì trọng lại lên chân phải, ý thủ đan
điền. Làm chậm như đánh TCQ rồi sau đó bước chéo chân phải làm ngược
lại.
Hỏi: Xin hỏi đứng thấp bao nhiêu là đúng?
Đáp: Tơi đã nói sự khác biệt giữa các cụ tập dưỡng sinh và với thanh niên
nay xin nói rõ thêm. Thơng thường đối với thanh niên thì nên rùn thấp đến
khi mình nhìn xuống thấy gối vùa che ngón chân cái. Có người cho rằng đó
là mức giới hạn nhưng đại sư Wang cho rằng có thể xuống sâu hơn một
nắm tay, cái gì kiểm chứng là đúng, chính là khí, khí là quan tồ . Cũng như
làm sao biết những bộ vị trong TCQ dòng nào đúng, thí dụ tỳ bà thế, chính
khí là quan tồ!
Hỏi: Xin hỏi vậy chữ bát thuận nói trong hình thức luyện trạm trang có phải
là kiểu chân của thế kiềm dương mã trong Vịnh Xuân, chỉ khác tư thế đứng
rộng hơn so với kiềm dương mã khoảng cách một vai giữa hai gót chân?
Đáp: Về việc các bạn so sánh lối đứng với Vịnh Xn thì xin thưa tơi không
biết Vịnh Xuân nên không so sánh được. Chỉ nhấn mạnh là khoảng cách của
2 cạnh NGOÀI của chân rộng bằng ngang vai, và cạnh NGOÀI song song
hướng thẳng về phía trước (xem hình!)
Hỏi: Xin chỉ rõ chứng căng cơ hoặc cứng cơ bắp và các biện pháp cần khắc
phục và lưu ý trong quá trình luyện trạm trang.
Đáp: Chứng căng cơ cần phải biết đúng vị thế và chi tiết mới cải sửa trạm
trang cho phù hợp, không thể dùng lời viết được.
Hỏi: Khi tập, tơi có bấm mũi chân xuống đất để lòng bàn chân vồng lên,
nhưng người ln có xu hướng chuyển trọng tâm ra gót chân, vậy làm sao
để biết được là mình đã đổ trọng tâm vào giữa lòng bàn chân?
Đáp: Cả bàn chân chạm đất một cách tự nhiên như đứng một cách bình
thường, khơng nên cố tình tạo bàn chân vịng lên, thì như vậy trọng tâm sẽ
nằm trọn vẹn trên bàn chân vững chảy, lâu dần sẽ trầm trụy và tập trung,
tấn sẽ trụ mà có người đã giải thích bằng những điều huyền hoặc. Biết được
đứng đúng trọng tâm vì người sẽ thấy thăng bằng, khơng ngã trước ngả sau,
khi thăng bằng nên dễ buông xã. Sau khi tập một thời gian trở thành quen
thuộc thì có thể sử dụng các ngón chân bám nhẹ xuống. Mới tập thì khơng
cần chú tâm điểm này, vì sẽ trở ngại cho sự buông xã, buông xã là yếu lĩnh
số một cần đạt và một trong những bộ phận để tập trung đầu tiên là vai.
Hỏi: Vấn đề mắt nhắm hay mở phải làm thế nào?
Đáp: Nhắm mắt thì dễ tập trung, dễ buông xã, nhất là tập chỗ n tĩnh, vì
tai khơng nghe, mắt khơng thấy. Ngược lại hơi mở mắt thì sẽ khó tập hơn.
Nhưng khi đạt được thành quả bng xã và tập trung thì sẽ ích lợi cho việc
luyện tập nội gia quyền, dù chỗ đông người ồn ào cũng không ảnh hưởng,
trong chiến đấu thì khơng phải nhắm mắt mới “tùng”.
Chiến lược, hơi thở và ý
Tùng là tiền đề cơ bản trong ngoại hình chính xác. Bí quyết của ngoại hình
trong 5 thức đều là một chút căn vặn cổ tay. Như vậy là trong nhu có cương,
trong lỏng có chặt.
