Tải bản đầy đủ (.doc) (29 trang)

sáng kiến kinh nghiệm môn đạo đức lớp 1 đạt giải cấp huyện

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.3 MB, 29 trang )

MỤC LỤC
DANH MỤC

TRANG

PHẦN THỨ NHẤT: MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài.
2. Mục đích nghiên cứu.
3. Nhiệm vụ nghiên cứu.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.
5. Phương pháp nghiên cứu.
PHẦN THỨ HAI: NỘI DUNG
Chương I: Cơ sở lí luận
1. Đặc điểm nhận thức học sinh Tiếu học.
2. Mục tiêu, nội dung dạy đạo đức lớp 1
Chương II: Thực trạng của việc dạy và học đạo đức lớp 1.
1. Đặc điểm tình hình chung
2. Nguyên nhân
Chương III. Một số biện pháp gây hứng thú học tập cho học sinh.
Biện pháp 1. Hình thành cho học sinh những tình cảm đạo đức.
Biện pháp 2. Đồ dùng trực quan phải đa dạng phong phú, phù
hợp với nội dung từng bài học.
Biện pháp 3. Lựa chọn phối hợp các phương pháp dạy học
Biện pháp 4. Tổ chức trò chơi học tập phù hợp để luyện tập các
thao tác hành động đạo đức.
Biện pháp 5. Nêu gương người tốt việc tốt.
Biện pháp 6. Nhận xét, đánh giá, động viên kịp thời
Biện pháp 7. Tổ chức hoạt động ngoại khoá
Biện pháp 8. Kết hợp với phụ huynh để quan tâm theo dõi động
viên kịp thời cũng như đánh giá học sinh trong học tập.
Kết quả


PHẦN THỨ BA: KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ
I. Kết luận
II. Bài học
III. Khuyến nghị
TÀI TIỆU THAM KHẢO

PHẦN THỨ NHẤT: MỞ ĐẦU
1

2
2
3
3
3
3
4
4
4
4
6
6
7
7
7
9
14
17
22
24
25

25
26
27
27
27
27
29


1. Lí do chọn đề tài

G

iáo dục đạo đức là một mặt của hoạt động giáo dục nhằm xây dựng cho
trẻ em những tính cách nhất định và bồi dưỡng cho trẻ những quy tắc
hành vi thể hiện trong thái độ đối với bạn bè, gia đình, người khác, đối
với tổ quốc. Trong công tác giáo dục trước tiên phải chăm lo bồi dưỡng đạo đức
cho trẻ, đó là căn bản, là cái gốc của sự phát triển nhân cách. Chủ tịch Hồ Chí Minh
đã nói: “Bây giờ là phải học, học để yêu tổ quốc, yêu nhân dân, yêu lao động,
yêu khoa học, yêu đạo đức”.
Bậc tiểu học là bậc học đặt nền móng do sự hình thành phát triển nhân cách
cho học sinh. Đây là bậc học cung cấp cho học sinh những kiến thức cơ bản, ban
đầu về tự nhiên và xã hội, bồi dưỡng và phát huy tình cảm, thói quen, đức tính tốt
đẹp ở mỗi con người. Để đạt được mục tiêu này phải thông qua những con đường.
Một trong các con đường đó là giúp học sinh học tốt môn đạo đức.
Giáo dục đạo đức cho học sinh ở tiểu học nhằm làm cho nhân cách của trẻ
phát triển đúng về mặt đạo đức, giúp trẻ biết ứng xử đúng trong mối quan hệ, có
thói quen hành vi đạo đức đúng chuẩn mực, thể hiện những mối quan hệ của các
em với những người thân yêu trong gia đình, với bạn bè, với thầy cô, với người lớn
thể hiện ở những mối quan hệ của các em với quyền và bổn phận của mình ở

trường, lớp, gia đình nơi cơng cộng. Hơn nữa, mơn Đạo đức không chỉ giáo dục
bổn phận, trách nhiệm của học sinh đối với gia đình, nhà trường, xã hội và mơi
trường tự nhiên, mà cịn giáo dục trách nhiệm của các em đối với chính bản thân
mình.
Mặt khác dạy học môn Đạo đức được tiếp cận theo hướng đi từ quyền đến
trách nhiệm, bổn phận của học sinh. Cách tiếp cận đó sẽ giúp cho việc dạy học mơn
Đạo đức trở nên nhẹ nhàng, sinh động hơn, tránh được tổ chức nặng nề áp đặt như
trước đây.
Dạy học Đạo Đức sẽ chỉ đạt được hiệu quả khi học sinh hứng thú, tích cực
chủ động tham gia vào q trình dạy học. Vì vậy người giáo viên cần có những
biện pháp giúp cho việc giáo dục đạo đức đạt hiệu quả cao.
Xuất phát từ những suy nghĩ trên, tôi thấy sự cần thiết phải tìm ra: “ Một số
biện pháp nâng cao chất lượng dạy và học môn Đạo Đức lớp 1”.
2. Mục đích nghiên cứu
Tìm ra các biện pháp gây hứng thú học tập cho học sinh nhằm nâng cao chất
lượng dạy và học môn Đạo Đức lớp 1.
2


3. Nhiệm vụ nghiên cứu.
Giúp cho học sinh từng bước hình thành kĩ năng đánh giá hành vi của bản
thân và của những người xung quanh. Biết lựa chọn và thực hiện các hành vi ứng
xử phù hợp với chuẩn mực trong các quan hệ và tình huống đơn giản, từ đó biết
nhắc nhở bạn bè cùng thực hiện. Bên cạnh đó từng bước hình thành thái độ tự trọng
, tự tin , yêu thương, tôn trọng con người, yêu cái thiện, cái đúng, cái tốt; khơng
đồng tình với cái sai, cái xấu, cái ác. Từ đó , hiểu được quyền, trách nhiệm và bổn
phận của học sinh.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Học sinh lớp 1... Trường
5. Phương pháp nghiên cứu

- Phương pháp điều tra.
- Phương pháp đọc tài liệu.
- Phương pháp phân tích, tổng hợp
- Phương pháp thực nghiệm.
- Phương pháp đàm thoại , phỏng vấn.
- Phương pháp tổng kết, rút kinh nghiệm.

3


PHẦN THỨ HAI: NỘI DUNG
Chương I. Cơ sở lý luận:
1. Đặc điểm nhận thức học sinh Tiếu học.
Ở Tiểu học nói chung và lớp 1 nói riêng, mỗi mơn học đặc biệt là mơn đạo
đức đều góp phần vào việc hình thành cơ sở ban đầu nhân cánh trẻ nhỏ. Vì vậy
mơn đạo đức có vị trí vơ cùng quan trọng trong quá trình giáo dục đạo đức cho học
sinh Tiểu học. Giáo dục đạo đức cho học sinh Tiểu học một cách có hệ thống theo
một chương trình khá chặt chẽ giúp các em hình thành được ý thức đạo đức ở mức
độ đơn giản, định hướng cho các em rèn luyện một cách tự giác những hành vi và
thói quen, hành vi tương ứng. Q trình nhận thức của trẻ luôn “Đi từ trực quan
sinh động đến tư duy trừu tượng rồi từ tư duy trừu tượng trở về thực tiễn”. Nhất là
đối với học sinh lớp 1, bắt đầu đi học, tư duy mang nặng tính trực quan cụ thể.
Trình độ nhận thức của các em chưa cao, kinh nghiệm sống chưa nhiều nên các em
chưa có đủ năng lực nhận thức các chuẩn mực hành vi nhưng các em lại thích “bắt
chước” người lớn và “bắt chước” rất nhanh. Chính vì vậy, người giáo viên cần có
những biện pháp giáo dục thích hợp để giúp cho việc giáo dục đạo đức đạt hiệu quả
cao. Để đạt được điều đó học sinh cần có hứng thú, tích cực chủ động tham gia vào
quá trình học tập.
Các chuẩn mực hành vi môn Đạo đức lớp 1 phù hợp với lứa tuổi học sinh trong
các mối quan hệ của các em với bản thân, gia đình, nhà trường, cộng đồng và môi

