Nâng cao hiệu quản sự dụng lao động Page 1 of 13
NÂNG CAO HIỆU QUẢ SỬ DỤNG LAO ĐỘNG
Tuyển chọn những nhân viên có năng lực, đào tạo và nâng cao trình độ lành nghề cho họ
mới chỉ là những yếu tố quan trọng ban đầu, là điều kiện cần thiết nhưng chưa đủ để bộ máy
quản trị của doanh nghiệp hoạt động có hiệu quả. Nhân viên có năng lực khơng có nghĩa là họ sẽ
làm việc tốt. Từng cá nhân tốt khơng có nghĩa là hoạt động của tập thể doanh nghiệp chắc chắn
làm tốt. Làm thế nào để phát huy được các khả năng tiềm tàng trong mỗi nhân viên và tạo thành
sức mạnh tập thể của doanh nghiệp để đạt được năng suất, chất lượng và hiệu quả cao hơn.
Vấn đề nâng cao hiệu quả sử dụng lao động là khoa học và nghệ thuật của quản trị nhân sự. Các
lý thuyết dưới đây hướng dẫn nhà quản trị hình thành phương pháp kích thích đội ngũ lao động
theo mục tiêu của doanh nghiệp.
I- Thuyết động cơ thúc đẩy và hành vi:
Nghiên cứu động cơ thúc đẩy và hành vi là vấn đề hết sức cần thiết để hiểu bản chất con
người nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng lao động. Nhận thức được tầm quan trọng của yếu tố
con người trong các tổ chức, chúng ta cần phải tìm hiểu về một lý thuyết có thể giúp các nhà
quản trị nhân sự có thể hiểu được hành vi của con người, nhằm hiểu được ngun nhân dẫn đến
hành vi mà còn dự đốn những thay đổi và khống chế hành vi tác động xấu đến hoạt động của
doanh nghiệp.
1. Hành vi:
Hành vi về cơ bản là hoạt động có hướng đích. Hành vi của chúng ta nói chung là do mong
muốn đạt được một mục đích nào đó thúc đẩy. Mỗi cá nhân khơng phải lúc nào cũng hiểu biết
một cách có ý thức mục đích. Tất cả chúng ta đã nhiều lần tự hỏi "Tại sao mình lại làm như thế?"
lý do là hành vi của chúng ta khơng phải lúc nào cũng rõ ràng trong trí óc. Những động cơ thúc
đẩy những kiểu hành vi cá nhân bản năng "cá tính" là hướng tới một tiềm thức với mức độ đáng
kể và vì vậy khơng thể dễ dàng kiểm tra, đánh giá.
Khơng phải lúc nào con người cũng nhận thức được mọi điều họ muốn, do đó nhiều hành
động của con người chịu ảnh hưởng của các động cơ tiềm thức hoặc các nhu cầu. Ðộng cơ của
hầu hết mọi người và kết cấu phức tạp, nhiều lớp và lớn lao. Một phần quan trọng của động cơ
của con người ẩn dưới vẻ bề ngồi, nghĩa là khơng phải ln ln rõ ràng. Nhiều khi chỉ một phần
nhỏ của động cơ của một người là có thể thấy rõ được hoặc chính người đó nhận thức được.
Ðiều đó có thể là do cá nhân thiếu sự nhận thức nội tâm của mình.
Ðơn vị cơ sở của hành vi là hoạt động. Tồn bộ hành vi là một chuỗi hành động. Là con
người chúng ta ln có sự hoạt động như đi bộ, nói chuyện, ăn, ngủ, làm việc... Trong nhiều
Nâng cao hiệu quản sự dụng lao động Page 2 of 13
trường hợp cụ thể chúng ta thường thực hiện nhiều hành động cùng một lúc như nói chuyện
trong khi đi bộ hoặc lái xe đến nơi làm việc. Bất cứ lúc nào chúng ta cũng có thể thay đổi hành
động hoặc tổ hợp hành động và bắt đầu làm việc khác. Ðiều này dẫn đến một vài câu hỏi quan
trọng là: Tại sao chúng ta làm việc này, chứ khơng làm việc khác? Tại sao họ lại thay đổi hành
động. Với tư cách nhà quản trị chúng ta làm thế nào để có thể dự đốn và thậm chí kiểm sốt
được hành động hoặc biết được những hành động gì mà một người có thể thực hiện vào lúc nào
đó. Ðể dự đốn hành vi, các nhà quản trị phải biết động cơ hoặc nhu cầu nào sẽ dẫn đến một
hành động nhất định tại một thời điểm nhất định.
