Đề bài: Phân tích và bình luận các quy định về các trường hợp miễn trách nhiệm đối
với hành vi vi phạm hợp đồng trong thương mại.
Lời mở đầu
Hợp đồng được ví là luật của các bên trong quan hệ dân sự. Nói đến hợp đồng là nói đến
hiệu lực hợp đồng, thực hiện hợp đồng và trách nhiệm pháp lý của các bên khi vi phạm
hợp đồng. Trách pháp lý là hậu quả bất lợi đối với chủ thể khơng thực hiện đầy đủ nghĩa
vụ của mình theo hợp đồng hoặc theo quy định của pháp luật (khoa học pháp lý gọi là chế
tài dân sự, trách nhiệm dân sự); bên vi phạm hợp đồng phải chịu hậu quả bất lợi tương
ứng với mức độ hành vi vi phạm đó gây ra. Bộ luật Dân sự (BLDS) năm 2015 và Luật
Thương mại (LTM) năm 2005 quy định cụ thể các chế tài áp dụng đối với bên vi phạm
hợp đồng, tuy nhiên thực tiễn giải quyết vụ án tranh chấp thương mại có lúc, có nơi nhà
thực tiễn chưa nhận thức đúng về trách nhiệm pháp lý đối với bên vi phạm hợp đồng làm
cho chất lượng giải quyết vụ án chưa đáp ứng yêu cầu đề ra.
Quá trình thực hiện hợp đồng thương mại các bên có thể vi phạm một hay nhiều nghĩa vụ
trong hợp hợp đồng, thì bên vi phạm phải chịu hậu quả do chính hành vi của họ gây ra,
hậu quả đó có thể được quy định trong hợp đồng hoặc do pháp luật quy định. Chế tài là
các biện pháp bảo đảm hiệu lực của hợp đồng, bảo vệ lợi ích chính của bên bị vi phạm,
chế tài là công cụ để cơ quan tài phán giải quyết tranh chấp. Đặc điểm của chế tài là có
sau khi hợp đồng được giao kết, là hậu quả pháp lý bất lợi đối với bên vi phạm nghĩa vụ
hợp đồng. Theo quy định tại khoản 1 Điều 351 BLDS năm 2015 quy định “vi phạm nghĩa
vụ là việc bên có nghĩa vụ khơng thực hiện nghĩa vụ đúng thời hạn, thực hiện không đầy
đủ nghĩa vụ hoặc thực hiện không đúng nội dung nghĩa vụ”, khoản 12 Điều 3 LTM 2005
quy định: “Vi phạm hợp đồng là một bên không thực hiện, thực hiện không đầy đủ hoặc
thực hiện không đúng nghĩa vụ theo thỏa thuận giữa các bên hoặc theo quy định của luật
này”. Như vậy, các chủ thể phải thực hiện đầy đủ các cam kết trong hợp đồng thương
mại, theo đó bên có vi phạm hợp đồng phải chịu trách nhiệm do hành vi vi phạm của
mình gây ra.
Đề bài : Phân tích và bình luận các quy định về các trường hợp miễn trách nhiệm đối với
hành vi vi phạm hợp đồng trong thương mại, để đưa ra những phân tích về trách nhiệm
trong vi phạm hợp đồng
Để xác lập một hoạt động thương mại, các chủ thể thường thiết lập thông qua một
hợp đồng thương mại trong đó có quy định nội dung, hàng hóa, trách nhiệm, nghĩa vụ của
các bên. Ngày nay với sự phát triển của cơng nghệ thơng tin thì các hình thức của hợp
đồng thương mại trở lên rất đa dạng: hợp đồng phi văn bản, văn bản bằng giấy, bằng tin
nhắn, bằng thư điện tử, thông qua hành vi …
Cũng bởi các thương nhân thường thiết lập các giao dịch với nhau thông qua một hợp
đồng thương mại rõ ràng, nên câu chuyện vi phạm hợp đồng thương mại dẫn đến hậu quả
cho cả hai bên là câu chuyện diễn ra rất thường xuyên. Để giải quyết vấn đề đó, Luật
thương mại 2005 cũng đã có quy định các chế tài khi có bên vi phạm hợp đồng. Tuy nhiên
khơng phải trường hợp nào khi vi phạm hợp đồng thương nhân cũng phải chịu trách
nhiệm. Cùng với việc quy định các chế tài nhằm ngăn chặn, xử lý các hành vi vi phạm
hợp đồng, Điều 294, Luật Thương mại 2005 cũng quy định một số trường hợp, theo đó
bên vi phạm không phải gánh chịu những hậu quả bất lợi do bị áp dụng các hình thức chế
tài, đó là các trường hợp miễn trách nhiệm do vi phạm hợp đồng.