trường tự nhiên. Dạy học môn Đạo đức là dạy học sinh những hành vi ứng xử phù
hợp với các chuẩn mực của đạo đức xã hội và quyền của trẻ em trong các tình
huống đơn giản, cụ thể của cuộc sống hàng ngày. Nội dung môn Đạo đức kết hợp
giữa giáo dục quyền với giáo dục trách nhiệm, bổn phận của học sinh. Hơn nữa
môn Đạo đức không chỉ giáo dục bổn phận, trách nhiệm của học sinh đối với gia
đình, nhà trường, xã hội và mơi trường tự nhiên mà còn giáo dục trách nhiệm của
các em đối với chính bản thân mình. Do vậy dạy học như thế nào để gây hứng thú
học tập cho các em trong mơn Đạo đức để từ đó nâng cao chất lượng dạy và học
toàn diện là vấn đề rất cần thiết.
2. Mục tiêu, nội dung chương trình.
2.1. Mục tiêu của mơn Đạo đức ở tiểu học:
Trong chương trình mơn Đạo đức ở tiểu học có ghi rõ mục tiêu của môn Đạo
đức là:
4


- Có hiểu biết ban đầu về chuẩn mực hành vi đạo đức và pháp luật phù hợp
với lứa tuổi, trong các mối quan hệ của các em với bản thân, gia đình, nhà trường,
cộng đồng, mơi trường tự nhiên và ý nghĩa của việc thực hiện theo các chuẩn mực đó.
- Từng bước hình thành kĩ năng nhận xét, đánh giá hành vi của bản thân và
những người xung quanh theo chuẩn mực đã học. Kĩ năng lựa chọn và thực hiện
các hành vi ứng xử phù hợp chuẩn mực trong các quan hệ và tình huống đơn giản,
cụ thể của cuộc sống, biết nhắc nhở bạn bè cùng thực hiện.
- Từng bước hình thành thái độ tự trọng, tự tin, yêu thương, tôn trọng con
người, yêu cái thiện, cái đúng, cái tốt. Khơng đồng tình với cái ác, cái sai, cái xấu
2.2. Nội dung chương trình đạo đức lớp 1 gồm:
Chương trình đaọ đức lớp 1bao gồm 35 tiết , trong đó có 14 bài( mỗi bài học
2 tiết ), 4 tiết thực hành kĩ năng và 3 tiết giáo dục địa phương, cụ thể:
Bài 1: Em là học sinh lớp 1.
Bài 2: Gọn gàng, sạch sẽ.

Bài 3: Giữ gìn sách vở, đồ dùng học tập.
Bài 4: Gia đình em.
Bài 5: Lễ phép với anh chị, nhường nhịn em nhỏ.
Bài 6: Nghiêm trang khi chào cờ.
Bài 7: Đi học đều và đúng giờ.
Bài 8:Trật tự trong trường học.
Bài 9: Lễ phép, vâng lời thầy giáo, cô giáo.
Bài 10: Em và các bạn.
Bài 11: Đi bộ đúng qui định.
Bài 12: Cảm ơn và xin lỗi.
Bài 13: Chào hỏi và tạm biệt.
Bài 14: Bảo vệ cây và hoa nơi công cộng.
Thực hành kĩ năng giữa học kì I : 1 tiết
Thực hành kĩ năng cuối học kì I : 1 tiết
Thực hành kĩ năng giữa học kì II : 1 tiết
Thực hành kĩ năng cuối học kì II và cuối năm : 1tiết
Dành cho địa phương : 3 tiết
Tổng : 35 tiết
5


Nội dung môn đạo đức kết hợp giữa giáo dục quyền với giáo dục trách nhiệm,
bổn phận của học sinh. Hơn nữa môn đạo đức không chỉ giáo dục bổn phận, trách
nhiệm của học sinh đối với gia đình, nhà trường, xã hội và mơi trường tự nhiên mà
cịn giáo dục trách nhiệm của các em đối với chính bản thân mình.
Chương II. Thực trạng của việc dạy và học đạo đức ở lớp 1:
1. Đặc điểm tình hình chung:
1.1.

Thuận lợi:


- Trường tôi nằm trung tâm xã nên học sinh đi học rất thuận lợi.
- 100% học sinh trong lớp là người địa phương.
- Lớp tôi luôn được sự quan tâm của Ban Giám Hiệu, chun mơn trường dự
giờ góp ý, xây dựng bài, rút kinh nghiệm đặc trưng của bộ mơn.
- Việc đổi mới chương trình và sách giáo khoa kèm theo cải cách lại phương
pháp dạy học làm cho cơng tác giảng dạy có hiệu quả hơn.
- Ln được các cấp lãnh đạo, ban ngành đoàn thể, Ban chấp hành Hội cha mẹ
học sinh quan tâm.
- Phong trào giáo dục đạo đức là một vấn đề được mọi cấp, mọi ngành, mọi
người quan tâm giúp đỡ.
- Tập thể lớp u thương đồn kết, tham gia tích cực các phong trào do ngành và
nhà trường phát động.
- Tập thể học sinh lớp rất ham hiểu biết, thích tìm tịi và khám phá những điều
mới lạ.
1.2.

Khó khăn:

- Tổng số học sinh trong năm học này mà tôi chủ nhiệm là 44 em (26 nữ và 18
nam). Sĩ số quá đông so với quy định.
- Trình độ các em khơng đồng đều do lớp tơi có 03 học sinh thuộc hộ nghèo. 03
em mất bố ( hoặc mẹ),09 em bố mẹ li hơn, 03 gia đình có đơng con, một số em do
điều kiện kinh tế gia đình eo hẹp nên cha mẹ mải lo làm không quan tâm đến việc
học hành của các con.
- Đa số phụ huynh làm nghề nơng nên khơng có thời gian quan tâm đến các con
cũng như coi việc hình thành nhân cách của các con.
- Ở lớp Một, các em là lớp bắt đầu chuyển từ hoạt động chơi sang học. Các em
chưa quen nên trong quá trình dạy các em chưa tập trung chú ý.
6