2- Ðộng cơ thúc đẩy:
Con người khơng chỉ khác nhau về khả năng hành động mà còn khác nhau về ý chí hành
động hoặc sự thúc đẩy. Sự thúc đẩy phụ thuộc vào sức mạnh của động cơ. Ðộng cơ đơi khi được
xác định như là nhu cầu, ý muốn, nghị lực hoặc sự thúc đẩy của cá nhân. Ðộng cơ hướng tới
mục đích, cái mục đích có thể là ý thức hoặc chỉ trong tiềm thức.
Ðộng cơ là ngun nhân dẫn đến hành vi, chúng thức tỉnh và duy trì hành động, định hướng
hành vi chung của cá nhân. Thực chất các động cơ hoặc nhu cầu là những yếu tố chính của hành
động. Ðộng cơ và nhu cầu có thể thay thế nhau. Nhu cầu trong trường hợp này khơng liên quan
đến sự khẩn cấp hoặc bất kỳ một sự mong muốn cấp thiết nào về một cái gì đó. Nó chỉ có nghĩa
một cái gì đó trong một cá nhân, thúc đẩy cá nhân đó hành động.
3- Mục đích:
Mục đích là trạng thái mong muốn đạt được là những cái bên ngồi cá nhân. Ðơi khi mục
đích ngụ ý như là hy vọng đạt được phần thưởng mà các động cơ hướng tới. Những mục đích
này được các nhà quản trị gọi là các tác nhân kích thích. Các nhà quản trị thường có những
thành cơng trong việc khuyến khích nhân viên, thường tạo ra một mơi trường có những mục đích
thích hợp (tác nhân kích thích) để thoả mãn nhu cầu. Mục đích là một trạng thái mong muốn của
cá nhân hay tổ chức hướng tới nhằm đạt được.
4- Sức mạnh của động cơ:
Ðộng cơ hoặc nhu cầu là những ngun nhân gây ra hành vi. Mọi cá nhân đều có rất nhiều
nhu cầu. Tất cả các nhu cầu này cạnh tranh với hành vi của họ. Vậy cái gì quyết định động cơ
nào trong số các động cơ của một người nhằm cố gắng thoả mãn thơng qua hành động. Nhu cầu
mạnh nhất tại một thời điểm nhất định sẽ dẫn đến hành động.
Thay đổi sức mạnh động cơ:
Một động cơ có xu hướng yếu đi nếu nó đã được thoả mãn hoặc bị hạn chế sự thoả mãn.
Nâng cao hiệu quản sự dụng lao động Page 3 of 13
1 - Sự thoả mãn nhu cầu:
Theo Maslow khi một nhu cầu được thoả mãn, thì nó khơng còn là yếu tố tạo ra động cơ của
hành vi nữa. Các nhu cầu mạnh đã được đáp ứng coi như đã được thoả mãn, nhu cầu cạnh
tranh khác lúc đó lại trở nên mạnh hơn. Nếu một nhu cầu mạnh là khát nước, thì việc uống nước
sẽ giảm mức cấp thiết của nhu cầu này, và lúc đó các nhu cầu khác lại trở nên quan trọng hơn.
2 - Cản trở việc thoả mãn nhu cầu:
Việc thoả mãn một nhu cầu có thể bị cản trở lại. Ðơi lúc nhu cầu có thể trở nên yếu, xong
khơng phải lúc nào điều đó cũng xảy ra ngay từ đầu mà có thể có xu hướng con người lặp lại
hành vi. Ðây là một cố gắng để vượt qua trở ngại thơng qua việc quyết định vấn đề bằng cách thử
và sửa sai. Người ta có thể thử hành vi khác nhau để tìm ra hành vi có thể thoả mãn mục tiêu
hoặc làm giảm sức ép qua trở ngại. Người ta có thể thử theo một hướng trước khi sang hướng 2
và 3, tại đó đã đạt được mục tiêu mà phần nào đã thành cơng. Nếu vì một lý do nào đó khơng
thành cơng, họ có thể thay đổi mục tiêu, miễn sao mục tiêu đó đảm bảo thoả mãn nhu cầu. Ví dụ,
một học sinh tốt nghiệp PTTH họ có thể thi vào trường đại học chính qui, nếu khơng đỗ họ có thể
thi vào đại học mở rộng hoặc trung cấp.
3 - Sự bất hồ có nhận thức.