Khơng như nhịp tim, có tính chất tự động, hơi thở vừa tự động vừa có thể
tác ý, cho nên khơng biết cách sẽ dễ trái với tự nhiên. Hơi thở liên quan đến
khí nhưng khơng phải là khí, hình cũng liên quan đến khí, ý cũng liên quan
đến khí. Cho nên luyện khí phải chú ý đến hình, hơi thở và ý. Muốn vậy
phải biết mối tương quan nhân quả của chúng.
Mối tương quan của hơi thở và thân (hình): khi ta chạy bộ một lúc thì hơi
thở sẽ bắt đầu gấp rút theo nhu cầu của cơ thể, nếu lúc đó ta cưỡng lại dùng
ý để bắt hơi thở dài phải sâu là trái tự nhiên sẽ có hại. Khi cơ thể ta ở trạng
thái tĩnh thì hơi thở cũng thuận theo thế tĩnh. Như vậy khi ta luyện trạm
trang, mặc dầu ta ở thể tĩnh nhưng trong thực tế ta chưa “tùng” mà dụng ý
thở dài sâu là mất tự nhiên, không phù hợp, lại gây ra áp lực trên cơ thể,
làm chóng mặt hoa mắt.
Vậy cho nên đối với người mới tập, “dụng ý” lên hình hay nói nơm na là để
tâm vào hình thể chính xác. Sau đó “dụng ý” hành “tùng”, hay nói nơm na là
để tâm vào bng xã. Tình trạng bng xã càng sâu thì hơi thở sẽ thay đổi
nhẹ nhàng và sâu theo tình trạng cơ thể, đó là phương pháp phù hợp với tự
nhiên.
Buông xã là nhân, hơi thở nhẹ sâu là quả , quả ấy lại lại là nhân tác động lên
buông xã hơn nữa.: Buông xã <=> hơi thở nhẹ sâu.
Muốn bng xã thì khơng thể tách rời ý, nếu tâm ý ta tản mạn khơng tập
trung thì ta khơng bng xã được, tâm ta không thể vào thể “tĩnh”, không
“tĩnh” thì khơng “tùng”, khơng tùng mà cố thở sâu dài là hại “thân”.
Từ đó có thể nói rằng trong khi đi TCQ, người nào theo lời khuyên động tác
duỗi ra thì thở ra, động tác co vào thì hít vào là không đúng đắn, măc dầu
trong thực tế khi đi với tốc độ trung bình thì hơi thở của ta sẽ tự nhiên làm
như vậy, nhưng nó làm tự nhiên không phải dụng ý. Các đại sư khi đi TCQ
cực chậm thì hơi thở đâu mà dài đủ để thực hiện, TCQ đâu phải lúc nào
cũng có động tác ra vơ nối tiếp vả lại có những động tác rất dài. Rồi trong
lúc chiến đấu hay thơi thủ thì sao, lo bận tâm hơi thở thì sao chiến đấu.
Đó là đại khái trên lý thuyết, như vậy cụ thể khi tập ta phải làm sao? những
bước gì?
Mỗi người khi tập khí cơng hay trạm trang cơng phải hiểu ngun lý rồi đưa
ra chiến lược phù hợp cho mình. Sau đây là chiến lược gợi ý:
1-Đứng đúng vị thế: hình đúng.
2-Tâm ln gắn vào hình, dụng lực tối thiểu để giữ bộ vị, đó là dụng ý bất
dụng lực.
3-Chú ý đến hơi thở ra, mỗi lần thở ra niệm “buông xả” ,”tùng”, “lỏng”….
4-Nếu khơng thấy khơng bng xã được thì có thể chia chẻ thành nhiều
tiến trình:
a-Mỗi lần thở ra niệm trầm vai, tiếp tục như vậy một thời gian đến khi vai
có thể trầm và xã.
b-Kế tiếp có thể lấy cổ làm điểm tập. Vậy khi thở ra niệm ” cổ lỏng” hay phối
hợp niệm “cổ vai lỏng”
c-Kế tiếp là mặt, mặt có thể chia nhỏ như mắt , miệng….
d-Kế tiếp là ngực, bụng, lưng, hạ đan điền
Nếu không làm được nhiều bộ phận thì tập trung vào một bộ phận hay hai
bộ phận. Sau một thời gian thì khi niệm lỏng thì tất cả sẽ lỏng.