- Chương trình thay sách giáo khoa mới này đối với bậc phụ huynh còn bỡ ngỡ,
chưa biết dạy các em như thế nào cho đúng.
- Đối với việc đánh giá học sinh bằng nhận xét theo Thông tư 30 như hiện nay
rất khó cho việc đánh giá từng học sinh một cách chính xác.
2. Nguyên nhân.
Ở bậc tiểu học, một số học sinh kể cả các bậc phụ huynh thường coi trọng mơn
Tốn và Tiếng Việt nên họ chỉ chú ý đến 2 môn học này. Các môn học cịn lại cũng
được học sinh học nhưng nó chỉ ở mức độ chưa khắc sâu kiến thức, học sinh chưa
có hứng thú học nên hiệu quả giờ học chưa khắc sâu được các chuẩn mực hành vi
Đạo đức cho học sinh. Vì vậy nội dung của bài thường khơng đảm bảo mục tiêu đề
ra dẫn đến chất lượng giáo dục tồn diện cũng bị ảnh hưởng. Giáo viên nói nhiều,
học sinh bị gị bó mệt mỏi, tiếp thu kiến thức thụ động, có tính nhồi nhét. Nhiều khi
học sinh thực hiện hành vi Đạo đức một cách máy móc theo khuôn mẫu. Đặc biệt
các em rất nhanh quên các chuẩn mực mới. Song ngày nay do yêu cầu cao của đổi
mới giáo dục, học sinh phải được nâng cao chất lượng tồn diện. Bên cạnh 2 mơn
Tốn và Tiếng Việt các mơn khác trong đó có mơn Đạo đức đang dần được giáo
viên, phụ huynh, học sinh chú ý quan tâm hơn. Nhưng làm sao để gây được hứng
thú học tập cho học sinh để các em thấy được rằng môn học này cũng không kém
phần quan trọng như các mơn học khác và nó cịn giúp các em hiểu thêm về quyền
và bổn phận của trẻ em đối với gia đình, nhà trường, xã hội, mơi trường xung
quanh và đối với chính bản thân mình.
Điều đó đã thơi thúc tôi lựa chọn đề tài: “Một số biện pháp nâng cao chất
lượng dạy và học môn Đạo Đức lớp 1”.
Chương III. Một số biện pháp gây hứng thú học tập nhằm nâng
cao chất lượng dạy và học môn Đạo đức lớp 1 :
Qua thực thế giảng dạy, học hỏi và đúc kết kinh nghiệm của bản thân và
đồng nghiệp tôi đã rút ra được những giải pháp nhằm gây hứng thú học tập cho học
sinh học môn Đạo đức như sau:

Biện pháp 1. Hình thành cho học sinh những xúc cảm, tình cảm đạo đức:
Với ý thức đạo đức sơ đẳng và năng lực định hướng giá trị đạo đức, với kinh
nghiệm sống của bản thân ở học sinh tiểu học sẽ hình thành những xúc cảm, tình
cảm đạo đức tích cực đối với những chuẩn mực hành vi đạo đức. Có thể nói những
xúc cảm, tình cảm đạo đức tích cực là “chất men” kích thích học sinh thực hiện tốt
những hành vi đạo đức chuẩn mực. Chính vì vậy trong quá trình giảng dạy giáo
7


viên cần chú ý hình thành cho các em những xúc cảm, tình cảm đạo đức chân thực.
Chính vì vậy mỗi người giáo viên khi dạy học môn đạo đức cần chú ý:
a, Tạo sự gần gũi giữa thầy và trị:
- Nhân cách của người thầy có ảnh hưởng rất lớn đối với trò, đặc biệt là học
trò tiểu học. Các em luôn coi thầy cô như là thần tượng của mình. Do vậy người
giáo viên cần có cử chỉ ân cần, giọng nói nhẹ nhàng khi truyền tải những tri thức
đạo đức hay khi đánh giá những hành vi đạo đức của học sinh. Từ những cử chỉ ân
cần, ánh mắt trìu mến, lời nói dịu dàng của người giáo viên giúp học sinh có lịng
tin u và dễ tiếp thu lời dạy bảo của thầy cô giáo.
b, Chú ý đến tính chân thực khi giảng dạy đạo đức:
Dạy học mơn đạo đức phải gắn bó chặt chẽ với cơ sở thực tế cuộc sống của học
sinh. Các truyện kể, tình huống, tấm gương, tranh ảnh…sử dụng để dạy học đạo
đức phải lấy chất liệu từ cuộc sống thực của học sinh. Điều đó sẽ giúp cho bài học
đạo đức thêm phong phú, gần gũi, sống động đối với các em.
- Các ví dụ minh hoạ lấy từ cuộc sống càng gần gũi, càng chân thực bao
nhiêu thì sự thuyết phục đối với các em càng cao bấy nhiêu. Do vậy giáo viên cần
lựa chọn các ví dụ thật gần gũi với cuộc sống thực của các em, có tính thuyết phục
các em. Ở nhiều giờ học đạo đức phần liên hệ thực tế, học sinh thường hay nói
theo, nói dựa vào nội dung bài học. Giáo viên cần khéo léo dẫn dắt học sinh nói
thật, nói đúng những hành vi phù hợp với chuẩn mực đạo đức của bài và cả những
hành vi trái với những chuẩn mực đạo đức đó. Có như vậy học sinh mới ghi nhớ

được những chuẩn mực đạo đức của bài học một cách sâu sắc.
Ví dụ1: Khi dạy bài: “Lễ phép với anh chị, nhường nhịn em nhỏ” ở phần liên
hệ giáo viên đặt câu hỏi: “Nhà con có anh, chị hay em?
Con thường chơi với anh, chị (em) con như thế nào?”
Ví dụ 2: Khi dạy bài: “Đi học đều và đúng giờ”, tôi cho các em nhận xét xem từ
đầu năm đến giờ những bạn nào ở lớp luôn đi học đều và đúng giờ. Những bạn nào
hay đi học muộn.
Ví dụ 3: Khi dạy bài: “ Lễ phép, vâng lời thầy giáo, cô giáo” tôi cho học sinh
chuẩn bị và kể về một bạn lễ phép và vâng lời thầy giáo, cơ giáo mà con biết.
Với những ví dụ gần gũi với cuộc sống thực của học sinh như vậy đã giúp cho
học sinh nắm chắc bài và ghi nhớ chuẩn mực hành vi đạo đức một cách chủ động
và ghi nhớ lâu.
8


Biện pháp 2. Đồ dùng trực quan phải đa dạng phong phú, phù hợp với nội
dung của từng bài học:
Tiết dạy có thành cơng hay khơng một phần rất quan trọng là công việc
chuẩn bị của giáo viên và học sinh. Vai trò của thầy quyết định việc học của trò và
ngược lại hoạt động của trò tác động lớn đến việc dạy của thầy. Thấy được vai trò
của người thiết kế và giám sát trong quá trình lên lớp nên ngay từ khi có quyết định
nghiên cứu đề tài tôi đã đi sâu nghiên cứu để nắm được tinh thần cơ bản của
chương trình và cấu trúc SGK. Để chuẩn bị cho tiết dạy được tốt, bao giờ người
giáo viên cũng phải nghiên cứu kĩ bài trong SGK, phát hiện trọng tâm kiến thức để
truyền thụ cho học sinh. Mặt khác, chúng ta cũng không quên việc sưu tầm, sáng
tạo thêm một số đồ dùng dạy học phục vụ cho bài giảng của mình để giờ học thêm
sinh động, hấp dẫn thu hút sự chú ý của học sinh. Mặt khác, nhận thức của học sinh
lớp 1 còn thiên về cảm tính, trực tiếp và cụ thể. Do vậy việc sử dụng đồ dùng trang
thiết bị dạy học giúp các em hứng thú học tập, học tập có hiệu quả cao hơn. Đồ
dùng dạy học mơn Đạo đức có thể là:

a, Các phương tiện, in, vẽ:
Các loại tranh, ảnh, hình vẽ, minh hoạ có tác dụng chủ yếu là minh hoạ cho
các tình tiết, tình huống, hành vi đạo đức trong truyện kể. Nó phù hợp với lứa tuổi
học sinh tiểu học, đặc biệt là học sinh lớp 1, giúp các em hứng thú học tập hơn.
Theo chương trình mới vở bài tập đạo đức chủ yếu là kênh hình, tơi sử dụng triệt để
các hình vẽ ở vở bài tập và tranh đạo đức được phóng to từ vở bài tập Đạo đức ở bộ
tranh đạo đức lớp 1. Bên cạnh đó để gây được hứng thú cho học sinh trong một số
bài dạy tôi thường cho các em sử dụng thêm một số tranh ảnh minh hoạ.
Ví dụ 1: Khi dạy bài: “Gia đình em”.
Tơi cho học sinh mang ảnh chụp về gia đình mình để giới thiệu với các bạn.
Các em thật tự hào khi giới thiệu với các bạn về ông bà, bố mẹ, anh chị em của gia
đình mình. Hơn nữa các em càng thêm u thương gắn bó với mọi người trong gia
đình. Mặt khác, sử dụng ảnh thật còn làm cho giờ học Đạo đức thật sự sơi nổi, sống
động.
Ngồi các tranh vẽ, ảnh thật minh hoạ tơi cịn cho sử dụng tranh vẽ sưu tầm
của học sinh trong khi học. Các em thật hào hứng khi vẽ, sưu tầm các loại tranh
theo chủ đề của bài. Việc vẽ tranh giúp các em tái hiện được những hành vi đạo đức
tốt, ghi nhớ sâu sắc hành vi đạo đức đó.
Ví dụ 2: Khi dạy bài“Em là học sinh lớp 1”.
9


Tơi cho học sinh tự giới thiệu về sở thích của mình qua tranh vẽ. Tơi hướng
dẫn học sinh là con thích gì thì vẽ tranh sẵn ở nhà rồi mang đến giới thiệu cho các
bạn trong nhóm, trong lớp cùng nghe.
Ví dụ 3: Khi dạy bài: “Nghiêm trang khi chào cờ” (Tiết 2) sau hoạt động vẽ
và tô màu lá quốc kì tơi treo bài của học sinh lên bảng để học sinh giới thiệu về đặc
điểm lá quốc kì Việt Nam.
Tơi giới thiệu thêm về ý nghĩa của lá quốc kì Việt Nam: Nền đỏ tượng trưng
cho nhiệt huyết cách mạng, biểu tượng cho sự chiến đấu và chiến thắng. Màu vàng

của ngôi sao tượng trưng cho linh hồn dân tộc, năm cánh sao vàng tượng trưng cho
các tầng lớp nhân dân cùng đoàn kết trong đại gia đình các dân tộc Việt Nam. Từ
đó khơi gợi cho các em lòng yêu nước, tự hào về Tổ quốc Việt Nam.
Ví dụ 4: Khi dạy bài: “Em và các bạn” tôi cho học sinh vẽ và giới thiệu về
bạn của mình. Học sinh có thể vẽ chân dung bạn, vẽ những trị chơi, bài học mà
mình và bạn cùng tham gia khi cùng học, cùng chơi với bạn.
Sau tiết học tôi dùng tranh vẽ hoặc tranh sưu tầm của học sinh treo tại lớp
học để hàng ngày các em được nhìn thấy các tranh vẽ và thường xuyên nhớ được
những hành vi đạo đức tốt mà các em đã được học trong bài.
b, Các phương tiện là đồ vật mơ hình:
Các đồ vật, mơ hình chủ yếu sử dụng khi học sinh sắm vai, đóng tiểu phẩm.
Chính những đồ dùng này góp phần làm cho giờ học thêm sinh động hơn, gây hứng
thú học tập cho học sinh, học sinh nhớ và khắc sâu kiến thức tốt hơn. Những đồ
vật, mơ hình sử dụng trong khi học sinh sắm vai là những đồ vật rất đơn giản, xong
lại giúp học sinh tái hiện lại được nội dung bức tranh một cách sinh động nhất.
Trong nhiều tiết dạy tôi luôn chuẩn bị đủ đồ dùng phục vụ cho việc sắm vai. Vì vậy
nhiều học sinh đã thích được sắm vai, thích được thể hiện mình. Nhờ vậy mà hiệu
quả giờ học được nâng cao rõ rệt.
Ví dụ khi dạy bài: “Chào hỏi và tạm biệt”.
Tơi cho học sinh đóng vai theo nội dung tranh bài tập 1.

10


Tranh 1: Hai bạn nhỏ chào bà cụ.
Tôi chuẩn bị cho học sinh một cái gậy dài khoảng 1m và một cái khăn nhung
để học sinh đóng vai bà cụ. Học sinh đầu đội khăn, tay cầm gậy. Cả lớp rộ lên tiếng
cười vui xong các em lại vào vai rất tốt.
c, Các phương tiện kĩ thuật nghe nhìn:
Những phương tiện này có rất nhiều ưu điểm, trình bày những hành vi tình

huống đạo đức một cách liên tục, có thể lặp đi lặp lại một cách dễ dàng gây được
hứng thú, lòng say mê học của học sinh.
* Sử dụng bài giảng điện tử:
Ngày nay việc sử dụng bài giảng điện tử khơng cịn là mới mẻ đối với giáo
viên và học sinh. Việc sử dụng bài giảng điện tử rất thuận tiện cho giáo viên và
học sinh trong quá trình giảng dạy và học tập. Giáo viên đỡ vất vả trong việc chuẩn
bị đồ dùng, hình ảnh và màu sắc sinh động thu hút sự chú ý của học sinh giúp các
em dễ dàng nắm bắt được nội dung kiến thức, chuẩn mực hành vi đạo đức cần phải
học tập.
Ví dụ khi dạy bài: “Gia đình em”.

11


Giáo viên Scan tranh bài tập 2 vào 1 Slide rồi trình chiếu cho học sinh quan
sát trên phơng kết hợp tranh trong vở bài tập đạo đức để kể lại nội dung từng tranh.
Sang hoạt động 3 học sinh chơi đóng vai theo các tình huống trong bài tập 3
tôi cũng Scan tranh bài tập 3 vào 1 Slide rồi trình chiếu lên phơng cho học sinh
quan sát.