Những động cơ bị cản trở và thất bại liên tục trong việc lặp lại hành vi có thể dẫn đến việc
lặp lại hành vi một cách bất hợp lý. Leon Festinger đã phân tích hiện tượng này. Lý thuyết về sự
bất hồ có nhận thức đầu tiên liên quan đến các mối quan hệ tồn tại giữa các nhận thức con
người về chính mình và mơi trường mình đang sống. Khi nhận thức cá nhân khơng có gì chung,
chúng được coi là khơng liên quan với nhau. Nếu sự nhận thức cá nhân này có liên quan đến
nhận thức cá nhân khác chúng được coi là có mối quan hệ hồ hợp. Sự bất hồ xảy ra khi có sự
xung đột giữa hai nhận thức liên quan với nhau. Ðiều gây ra căng thẳng khơng thuận lợi về tâm lý
và làm cho cá nhân đó phải cố gắng thay đổi một trong những hành vi khơng phù hợp để giảm
căng thẳng hoặc sự bất hồ. Thực chất người đó lặp lại hành vi để lấy lại tình trạng hồ hợp hoặc
cân bằng.
4 - Sự vỡ mộng
Ngăn chặn hoặc cản trở việc đạt mục tiêu được coi là sự tạo ra sự vỡ mộng. Hiện tượng
này được xác định về mặt điều kiện cá nhân chứ khơng vì mơi trường bên ngồi. Một người có
thể bị vỡ mộng do một vật cản tưởng tượng và có thể khơng bị vỡ mộng bởi một vật cản thật.
Hành vi lặp lại hợp lý có thể dẫn tới việc hình thành mục tiêu thay đổi hoặc giảm sức mạnh
của nhu cầu. Hành vi phi lý có thể xảy ra dưới một vài hình thức khi bị cản trở việc đạt mục tiêu
vẫn tiếp tục diễn ra và sự vỡ mộng tăng lên. Sự vỡ mộng có thể tăng lên tới mức cá nhân đó có
thể làm một hành vi ngỗ ngược.
Nâng cao hiệu quản sự dụng lao động Page 4 of 13
- Sự ngỗ ngược có thể dẫn tới hành vi phá huỷ như gây ra sự đập phá. Người cơng nhân
tức giận có thể xúc phạm tới người quản trị, có thể làm tổn hại tới cơng việc hoặc thanh danh của
người quản trị, qua hành động của họ.
- Sự lý giải duy lý là đưa ra lý do bào chữa.
- Thối lui là khơng chống lại.
- Tính cố hữu xảy ra khi một người liên tục thực hiện những hành vi tương tự lặp lại mặc dù
kinh nghiệm cho thấy điều đó sẽ khơng đạt được mục đích gì.
- Sự cam chịu hoặc sự hờ hững xảy ra sau khi vỡ mộng kéo dài, người ta mất đi hết hy
vọng đạt được mục đích trong một hồn cảnh đặc biệt và rút lui khỏi sự thật và nguồn gốc gây
cho họ sự vỡ mộng.
Một nhà quản trị nên nhớ rằng sự ngổ ngược, sự lý giải duy lý, thối lui, tính cố hữu và sự
cam chịu đều là những triệu chứng vỡ mộng, là dấu hiệu tồn tại tình trạng vỡ mộng.
5 - Tăng cường sức mạnh của động cơ:
Hành vi có thể bị thay đổi nếu một nhu cầu hiện tại trở nên mạnh tới mức giờ đây trở thành
động lực mạnh. Một nhu cầu có xu hướng mạnh lên hoặc yếu đi theo chu kỳ. Người ta có thể
tăng hoặc trì hỗn tốc độ của mơ hình chu kỳ này bằng cách tác động đến mơi trường. Ví dụ, nhu
cầu thức ăn của một người khơng thể rất mạnh, trừ khi mơi trường hiện thời thay đổi đến mức
người ta nhìn và ngửi thấy mùi thơm của món ăn hấp dẫn.
Con người có một loạt nhu cầu ở bất cứ thời điểm nào, họ có thể đói, khát và mệt mỏi,
nhưng nhu cầu mạnh nhất sẽ quyết định họ phải làm gì.
5. Hành động:
Các hành động xuất hiện do nhu cầu mạnh, có thể phân chia làm hai loại: Hành động hướng
đích và hành động thực hiện mục đích. Những khái niệm này rất quan trọng đối với nhà quản trị
nhân sự vì nó ảnh hưởng đến việc nghiên cứu hành vi của con người.