Theo điều 294 của Luật Thương mại 2005 thì bên vi phạm hợp đồng được miễn trách
nhiệm trong các trường hợp sau đây:
“a) Xảy ra trường hợp miễn trách nhiệm mà các bên đã thoả thuận;
b) Xảy ra sự kiện bất khả kháng;
c) Hành vi vi phạm của một bên hoàn toàn do lỗi của bên kia;
d) Hành vi vi phạm của một bên do thực hiện quyết định của cơ quan quản lý nhà nước có
thẩm quyền mà các bên không thể biết được vào thời điểm giao kết hợp đồng.”
1. Xảy ra trường hợp miễn trách nhiệm mà các bên đã thỏa thuận
Trước hết, có thể thấy điều 294 đã nhìn nhận các trường hợp miễn trách nhiệm đối với
hành vi vi phạm với cách tiếp cận khá mở và tôn trọng sự thoả thuận của các bên khi quy
định bên vi phạm sẽ được miễn trách nhiệm khi xảy ra các trường hợp mà các bên đã thoả
thuận.
Thỏa thuận là một nguyên tắc mấu chốt trong hợp đồng. Do đó, khi các bên có thỏa
thuận về trường hợp miễn trách nhiệm khi vi phạm hợp đồng thì khi xảy ra các trường
hợp đó bên vi phạm sẽ được hưởng quyền miễn trách nhiệm. Thoản thuận giữa các bên về
trường hợp miễn trách nhiệm phải tồn tại trước khi xảy ra vi phạm và có hiệu lực đến thời
điểm bên bị vi phạm áp dụng chế tài. Khi hợp đồng được giao kết bằng văn bản thì thoản
thuận về miễn trách nhiệm được ghi nhận trong nội dung của hợp đồng hoặc trong phụ
lục hợp đồng. Nhưng kể cả khi hợp đồng đã kí kết các bên vẫn có thể thoản thuận bằng
lời nói hoặc hành vi cụ thể hoặc sửa đổi, bổ sung vào hợp đồng các trường hợp miễn trách
nhiệm. Tuy vậy, việc chứng minh sự tồn tại một thỏa thuận không bằng văn bản gặp vơ
vàn khó khăn.
Ví dụ: “Bên bán chịu phạt hợp đồng bằng 8% giá trị hợp đồng cho mỗi tuần chậm giao
hàng tính từ ngày thứ 7 kể từ ngày kết thúc thời hạn giao hàng theo quy định tại Điều 19
của Hợp đồng này và bồi thường thiệt hại cho bên mua”. Theo điều khoản thỏa thuận trên,
bên mua đã miễn trách nhiệm cho bên bán từ ngày đầu tiên đến ngày thứ 7 kể từ ngày kết
thúc thời hạn giao hàng. Điều đó có nghĩa là nếu bên bán chậm giao hàng trong vòng 7
ngày đầu tiên kể từ ngày kết thúc thời hạn giao hàng sẽ không phải chịu phạt hợp đồng.
Yếu tố tự nguyện được coi là quan trọng nhất, vì nếu chỉ chứng minh được việc giao kết
các điều khoản miễn trừ này là do bị lừa dối, bị đe dọa, bị ép buộc thì điều khoản miễn
trách nhiệm sẽ bị vô hiệu.
Thực tiễn trong giao kết hợp đồng thương mại cho thấy ít khi các bên chấp nhận việc
thỏa thuận trực tiếp và rõ rãng về các trường hợp miễn trách nhiệm, vì có thể bên vi phạm
sẽ lấy cớ vin vào điều này để khơng tn thủ theo hợp đồng. Do đó, các bên có thể thỏa
thuận gián tiếp miễn trách nhiệm ở một chừng mực nhất định.
2. Miễn trách nhiệm do xảy ra sự kiện bất khả kháng
Trong hoạt động thương mại, cùng với việc pháp luật quy định các chế tài, các trường
hợp miễn trách nhiệm do vi phạm hợp đồng cũng đóng một vai trị cực kỳ quan trọng đối với
việc thực hiện hợp đồng của thương nhân. Trong hệ thống pháp luật Việt Nam, các trường
hợp miễn trách nhiệm này được quy định tại điều 294 Luật thương mại 2005. Bài viết sau
đây đưa ra một vài bình luận của tác giả về điều 294 đó ở cả hai góc độ tính khả thi và sự
tương thích của nó với các điều luật khác có liên quan và tập quán thương mại quốc tế.