12


Tôi yêu cầu học sinh quan sát và cho biết từng tranh vẽ những gì? Sau đó chia
lớp thành 7 nhóm (mỗi nhóm 6-7 học sinh) yêu cầu mỗi tổ đóng vai theo tình
huống một tranh. Các nhóm chuẩn bị đóng vai dựa vào tranh rồi lên trình diễn. Học
sinh khác quan sát, nhận xét. Cuối cùng giáo viên kết luận về cách ứng xử phù hợp
trong các tình huống trên.
13



* Sử dụng băng nhạc, vi deo clip
Hình thức học tập này cũng lôi cuốn, hấp dẫn học sinh chẳng kém gì khi
dùng bài giảng điện tử. Tuy nhiên sử dụng phương tiện dạy học này đòi hỏi sự đầu
tư về vật chất. Tôi thường sử dụng Audio – CD các bài hát phục vụ dạy và học môn
Đạo đức lớp 1 để học sinh nghe, hát theo trong khi học, VCD hoạt cảnh theo nội
dung sách đạo đức.
Ví dụ 1: khi dạy bài: “Giữ gìn sách vở đồ dùng học tập”.
Phần khởi động tôi bật băng đài cho học sinh nghe bài hát: “Sách bút thân
yêu ơi”. Yêu cầu học sinh vỗ tay và hát theo bài hát.
Giáo viên hỏi: Bài hát các em vừa nghe nói về điều gì?
Sau khi học sinh trả lời thì giáo viên dẫn dắt giới thiệu vào hoạt động 1.
Với cách vào bài, giới thiệu bài như vậy tôi thấy học sinh hào hứng sơi nổi
và chú ý hơn vào bài học.
Ví dụ 2: Khi dạy bài: “Đi bộ đúng quy định” tôi cho học sinh xem clip về
cảnh xe cộ và người đi bộ trên đường phố, đường làng, cảnh người đi lại qua ngã tư
có đèn hiệu. Sau khi xem xong tôi cho học sinh nhận xét về ý thức tuân thủ luật
giao thông của mọi người.
Giáo viên hỏi: - Xe máy, ô tô đi ở phần nào của đường?
- Xe đạp đi ở đâu?
- Người đi bộ đi ở đâu?
- Các bạn đi học như thế nào? Đã đúng luật giao thông chưa?
Từ việc xem đoạn phim, clip trên học sinh thấy rõ những bạn thực hiện tốt
được luật lệ giao thông và học tập theo bạn, tránh những trường hợp chưa chấp
hành luật giao thông để đảm bảo an tồn cho mình và mọi người xung quanh.
Sự chuẩn bị tốt đồ dùng của giáo viên và học sinh là một trong những điểm
giúp học sinh có và duy trì được hứng thú học tập trong suốt giờ học. Tuy nhiên
bên cạnh đó để gây được hứng thú học tập cho các em đòi hỏi người giáo viên phải
lựa chọn phối hợp các phương pháp dạy học.
Biện pháp 3: Lựa chọn phối hợp các phương pháp dạy học một cách linh

hoạt:
Dạy học Đạo Đức cần xuất phát từ quyền trẻ em, từ lợi ích của trẻ em đến
giáo dục trách nhiệm, bổn phận của học sinh. Cách tiếp cận đó sẽ giúp cho việc dạy
học Đạo Đức trở nên tự nhiên, nhẹ nhàng và hiệu quả hơn, giúp cho học sinh lĩnh
hội kiến thức một cách tự nguyện, thực hiện chuẩn bị hành vi một cách tự giác,
14


tránh được sự gò ép, áp đặt trước đây. Dạy học đạo đức chỉ đạt được hiệu quả khi
khơi dậy được ở học sinh niềm hứng thú và sự tích cực chủ động và tham gia vào
quá trình nhận thức. Dạy học đạo đức phải là quá trình giáo viên tổ chức, hướng
dẫn học sinh hoạt động, phát huy vốn kinh nghiệm và thói quen đạo đức của học
sinh, trên cơ sở đó các em tự khám phá và chiếm lĩnh tri thức mới, kĩ năng mới.
Đối với học sinh lớp 1, nhận thức cịn cảm tính, trực tiếp và cụ thể, hiếu
động. Vì vậy các nội dung giáo dục cần phải truyền tải đến học sinh một cách nhẹ
nhàng, gần gũi sinh động và hấp dẫn thông qua các hoạt động đóng vai, chơi trị
chơi, phân tích, xử lý tình huống, kể chuyện theo tranh, xây dựng các câu chuyện
có phần kết là mở đánh giá và tự đánh giá hành vi của bản thân của những người
xung quanh theo các chuẩn mực hành vi đã học, tìm hiểu, phân tích, đánh giá các
sự kiện trong đời sống đạo đức của lớp học, của nhà trường, của địa phương. Kể
chuyện, múa, hát, đọc thơ, vẽ tranh, xem băng hình… có liên quan đến chủ đề bài
học. Các phương pháp và hình thức dạy học đạo đức lớp 1 rất phong phú, đa dạng
bao gồm cả hình thức mới như: đóng vai, thảo luận nhóm, tổ chức trị chơi, giải
quyết vấn đề, động não và các phương pháp truyền thống như: kể chuyện, đàm
thoại, nêu gương, sử dụng đồ dùng trực quan, khen thưởng bao gồm cả hình thức
học cá nhân, theo lớp, theo nhóm, học ở trong lớp, ngồi sân trường, vườn trường
và thăm quan các di tích văn hố, các địa điểm có liên quan đến nội dung học tập.
Mỗi phương pháp và hình thức dạy học đạo đức đều có mặt mạnh và thuận lợi
riêng phù hợp với từng loại bài, từng bước của tiết dạy. Vì vậy khơng nên cứng
nhắc, lạm dụng hoặc phủ định hồn tồn một phương pháp hoặc một hình thức dạy

học nào. Cần căn cứ vào nội dung, đặc trưng của từng bài, căn cứ vào khả năng của
học sinh, năng lực sở trường của giáo viên, căn cứ vào điều kiện hoàn cảnh cụ thể
của trường, lớp mà giáo viên lựa chọn sử dụng kết hợp các phương pháp và hình
thức dạy học một cách hợp lí, phù hợp với tâm lí lứa tuổi của học sinh. Đồng thời
phải kết hợp hài hoà giữa việc trang bị kiến thức với bồi dưỡng tình cảm và luyện
tập thực hành kĩ năng cho học sinh.
Ví dụ khi dạy bài: “Đi học đều và đúng giờ”
* Hoạt động 1: Tôi giới thiệu tranh bài tập 1:

15


Thỏ và Rùa là hai bạn học cùng lớp. Thỏ thì nhanh nhẹn cịn Rùa vốn tính chậm
chạp. Chúng ta hãy đốn xem chuyện gì sẽ xảy ra với hai bạn?
Tôi yêu cầu học sinh quan sát tranh bài tập 1 rồi thảo luận nhóm 2 để trình bày
nội dung tranh. Sau đó gọi đại diện 2 nhóm học sinh trình bày. Học sinh khác nhận
xét. Cuối cùng giáo viên chốt nội dung: Đến giờ vào lớp học, bác Gấu đánh trống
vào lớp bạn Rùa đã ngồi vào bàn học. Bạn Thỏ vẫn đang la cà, nhởn nhơ ngoài
đường hái hoa, bắt bướm chưa vào lớp học được.
Giáo viên hỏi:
- Vì sao Thỏ nhanh nhẹn lại đi học muộn cịn Rùa chậm chạp lại đi học đúng
giờ?
- Qua câu chuyện, em thấy bạn nào đáng khen? Vì sao? Bạn nào đáng chê?
Vì sao?
- Con học tập bạn nào?
Cuối cùng giáo viên mới kết luận: “Thỏ la cà nên đi học muộn. Rùa tuy
chậm chạp nhưng rất cố gắng đi học đúng giờ. Bạn Rùa thật đáng khen.”
* Hoạt động 2: Tơi cho học sinh sắm vai theo tình huống “Trước giờ đi học”
(bài tập 2)
16