Nên nhớ là dùng hơi thở ra để luyện tùng khơng có nghĩa là cố kéo dài hơi
thở ra mà chỉ nương theo một cách tự nhiên, nếu cơ thể ta cần một hơi
ngắn thì cứ để cho nó ngắn, hơi dài thì cứ để nó dài.
5-Sau khi thành cơng thì ta có thể tác ý hơi thở dài thêm một chút để tác
dụng ngược lên “tùng”. Khi tùng có thì tĩnh sẽ theo một cách tự nhiên.
6-Vì ý tập trung vào việc thực hiện đề mục bng xã nên thân và tâm hay
hình và ý sẽ chập vào nhau, “định” vì vậy sẽ phát sinh. Nếu trong giây phút
lơ đãng thì cứ nhận biết sự lơ đãng rồi lại trở về đề mục buông xã mà khơng
buồn phiền nóng giận.
7-Khi một niệm “xã” mà ta đã lỏng được tất cả các bộ phận là một thành tựu
lớn, lúc đó để tiến cao vào “định” ta có thể niệm chữ xã kéo dài trong hơi
thở ra “xxxaaaaããã…”, phương pháp này sẽ loại trừ tạp niệm xen vào.
8- Sau một thời gian thì ta có khả năng vơ niệm mà vẫn đạt được “tùng tĩnh
định”. Nên nhớ rằng trong q trình tập luyện ấy khí cảm có thể xuất hiện
khác nhau tuỳ theo mỗi người nhưng đừng bận tâm chú ý đến, nó hoạt
động tự nhiên theo con đường của nó, thơng thường nó là cảm giác ngồi
da trước. Có người đạt đến tùng tĩnh sâu mà khơng có khí cảm vì cá tính
của người ấy, khơng thể nói người đó khơng đạt, tơi có biết một người như
vậy nhưng kình lực của anh ta rất mạnh.
9-Có sách vở kêu thủ ý đan điền nhưng bạn đừng làm vậy, trong thế tĩnh và
bộ hình, khí ln chuyển liên miên như máu vận động liên tục, khí thuộc
dương, máu thuộc âm, chúng quện vào nhau, thủ ý đan điền sẽ giới hạn
hoạt động của khí, chỉ khi chấm dứt trạm trang vói tư thế xoay bột thì mới
thủ ý mà thơi.
10-Bạn có thể tập thơi thủ tự do, bạn sẽ mệt, hơi thở của bạn trong dồn dập,
bắp thịt của bạn rả rời, nhưng bạn vẫn có thể tập trạm trang liền sau đó.
Bạn sẽ thấy rằng bạn sẽ bng xã hơn vì bắp thịt mỏi, hơi thở của bạn từ
dồn dập đến lắng diệu.
11-Đến một lúc nào đó tự bạn sẽ khám phá khí ln chuyển từ ngồi da rồi
da bạn như thở, người ta gọi là thở bằng da, sau đó nó đi vào thịt xương và
cuối cùng là tuỷ. Làm cách nào thì tự bạn sẽ biết được mà tơi khơng cần
phải nói ở đây . Cao thâm hơn ta nhận ra rằng khơng có các bộ phận cơ thể
tách rời mà tất cả chỉ là một, một khối đang thở, một khối khí đang vận
hành. Và sau đó một cảm giác hồ nhập tan hồ với vũ trụ. Sau khi đạt
“tùng tĩnh định”, lúc đó ta có thể chuyển lên cấp “định quán” có thể đắc đạo
quả. Đại sư Wang đắc đạo quả lúc hành thiền trạm trang bên Nhật trong lúc
một vài hoa tuyết rơi chạm vào đầu ông!
Sự tinh tấn của hành giả hoàn toàn lệ thuộc vào căn cơ và sự cố gắng. Trong
giai đoạn đầu của nội gia đòi hỏi phải kiên nhẫn và trì hành liên tục, như
người đun nước, mở lửa lên một lúc thì tắt, rồi mở lửa nữa, lại tắt… nước
không bao giờ sôi. Chỉ khi nào mở lửa liên tục đến khi nuớc sơi, lúc đó vặn
lửa nhỏ xuống nhưng nước vẫn sôi.