Trong thương mại quốc tế, một khái niệm gần giống với bất khả kháng, đó là “Hồn
cảnh khó khăn” (Hardship), đây là vấn đề chưa được quy định một cách cụ thể trong hệ thống
pháp luật Việt Nam. Hoàn cảnh khó khăn được nhắc đến trong Bộ nguyên tắc trong hợp đồng
thương mại quốc tế (viết tắt là PICC - Principles of International Commercial Contracts) của
Viện Thống nhất Tư pháp Quốc tế (viết tắt theo tiếng Pháp là UNIDROIT - Insitute
International pour l`Unification des Droits Privé). Đây là bộ quy tắc được áp dụng rất phổ
biến trong thuơng mại quốc tế cùng với Công ước Viên 1980 về mua bán hàng hoá quốc tế
(CISG - United Nations Convention on Contracts for the International Sale of Goods). Phiên
bản mới nhất là PICC 2010 đã quy định: “Hồn cảnh khó khăn được xác lập khi xảy ra các sự
kiện làm thay đổi cơ bản sự cân bằng giữa các nghĩa vụ hợp đồng, hoặc do chi phí thực hiện
nghĩa vụ tăng lên, hoặc do giá trị của nghĩa vụ đối trừ giảm xuống
Luật thương mại hiện hành khơng giải thích thế nào là sự kiện bất khả kháng. Xét theo
mối quan hệ giữa luật chung và luật riêng, trong đó luật thương mại là luật riêng trong
lĩnh vực thương mại, còn Bộ luật dân sự là luật chung, có thể dẫn chiếu quy định của Bộ
luật dân sự về sự kiện bất khả kháng để áp dụng trong lĩnh vực thương mại. Tại khoản 1
điều 161 Bộ luật dân sự 2005 quy định: “... Sự kiện bất khả kháng là sự kiện xảy ra một
cách khách quan không thể lường trước được và không thể khắc phục được mặc dù đã áp
dụng mọi biện pháp cần thiết và khả năng cho phép”. Như vậy một sự kiện được xem là
bất khả kháng thì cần đáp ứng được các điều kiện như sau:
- Một là: xảy ra khách quan sau khi kí hợp đồng, nằm ngồi phạm vi kiểm sốt cảu bên
vi phạm hợp đồng: bão lụt, sóng thần, các sự kiện chính trị, xã hội: chiến tranh, bạo loạn...
- Hai là: đó là sự kiện khơng thể dự đốn được. Năng lực đánh giá xem một sự kiện xảy
ra hay không được xét từ vị trí của một thương nhân bình thường chứ không phải là một
chuyên gia. Chẳng hạn như nhà máy sản xuất ô tô của một doanh nghiệp nằm ven biển
thuận tiện đường giao thông – đây là khu vực hay có bão dù đã có biện pháp để bảo vệ tối
ưu nhất nhưng do con bão có tính bất ngờ, thay đổi hướng đi làm cho dự báo của một
thương nhân bình thường là các nhà quản lý nhà máy chẳng thể lường trước được.
- Ba là: sự kiện xảy ra mà hậu quả để lại không thể khắc phục được dù đã áp dụng mọi
biện pháp cần thiết và khả năng cho phép. Đó là sự kiện xảy ra mà chúng ta khơng thể
tránh được về mặt hậu quả. Tức là sau khi bên vi phạm đã áp dụng mọi biện pháp cần
thiết vẫn không khắc phục được hậu quả. Tuy nhiên, nếu bên vi phạm không thực hiện
các biện pháp cần thiết để khắc phục hậu quả nhưng chứng minh được rằng dù có hành
động vẫn khơng thể khắc phục được hậu quả thì xem như đã thỏa mãn điều kiện này.