Tôi phân hai học sinh ngồi cùng bàn làm thành một nhóm đóng vai hai nhân vật
trong tình huống.
Học sinh tự tập luyện và đóng vai trong nhóm 2.
Đại diện 2 nhóm đóng vai trước lớp.
Học sinh khác nhận xét và thảo luận:
“Nếu em có mặt ở đó em sẽ nói gì với bạn? Vì sao?”
Học sinh trả lời
Giáo viên tổng kết.
* Hoạt động 3: Liên hệ:
Giáo viên hỏi: “Những bạn nào lớp mình ln đi học đúng giờ?” Học sinh
giơ tay. Giáo viên khen những học sinh thực hiện tốt và nhắc nhở những học sinh
còn lại cố gắng đi học đúng giờ.
Giáo viên hỏi: “Con cần làm những việc gì để đi học đúng giờ?” Nhiều học
sinh trả lời.
Cuối cùng giáo viên tổng kết: Được đi học là quyền lợi của trẻ em. Đi học
đúng giờ giúp các em thực hiện tốt quyền được đi học của mình. Để đi học đúng
giờ cần phải:
- Chuẩn bị sách vở, quần áo đầy đủ từ tối hôm trước.
- Không thức khuya.
- Để đồng hồ báo thức hoặc nhờ bố mẹ gọi dậy đúng giờ....
Việc giáo viên phối hợp các phương pháp dạy học gây hứng thú học tập cho
học sinh nhằm nâng cao chất lượng dạy và học xong chưa đủ. Giáo viên cần chú ý
tổ chức cho các em luyện tập các thao tác hành động đạo đức nhằm giúp các em có
những thói quen tốt thơng qua một số trò chơi học tập.
Biện pháp 4. Tổ chức trò chơi học tập phù hợp để luyện tập các thao tác
hành động đạo đức.
Cùng với học chơi là nhu cầu khơng thể thiếu được của học sinh tiểu học.
Qua trị chơi các em không những được phát triển về mặt trí tuệ., thể chất thẩm mĩ

mà cịn được hình thành những phẩm chất và hành vi đạo đức. Chính vì vậy tổ chức
trò chơi được sử dụng để giáo dục hành vi đạo đức cho học sinh. Nội dung trò chơi
sẽ minh họa một cách sinh động các mẫu hình vi đạo đức. Nhờ vậy những mẫu
hành vi này sẽ tạo được những biểu tượng rõ rệt ở học sinh, giúp các em ghi nhớ rõ
ràng và lâu bền. Qua trò chơi học sinh được luyện tập những khả năng, những thao
tác hành vi đạo đức giúp các em thể hiện hành vi một cách đúng đắn. Bằng trò chơi
17


việc tập luyện hành vi đạo đức được tiến hành một cách nhẹ nhàng, sinh động
không khô khan nhàm chán. Học sinh được lơi cuốn vào q trình luyện tập một
cách tự nhiên, hứng thú và có tinh thần trách nhiệm đồng thời giải toả được những
mệt mỏi căng thẳng trong q trình học tập. Tơi thường tổ chức cho học sinh tham
gia một số trò chơi sau đây:
a) Trò chơi sắm vai.
Trò chơi sắm vai giúp các em bắt trước những lời nói và thể hiện những hành
động ở người lớn, của bạn đã giúp các em tự nhiên phát biểu những suy nghĩ việc
làm ở nhân vật. Vì vậy giờ học trở nên sôi nổi, sống động, học sinh được thực hành
những thao tác, hành vi đạo đức một cách nhẹ nhàng, tự nhiên, thoải mái. Từ đó
các em sẽ nhớ và vận dụng những hành vi vào cuộc sống thực tiễn của mình. Qua
trị chơi này giúp các em vững vàng tự tin và bạo dạn hơn thể hiện mình.
Ví dụ: Khi dạy bài 5: “Lễ phép với anh chị, nhường nhịn với em nhỏ”.
Tôi sử dụng những tình huống dựa vào tranh bài tập: Hai anh em cùng chơi đồ
hàng, anh có ơ tơ đẹp, em bé địi mượn.

Học sinh trả lời theo nhóm(2) phân vai và tự đưa ra cách giải quyết. Lần lượt
các nhóm thể hiện sắm vai người thể hiện cách giải quyết của mình.
18



- Cho em mượn
- Không cho em mượn
- Cho em mượn và hướng dẫn em chơi
Học sinh tự rút ra cách lựa chọn 3 là đúng, học sinh sẽ tự giác thể hiện tốt hành
vi này theo cách mình đã chọn.
Với mỗi tình huống tơi cho nhiều học sinh sắm vai để các em được luyện tập
kỹ năng ứng xử và có thể nhận xét cách ứng sử khác nhau trong cùng một tình
huống.
b) Dựng hoạt cảnh:
Bên cạnh trị chơi sắm vai một số bài tơi cịn cho các em tham gia dựng hoạt
cảnh. Dựng hoạt cảnh cũng có nét giống trị chơi săm vai, có tác dụng như trị chơi
sắm vai nhưng địi hỏi sự chuẩn bị cơng phu về các vai, trang phục. Trong các bài
dạy đạo đức tôi chọn một số bài sử dụng phương pháp dựng tiểu phẩm phù hợp với
hình thức dựng hoạt cảnh. Sau đó giáo viên cùng học sinh tham gia xây dựng biểu
diễn hoạt cảnh nhằm khắc sâu những hành vi, hành động đạo đức.
Ví dụ: Khi dạy bài: “ Gia đình em” ( Tiết 2)
Tôi xây dựng hoạt cảnh sau “ Chuyện của bạn Long” do một số học sinh
trong lớp đóng.
* Các vai: Long, mẹ Long, các bạn Long (4 bạn)
* Nội dung: Mẹ Long đang chuẩn bị đi làm và dặn Long
- Mẹ: Long ơi, mẹ đi làm đây. Hôm nay trời nắng, con ở nhà học bài và trông
nhà cho mẹ nhé.
- Long: Vâng ạ, con chào mẹ !
Đang chăm chú học bài thì các bạn của Long đến.
- Các bạn: Long ơi, đi đá bóng với bọn tớ đi! Bạn Đạt vừa được bố mua cho
quả bóng đẹp lắm.
- Long; Tớ chưa học bài xong, với lại mẹ tớ dặn phải ở nhà trông nhà.
- Các bạn: Mẹ cậu có biết đâu mà lo, đá bóng rồi chốc nữa về học bài sau
cũng được.
- Long: Tớ…. ừ thì các cậu đợi tớ nhé, tớ khố cửa đã rồi chúng mình cùng đi.