5.1. Hành động hướng đích:
Là hành vi được hướng vào việc đạt tới mục đích. Nếu nhu cầu có cường độ mạnh nhất tại
một thời điểm là đói, các hành động như tìm chỗ để ăn, mua thức ăn, hay chuẩn bị đồ ăn sẽ được
coi là hành động hướng đích.
5.2. Hành động thực hiện mục đích sẽ diễn ra vì chính mục đích đó.
Nâng cao hiệu quản sự dụng lao động Page 5 of 13
Trong trường hợp đói, thức ăn là mục đích, do đó ăn là hành động của mục đích. Trong
trường hợp đói, thức ăn là mục đích, ăn là hành động của mục đích.
Hành động hướng đích và hành động thực hiện mục đích có sự khác biệt quan trọng ảnh
hưởng tới cường độ nhu cầu. Trong hành động hướng đích, cường độ nhu cầu có xu hướng tăng
khi có một hành động cho tới khi hành vi mục đích đạt được hoặc tan vỡ. Sự vỡ mộng tăng khi
việc phấn đấu đạt mục đích liên tục bị cản trở. Nếu sự vỡ mộng đủ mạnh, cường độ của nhu cầu
đối với mục đích đó có thể giảm cho tới khi khơng đủ sức để gây ảnh hưởng tới hành vi nữa, lúc
đó người ta sẽ từ bỏ nhu cầu đó.
Cường độ của nhu cầu có xu hướng ngày càng tăng khi người ta thực hiện hành động
hướng đích. Hành động thực hiện mục đích bắt đầu, cường độ nhu cầu giảm xuống khi người ta
thực hiện hành động đó. Ví dụ, khi một người ăn ngày càng nhiều, cường độ nhu cầu thức ăn sẽ
giảm xuống trong thời gian cụ thể đó. Tại điểm này khi nhu cầu khác trở nên mạnh hơn nhu cầu
hiện tại, hành vi sẽ thay đổi. Ví dụ, để chuẩn bị buổi ăn trưa, thức ăn phải được chuẩn bị từ buổi
sáng (hành động hướng đích), nhu cầu ăn tăng lên đến mức hầu như khơng để đợi tới khi bữa ăn
được dọn lên bàn. Khi chúng ta bắt đầu ăn (hành động thực hiện mục đích), cường độ nhu cầu
này giảm bớt tới mức nhu cầu khác trở nên quan trọng hơn. Khi chúng ta rời khỏi bàn, nhu cầu
ăn đã hồn tồn được thoả mãn. Hành động của chúng ta chuyển sang nhu cầu khác như uống
nước, ngủ trưa hay nghe một bản nhạc trước khi đi ngủ. Nên nhớ rằng chúng ta khơng bao giờ
thoả mãn hồn tồn một nhu cầu, chúng ta chỉ thoả mãn nhu cầu đó trong một thời gian nhất
định.
6 - Tình huống thúc đẩy:
Tình huống thúc đẩy trong đó các động cơ của một cá nhân hướng tới việc đạt được mục đích.
Ðộng cơ cao nhất đã tạo ra hành vi, hành vi này hoặc là hành động hướng đích hoặc là hành
động thực hiện mục đích. Vì khơng thể nào đạt được tất cả các mục đích, các cá nhân khơng phải
lúc nào cũng đạt tới hành động thực hiện mục đích, dù có động cơ mạnh.
Các nhà quản trị nhân sự ln nhớ rằng, nếu muốn gây ảnh hưởng đến hành vi của một
người khác, trước hết phải hiểu động cơ hoặc nhu cầu gì là quan trọng nhất đối với người đó vào
lúc đó. Một mục đích có hiệu lực phải phù hợp với cấu trúc nhu cầu mà người đó có liên quan.
Vấn đề cần quan tâm là nên thực hiện hành động hướng đích hay hành động thực hiện mục đích.
Nếu người ta có các hành động hướng đích q lâu, sự vỡ mộng sẽ xuất hiện tới mức người đó
có thể từ bỏ hoặc có những hành động vơ lý khác. Mặt khác, nếu một người chỉ có hành động
thực hiện mục đích và mục đích đó khơng thay đổi thì sự thích thú sẽ mất đi và tính lạnh nhạt sẽ
tăng lên cùng với xu hướng giảm động cơ thúc đẩy. Một kiểu hành vi thích hợp và có kết quả hơn
có thể là thực hiện tuần hồn liên tục hành động hướng đích và hành động thực hiện mục đích.
Một mục đích thích hợp cho một cơng nhân mới được làm việc và khơng có ý nghĩa đối với người
cơng nhân đã làm việc được 1 năm và lâu năm.