Với việc quy định theo phương pháp trừu tượng hoá như vậy của Bộ luật Dân sự thì việc
hiểu rõ nội hàm của khái niệm sự kiện bất khả kháng và việc áp dụng nó là rất khó. Nếu
trong trường hợp các nước thừa nhận án lệ là một nguồn luật thì các bản án của tồ án có
liên quan đến vấn đề này sẽ là nguồn luật giải thích một cách cụ thể sự kiện bất khả kháng
trong thực tế. Thế nhưng, pháp luật Việt Nam chỉ thừa nhận một nguồn luật duy nhất là
văn bản pháp luật, không thừa nhận án lệ thì cách giải thích hoặc hiểu theo khía cạnh thực
tiễn chỉ có giá trị tham khảo. Tất nhiên việc chứng minh có tồn tại sự kiện bất khả kháng
thuộc về nghĩa vụ của bên vi phạm hợp đồng, nhưng việc bên đó được hay khơng được
miễn trừ lại phụ thuộc vào bên bị vi phạm hoặc cơ quan chức năng có chấp nhận nó là sự
kiện bất khả kháng hay khơng. Với một khái niệm cịn q khái quát như vậy thì đương
nhiên việc tìm được tiếng nói chung giữa các bên là khơng hề dễ dàng.
Ngồi ra, Điều 294 chỉ quy định chung chung sự kiện bất khả kháng là điều kiện để bên
vi phạm được miễn trách nhiệm nhưng chưa nêu bật được mối quan hệ nhân quả giữa sự
kiện bất khả kháng và hành vi vi phạm hợp đồng. Về bản chất, để có thể được miễn trách
nhiệm, sự kiện bất khả kháng phải xảy ra sau khi các bên ký hợp đồng và sự kiện bất khả
kháng phải là nguyên nhân dẫn đến kết quả là bên vi phạm không thể thực hiện được theo
đúng cam kết. Ở đây, rõ ràng điều 294 chưa thể hiện được mối quan hệ đó.
3. Miễn trách nhiệm do hành vi vi phạm của một bên hoàn toàn do lỗi bên kia
Trường hợp miễn trách nhiệm này được quy định tại điểm c, khoản 1 , điều 294 Luật
thương mại năm 2005. Theo đó, nếu một bên vi phạm hợp đồng nhưng việc vi phạm đó
khơng phải là lỗi của bên vi phạm mà là lỗi của bên bị vi phạm thì bên vi phạm hợp đồng
sẽ được miễn trách nhiệm đối với vi phạm đó. Như vậy, căn cứ để miễn trách nhiệm trong
trường hợp này phải là do lỗi của vi phạm. Lỗi này có thể là hành động hoặc khơng hành
động của bên bị vi phạm.
Căn cứ để miễn trách nhiệm phải do lỗi của bên vi phạm. Lỗi này có thể là hành động
hoặc khơng hành động. Lỗi đó cũng có thể là một hành vi vi phạm hợp đồng cảu bên bị vi
phạm, nghĩa là cả hai bên đều có hành vi vi phạm hợp đồng.
Ví dụ: Cơng ty TNHH Bảo Tín kí hợp đồng với cơng ty cổ phần Vincem mua 100 tấn
thép. Theo đó, cơng ty Bảo Tín phải thanh tốn đúng hạn khoản tiền bằng 50% giá trị hợp
đồng để công ty Vincem mua phôi thép sản xuất thép. Tuy nhiên, cơng ty Bảo Tín đã
khơng thanh toán đúng hạn dẫn đến việc sản xuất bị đình trệ khiến cho hàng khơng được
giao theo hợp đồng. Trong trường hợp này, nếu trong hợp đồng khơng có thỏa thuận về
việc chậm thanh tốn, cơng ty Bảo Tín không gặp điều kiện bất khả kháng nào cũng như
không gặp vướng mắc nào từ cơ quan có thẩm quyền thì cơng ty Bảo Tín đã có lỗi khiến
cơng ty Vincem không thể thực hiện đúng hợp đồng nên Vincem được miễn trừ trách
nhiệm.