19


Sáu học sinh chào khán giả.
Sau khi xem tiểu phẩm tơi hỏi học sinh cả lớp:
- Em có nhận xét gì về việc làm của bạn Long?
- Điều gì có thể xảy ra khi bạn Long không vâng lời mẹ?
Sau đó tơi mới nhắc nhở học sinh khơng nên học tập bạn Long. Bạn Long
không vâng lời mẹ là chưa ngoan, không vâng lời mẹ dặn trông nhà và không làm
xong bài, đi đá bóng vào lúc trời nắng có thể bị ốm phải nghỉ học. Sau khi xem tiểu
phẩm tơi thấy các em rất thích thú hào hứng. Tiểu phẩm giúp các em khắc sâu hành
vi đạo đức: Phải vâng lời lễ phép với cha mẹ. Qua đóng tiểu phẩm rèn cho các em
có tính bạo dạn, tự tin hơn khi đứng trước đơng ngừời.
c) Trị chơi tập xử lý tình huống:
Tập xử lý tình huống đạo đức để rèn cho các em ban đầu biết cách ứng xử ở
lớp, ở trường cũng như trong cuộc sống hàng ngày. Học sinh biết vận dụng những
điều đã học để nhận biết cái đúng cái sai, cái đẹp, cái xấu trong hành vi và lý giải
tại sao. Qua đó các em rèn luyện về thái độ phê và tự phê, các em biết kiềm chế,
không làm trái với chuẩn mực đạo đức.
Giáo viên có thể nêu tình huống bằng cách
- Dùng máy Projecter chiếu tranh vẽ nội dung tình huống
- Dùng lời kể của giáo viên
- Cho học sinh xem một đoạn phim
Khi đưa tình huống giáo viên cần lưu ý các tình huống đưa ra phải thật gần gũi
với học sinh. Tránh các tình huống q khó như đánh đố đối với học sinh.
Ví dụ: Khi dạy bài “ Trật tự trong trường học”
Tơi nêu tình huống thường gặp đối với học sinh như sau:
“ Trong giờ học cô giáo đứng giảng bài, bạn Đức ngồi cạnh con lấy truyện
ra đọc. Con sẽ nói gì với bạn”. Tơi cho học sinh tự do trả lời và động viên các em
mạnh dạn trình bày những suy nghĩ ở mình. Học sinh đã đưa ra được các cách giải

quyết như sau:
- Ý kiến 1: Thưa với cô về việc làm của bạn
- Ý kiến 2: Không nên thưa cô mà chỉ nhắc nhở bạn cất truyện để chú ý nghe
cô giảng bài.
20


Tơi hỏi: Vì sao con lại khơng nên thưa cơ?
Học sinh: Vì thưa cơ làm ảnh hưởng đến giờ học
Sau đó giáo viên mới phân tích và chốt lại: “Trong giờ học mà các em mải
chơi không chú ý nghe cô giảng bài sẽ không hiểu bài, dẫn đến học kém. Vì vậy
mỗi con cần có ý thức tốt trong giờ học và hơn nữa các con còn biết nhắc nhở bạn
khi bạn mất trật tự. Nếu trong giờ học mà con nhắc nhở nhiều lần mà bạn không
nghe lúc đó con mới thưa cơ giáo. Các con có đồng ý như vậy khơng ?
Qua việc xử lý các tình huống đạo đức tôi tin rằng các em sẽ rất ghi nhớ để
trong cuộc sống hàng ngày gặp các tình huống đạo đức tương tự các em sẽ biết
cách xử lý đúng.
Ở học sinh tiểu học khả năng chú ý có chỉ định và hứng thú chưa được thật bền
vững. Do đó khơng nên chỉ tổ chức một trị chơi quá dài. Do vậy giáo viên cần lựa
chọn nhiều trò chơi thích hợp để có thể ln phiên giúp học sinh chuyển hướng chú
ý và hứng thú một cách hợp lý nhằm phục vụ những yêu cầu giáo dục đề ra. Vì vậy
tơi cịn cho học sinh tham gia một số trị chơi tập sử lý tình huống đạo đức để rèn
cho các em ban đầu biết cách ứng xử ở lớp, ở trường cũng như trong cuộc sống
hàng ngày qua một số trò chơi sau.
- Trò chơi “ghép tranh” với ô chữ nên – không nên bài 5 “ Lễ phép với anh
chị, nhường nhịn em nhỏ”.
- Trò chơi ghép hoa thành bông hoa cảm ơn và xin lỗi trong bài 12 “ Cảm ơn
và xin lỗi”
- Trò chơi “ Kết thân” bài 1 “ Em là học sinh lớp 1”
Các em được thực hiện các hành vi đạo đức thơng qua một số trị chơi các em

rất thích thú và ghi nhớ được hành vi đạo đức một cách sâu sắc.
Ví dụ: Khi dạy bài “ Lễ phép vâng lời thầy giáo, cô giáo” ( Tiết 2) trong hoạt
động cuối , tơi cho học sinh chơi trị chơi: Hái hoa dân chủ.
Chuẩn bị: Một cây hoa mai giả, mỗi bông hoa là một câu hỏi (được tôi chuẩn bị
trước)
Câu 1: Trên đường đi học, gặp cô giáo con làm gì?
Câu 2: Em hãy kể về một bạn biết lễ phép, vâng lời thầy cô giáo.
Câu 3: Trong giờ học, bạn Hải nói chuyện với bạn Cường , em có nhận xét gì?
21


Câu 4: Cô giáo đang giảng bài, muốn đi vệ sinh em làm thế nào?
...
Cách chơi: Tôi cho từng học sinh lên hái hoa để trả lời câu hỏi( nếu bạn nào trả
lời sai thì bạn khác có quyền trả lời ) Nếu em nào trả lời đúng sẽ được nhận phần
thưởng. Khi giáo viên trao phần thưởng cho các em là lúc các em luyện tập hành vi
“nhận bằng hai tay” thể hiện thái độ lễ phép với thầy cơ giáo. Sau đó cho học sinh
nhận xét hành vi của các bạn.
Biện pháp 5. Nêu gương người tốt việc tốt.
Học sinh tiểu học hay bắt chước, ý thức của các em chưa được hình thành đầy
đủ, hành vi chưa có tính bền vững nên những tấm gương đạo đức giáo viên đưa ra
có tác dụng làm cho chuẩn mực đạo đức trực quan hơn, cụ thể hơn và có sức thuyết
phục hơn.
* Những tấm gương trực tiếp:
Với trẻ lớp 1 các em rất hay bắt chước nhau và bắt chước nhau rất nhanh. Dựa
vào đặc điểm này trong bài giảng dạy đạo đức tơi thường lấy những ví dụ cụ thể
trong trường, trong lớp để các em học tập và noi theo
Ví dụ: Khi dạy bài “ Gọn gàng sạch sẽ”
Tơi cho học sinh xem trong lớp mình những bạn nào luôn ăn mặc gọn gàng
sạch sẽ. Học sinh bình chọn các bạn. Và tơi mời những học sinh đó lên để cả lớp

quan sát và học tập.
Hay khi dạy bài “Giữ gìn sách vở đồ dùng học tập”
Ở tiết 2 có cuộc thi “Ngày hội sách vở sạch đẹp” tôi cũng cho học sinh trưng
bày đồ dùng học tập của mình để học sinh nhận xét, bình chọn xem những ai có ý
thức giữ gìn sách vở đồ dùng học tập của mình ln sạch đẹp để những bạn khác
quan sát, học tập, noi theo. Rồi tôi cho học sinh xếp thành hàng và đi ngắm những
bộ sách vở mà học sinh có ý thức giữu gìn.
* Những tấm gương gián tiếp: Là những tấm gương trong truyện kể, bài thơ,
múa, hát
Học sinh lớp 1 rất thích nghe kể chuyện. Những câu chuyện, bài thơ sẽ giúp
cho bài học đạo đức, tấm gương điển hình đến với học sinh một cách tự nhiên, nhẹ
nhàng, sống động. Vì vậy trong giờ đạo đức tôi thường sưu tầm lựa chọn những
chuyện kể, bài thơ, bài hát phù hợp với nội dung bài học để kể cho học sinh nghe.
22


Qua đó học sinh sẽ ghi nhớ sâu sắc những gương tốt để noi theo, phê phán những
hành vi sai trái.
Ví dụ: Khi dạy bài “ Gọn gàng sạch sẽ” tơi đọc cho học sinh nghe bài thơ
Con cị sạch sẽ.
Con cị sạch sẽ
Đứng ở bờ sơng
Rỉa cánh, rỉa lơng
Kì chân cọ mỏ
Một con quạ nhỏ
Lông cánh bẩn hôi
Đến rủ đi chơi
Lắc đầu cị nói
Tơi cịn tắm gội
Tơi chẳng muốn đi

Quạ bảo tội gì
Rét mà cũng tắm
Giương đơi cánh trắng
Cị trả lời ngay
Tôi tắm hàng ngày
Thơm tho sạch sẽ
Cánh lông sạch sẽ
Ai cũng yêu ngay
Lười tắm bẩn hôi
Không ai yêu cả.
Giáo viên hỏi: “Qua bài thơ con học tập được tính gì ở con vật nào ?
( Học tập đức tính sạch sẽ ở con cị).
“Khơng học tập con vật nào? vì sao?
( Khơng học tập bạn quạ vì bạn lười tắm nên người bẩn hôi.)
23


Biện pháp 6. Giáo viên thường xuyên quan tâm, uốn nắn, động viên kịp
thời.
Tâm lý ở trẻ thích được khen hơn chê nên sau mỗi bài, mỗi việc các em làm dù
nhỏ tôi cũng chú ý lắng nghe, nhận xét các em. Bản thân các em có thể khẳng định
chắc chắn và mơ hồ việc mình làm là đúng hay sai. Do đó giáo viên phải là người
giúp học sinh đi tới chuẩn kiến thức và là người thúc đẩy các em hoạt động hiệu
quả hơn. Bên cạnh các giải pháp nêu trên nhằm gây hứng thú học tập cho học sinh,
tôi muốn đề cập tới giải pháp: Nhận xét, động viên kịp thời tới mỗi cá nhân học
sinh.
Để động viên kịp thời thái độ học tập của học sinh, kích thích học sinh tham gia
vào hoạt động học tập, giúp học sinh luôn cảm thấy hứng thú muốn học tiếp các bài
sau ở môn học tôi áp dụng các hình thức nhận xét, động viên đúng mức độ đạt được
ở học sinh kịp thời, đúng lúc, đúng đối tượng, điều đó góp phần vào việc nâng cao

chất lượng dạy và học làm cho tiết dạy của tôi thành công hơn.
Trẻ nhỏ rất thích được khen ngợi, vì vậy sau mỗi bài học hay bất kì một thao tác
hành vi đạo đức tốt của học sinh, giáo viên khuyến thích khen ngợi các em, đặc biệt
chú trọng khuyến khích các em trung bình và yếu. Học sinh được nhận xét đánh giá
bài của bạn mình sẽ tập cho các em ban đầu biết phân tích, nhận xét và học tập theo
những hành vi đạo đức đúng, các em sẽ phấn khởi hơn và hứng thú hơn.
Ví dụ: Ở lớp tơi em Đặng Minh Châu là một học sinh nhút nhát, ít phát biểu và
sợ sai nên trả lời rất nhỏ, tôi thường xuyên gọi em lên trả lời những câu hỏi phù
hợp với khả năng của em. Sau đó tơi thường động viên em bằng lời khen ngợi và
những tràng pháo tay giòn giã của cả lớp. Châu rất vui sướng và ln có cố gắng
trong học tập. Đến cuối học kì I , Châu là 1 trong những học sinh được thưởng 3
quyển vở do có tiến bộ vượt bậc trong học tập. Mẹ Châu đã kể với tôi sau hơm
nhận được phần thưởng, về đến nhà Châu nói với mẹ : “ Mẹ ơi, mẹ muốn có một
người con gái như con không ?”. Tôi biết rằng phần thưởng tuy nhỏ bé nhưng tác
dụng thật lớn lao.
Lời nhận xét động viên đánh giá phải đi kèm với thái độ, giọng nói của giáo
viên để làm cho học sinh tự tin, mạnh dạn hơn đồng thời thu hút được các em vào
hoạt động học một cách tích cực hơn. Vì vậy tơi ln chú ý tới thái độ, lời nói, cử
chỉ của mình để làm sao có thể tạo ra được khơng khí học tập thoải mái giữa cơ và
trị. Tránh để các em thấy cơ là q sợ, khơng dám bày tỏ ý kiến của mình, điều đó
làm giảm hứng thú học tập dẫn đến chất lượng dạy và học cũng giảm.
24


Biện pháp 7. Tổ chức hoạt động ngoại khóa :
Hoạt động ngoại khoá nhằm giúp học sinh hiểu biết thêm kiến thức thực tế, tạo
điều kiện giáo dục các em lịng u q hương, có hành vi đạo đức tốt đẹp về quê
hương đất nước. Từ đó có các em có hứng thú học tập tốt hơn.
Ví dụ: Sau khi dạy bài: “ Bảo vệ cây và hoa nơi công cộng”. Tôi cho học sinh
đi tham quan vườn hoa, cây cảnh của trường và hỏi:

- Ra chơi ở sân trường, vườn trường em có thích khơng?
- Vườn hoa, cây cảnh ở trường mình có đẹp khơng?
- Sân trường , trong vườn trồng những loại cây nào?
- Khi mùa hè đến cây gì trên sân trường nở hoa đỏ rực, thành từng chùm?
Ngồi ra cịn có những cây nào khác?
- Muốn cây và hoa của trường mình ln đẹp chúng ta cần làm gì?
Hẳn là các em sẽ thấy được vẻ đẹp của cây hoa, cây cảnh của trường. Từ đó
các em thêm yêu mến trường lớp và có ý thức bảo vệ cây xanh.
Biện pháp 8. Kết hợp với phụ huynh để quan tâm theo dõi động viên kịp
thời cũng như đánh giá học sinh trong học tập.
Giáo dục học sinh là trách nhiệm và bổn phận của thầy cô và phụ huynh . Như
chúng ta đã biết, thời gian ở nhà của các em nhiều hơn ở lớp, trong khối thì lớp tơi
có khá nhiều học sinh hồn cảnh khó khăn, nên tơi thường xun kết hợp với phụ
huynh học sinh thông qua các hoạt động ở nhà, ở trường để họ ý thức được tầm
quan trọng của việc quan tâm dạy dỗ đến con cái và cũng là để tôi kiểm tra, đánh
giá các hành vi đạo đức của các em.
-

Tôi lên kế hoạch mỗi tháng đến thăm nhà 1 học sinh.

Tôi tận dụng triệt để các buổi họp phụ huynh để trao đổi cũng như cho họ
biết được cụ thể về học tập cũng như ý thức đạo đức từng học sinh.( Nếu phụ
huynh nào không đi họp tôi sẽ mời họp vào một buổi khác). Và tôi cùng thống nhất
với phụ huynh học sinh sử dụng điện thoại di động để đảm bảo “thông tin hai
chiều”.
Đối với những học sinh mắc lỗi nghiêm trọng tôi sẽ trao đổi trực tiếp với
phụ huynh để cùng tìm ra biện pháp hợp lí nhất.

25



×