Sau nhiều năm có hiệu lực, quy định tại khoản c điều 294 Luật thương mại 2005 bộc lộ
một số bất cập nhất định. Ta thấy luật mới dự liệu miễn trách nhiệm đối với bên vi phạm
hợp đồng khi hành vi vi phạm của một bên hồn tồn do lỗi của bên kia khơng đề cập và
tính đến khả năng hành vi vi phạm của một bên có nguyên nhân xuất phát từ bên thứ ba,
mà bên này rơi vào các trường hợp mà pháp luật quy định được miễn trách nhiệm. Nếu
chăng, các bên có thể thoả thuận về các trường hợp miễn trách nhiệm trong hợp đồng của
họ thì câu chuyện khơng có gì đáng nói. Nhưng trong trường hợp khơng được thoả thuận,
đương nhiên bên vi phạm sẽ không được miễn trách nhiệm nếu do lỗi của bên thứ ba, mặc
dù bên này rơi vào các trường hợp miễn trách nhiệm. Về vấn đề này, có vẻ như Luật
thương mại 2005 cứng nhắc hơn so với Pháp lệnh Hợp đồng kinh tế năm 1989, một văn
bản pháp luật điều chỉnh hợp đồng kinh tế trong không gian và thời gian của cơ chế kinh
tế kế hoạch hoá tập trung. Tại Điều 40 Pháp lệnh hợp đồng kinh tế quy định:
“Bên vi phạm hợp đồng kinh tế được xét giảm hoặc miễn hoàn toàn trách nhiệm tài sản
trong các trường hợp sau đây:
1) Gặp thiên tai, địch hoạ và các trở lực khách quan khác không thể lường trước được và
đã thi hành mọi biện pháp cần thiết để khắc phục ;
2) Phải thi hành lệnh khẩn cấp của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền theo quy định của
pháp luật;
3) Do bên thứ ba vi phạm hợp đồng kinh tế với bên vi phạm nhưng bên thứ ba không phải
chịu trách nhiệm tài sản trong các trường hợp quy định tại điểm 1 và điểm 2 của điều
này...”
Không chỉ riêng Luật Thương mại năm 2005 mà các bộ luật , luật trước nó cũng khơng
kế thừa tính ưu việt của Pháp lệnh Hợp đồng kinh tế năm 1989. Điển hình như Bộ luật
dân sự 1995, Luật thương mại 1997, Bộ luật dân sự 2005 trong nội dung quy định về
trách nhiệm miễn trừ khi vi phạm hợp đồng đều không đề cập đến sự xuất hiện của bên
thứ ba.
Thực tế này làm cho việc giải quyết khi phát sinh trường hợp vi phạm hợp đồng mà có
yếu tố của bên thứ ba gặp rất nhiều khó khăn, dễ nảy sinh nhiều tiêu cực trong hoạt động
tranh tụng xét xử tranh chấp về thương mại, khơng đảm bảo được quyền lợi chính đáng
của bên bị thiệt hại.
Như vậy, đây là một quy định cần phải thay đổi ngay lập tức để phù hợp với hoạt động
thực tế, việc học tập và tiếp thu tính dự báo xuất hiện của bên thứ 3 như Pháp lệnh Hợp
đồng kinh tế năm 1989 là rất cần thiết.
Luật thương mại năm 1997 đã không quy định lỗi của bên bị thiệt hại là căn cứ để miễn
trừ trách nhiệm hợp đồng. Tuy nhiên tại Điểm c Khoản 1 Điều 294 Luật thương mại năm
2005 đã ghi nhận trường hợp này là một trong những căn cứ để miễn trừ trách nhiệm hợp
đồng.
Lỗi này có thể là hành động hoặc không hành động của bên bị vi phạm. Về trường hợp
này, nhận thấy rằng pháp luật thương mại chưa tính đến khả năng hành vi vi phạm của
một bên có nguyên nhân xuất phát từ bên thứ ba, mà bên này được pháp luật quy vào
được miễn trách nhiệm.
4. Hành vi vi phạm của một bên do thực hiện quyết định của cơ quan quản lý nhà
nước có thẩm quyền mà các bên không thể biết được vào thời điểm giao kết hợp
đồng
Điểm d khoản 1 điều 294 Luật thương mại năm 2005 quy định : trường hợp hành vi vi
phạm hợp đồng của một bên là do thực hiện quyết định của cơ quan quản lý nhà nước có
thẩm quyền mà các bên khơng khơng thể biết được vào thời điểm giao kết hợp đồng là
một căn cứ miễn trách nhiệm do vi phạm hợp đồng thương mại. Nếu như các bên đã biết
về việc thực hện quyết định của cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền có thể dẫn đến
vi phạm hợp đồng mà vẫn đồng ý giao kết hợp đồng thì khơng được áp dụng miễn trách
nhiệm.
Quyết định của cơ quan nhà nước phải làm phát sinh nghĩa vụ của bên vi phạm tức là phải
thực hiện hoặc không thực hiện một hành vi nhất định nào đó dẫn tới hành vi vi phạm hợp
đồng.
Tuy nhiên, việc xác định cụ thể cơ quan quản lý nhà nước là cơ quan cấp nào khó có thể
bảo quát được hết các quyết định có thể là cơ sở miễn trách nhiệm cho bên vi phạm vì
mỗi cấp quản lý đều có thể ra các quyết định có thể là cơ sở ra quyết định trong phạm vi
thẩm quyền của mình.
Chỉ những quyết định mang tính chất bất khả kháng bên vi phạm khơng thể có lựa chọn
nào khác ngoài việc vi phạm hợp đồng mới có thể là căn cứ miễn trừ trách nhiệm. Ví dụ
như quyết định thu hồi đất phục vụ mục đích an ninh, quốc phòng…
Quy định trên đề cập đến 2 phạm trù mà cần phải phân tích. Đó là hành vi vi phạm do
thực hiện quyết định của cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền và việc biết hay khơng
biết sẽ có hành vi vi phạm đó từ bên còn lại. Nếu như các bên đã biết về việc thực hiện
quyết định của cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền có thể dẫn đến vi phạm hợp
đồng mà vẫn đồng ý giao kết hợp đồng thì không được áp dụng miễn trách nhiệm. Quyết
định của cơ quan nhà nước ở đây phải làm phát sinh nghĩa vụ của bên vi phạm, tức là phải
thực hiện hoặc khơng thực hiện một hành vi nhất định nào đó dẫn tới hành vi vi phạm hợp
đồng.
Chẳng hạn như công ty An Việt chuyên cung ứng rau sạch cho siêu thị Big C. Tuy nhiên
do một trận hỏa hoạn của nhà máy gần đó làm cho vùng rau bị nhiễm thủy ngân có thể
gây độc cho con người. Ủy ban Nhân dân tại địa phương đó tuyên bố và khuyến cáo
người dân không nên ăn rau vùng này, yêu cầu các trang trại ngừng bán rau nhiễm độc ra
bên ngoài. Thực hiện quyết định này khiến cho công ty An Việt đã không cung cấp rau
được cho Big C và vi phạm hợp đồng đã kí. Trường hợp này thì An Việt sẽ được miễn
trách nhiệm vi phạm hợp đồng của mình.
Việc miễn trách nhiệm do quyết định của cơ quan quản lý được Luật Thương mại 2005
quy định một cách rất chung chung, dễ dẫn đến nhiều cách hiểu khác nhau.Từ các bên ở
trong trường hợp này có nghĩa là cả bên vi phạm và bên bị vi phạm, thế nhưng việc không
thể biết quyết định cơ quan nhà nước có thẩm quyền dẫn đến vi phạm hợp đồng chỉ có ý
nghĩa đối với bên vi phạm hợp đồng, từ đó khẳng định bên vi phạm hợp đồng khơng có
lỗi. Việc bên bị vi phạm có biết hay khơng thì về bản chất khơng ảnh hưởng gì đến thái độ
của bên vi phạm hợp đồng vì quyết định của cơ quan nhà nước mang tính quyền lực, bên
vi phạm khơng thể làm gì để có thể khắc phục. Giả sử bên bị vi phạm hợp đồng khi ký
hợp đồng biết trước có quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền chắc chắn dẫn
đến việc vi phạm hợp đồng và cứ ký hợp đồng trong khi bên vi phạm hợp đồng không hề
biết. Vậy khi có hành vi vi phạm hợp đồng do thực hiện quyết định của cơ quan nhà nước,
bên vi phạm hợp đồng có được miễn trách nhiệm hay khơng khi bên bị vi phạm chứng
minh được mình biết trước quyết định đó.
Ngồi ra cụm từ “ khơng thể biết” làm cho nội dung của luật mang tính chung chung,
khó lượng hóa và xác định được. Việc biết sự tồn tại của quyết định của cơ quan nhà nước
có buộc phải theo một kênh chính thức hay có thể biết bằng nhiều cách khác nhau cũng là
việc xác định rất mơ hồ, khó khăn.
-> Như vậy, chúng ta thấy sau nhiều phân tích và trên phương diện thực tế nhiều năm qua
quy định về miễn trách nhiệm khi vi phạm hợp đồng nói riêng và tồn bộ các quy định
khác nói chung theo Luật thương mại 2005 đã bắt đầu cho thấy sự bất cập và chưa điều
chỉnh được một số phát sinh trong hoạt động thương mại hết sức phức tạp. Việc sửa đổi
luật mới là hết sức cần thiết để đảm bảo quá trình phát triển, cũng như hoạt động hợp tác
quốc tế, đa dạng hóa nền kinh tế.
Hết!
Tài liệu tham khảo
-Luật thương mại 2005
-Bộ luật dân sự 2015
-Bộ môn luật thương mại trường đại học luật Hà Nội, Hướng dẫn môn học luật thương
mại tập 2, 2014
-Giáo trình luật thương mại , trường đại học Luật Hà Nội