LỜI CẢM ƠN
Trong suốt q trình học tập và hồn thành khóa luận này, tơi đã nhận được sự
hướng dẫn, giúp đỡ quý báu của quý thầy cô, bạn bè, người thân và đồng nghiệp.
Với lịng kính trọng và biết ơn sâu sắc, tơi xin được bày tỏ lịng cảm ơn tới
ThS.Phạm Thị Yến, người đã tận tâm hướng dẫn, chỉ bảo và giúp đỡ tơi trong suốt q
trình học tập và thực hiện đề tài.
Xin chân thành bày tỏ lòng biết ơn chân thành tới Ban Giám Hiệu, các GV cùng
các cháu Trường Mầm Non Hoa Hồng đã hợp tác và tận tình giúp đỡ tơi trong suốt q
trình nghiên cứu đề tài.
Tôi xin gửi lời cảm ơn tới Ban Giám Hiệu, Khoa Sư Phạm Trường Đại học
Quảng Bình đã động viên, khích lệ tơi khơng ngừng nổ lực phấn đấu hồn thành cơng
việc của một sinh viên đi học.
Cuối cùng, tôi xin cảm ơn những người thân yêu trong gia đình, bạn bè đã tạo
mọi điều kiện tốt nhất cũng như đặt sự kỳ vọng vào tôi.
Mặc dù đã có nhiều cố gắng, song khơng thể tránh khỏi những thiếu sót nhất
định. Kính mong nhận được ý kiến đóng góp của Hội đồng thẩm định để khóa luận
ngày càng hoàn thiện hơn.
Xin chân thành cảm ơn!
Đồng Hới, tháng 05/ 2020
Tác giả
Trương Thị Hương Giang
i
LỜI CAM ĐOAN
Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu của riêng tôi.
Các số liệu, kết quả nêu trong đề tài là trung thực và chưa từng được ai cơng bố
trong bất kì đề tài nào khác.
Tác giả khóa luận
Trương Thị Hương Giang
ii
MỤC LỤC
3.4.3. Phân tích ý kiến đánh giá của các cán bộ quản lý chuyên môn và GV tham gia TN.................65
MỘT SỐ HÌNH ẢNH TRONG QUÁ TRÌNH TN......................................................87
iii
KÍ HIỆU CÁC CHỮ VIẾT TẮT TRONG KHĨA LUẬN
TT
1
2
3
4
5
6
7
8
9
CHỮ VIẾT TẮT
KPMTXH
GV
MTXH
MG
GVMN
TTCNT
GDMN
MTXQ
ĐC
CHỮ VIẾT ĐẦY ĐỦ
Khám phá môi trường xã hội
Giáo viên
Môi trường xã hội
Mẫu giáo
Giáo viên mầm non
Tính tích cực nhận thức
Giáo dục mầm non
Môi trường xung quanh
Đối chứng
10
TN
Thử nghiệm
iv
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
1.1. Nước ta đang bước vào một giai đoạn phát triển mới - giai đoạn đẩy mạnh
cơng nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước nhằm xây dựng nước ta thành một nước dân
giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ và văn minh, vững chắc đi lên xã hội chủ
nghĩa. Để hoàn thành nhiệm vụ đó trong điều kiện đất nước cịn nghèo, chúng ta phải
phát triển mạnh giáo dục và đào tạo, phát huy nguồn lực con người. Nghị quyết Hội
nghị lần thứ VIII BCH TW Đảng (khóa XI) đã quyết định phương hướng chiến lược
phát triển giáo dục - đào tạo trong thời kỳ mới là “Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ phương
pháp dạy và học theo hướng hiện đại; phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo và vận
dụng kiến thức, kỹ năng của người học; …Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin và
truyền thông trong dạy và học”. Như vậy tính tích cực nói chung, tính tính cực nhận
thức (TTCNT) của cá nhân nói riêng được coi như là một phẩm chất quan trọng của
nhân cách trong giai đoạn hiện nay.
1.2. TTCNT có thể và cần hình thành từ lứa tuổi nhỏ, đặc biệt ở lứa tuổi MG 5 6 tuổi. Trẻ MG 5 - 6 tuổi trong cuộc sống hàng ngày, trong học tập, vui chơi, lao động
và giao tiếp với người lớn, với bạn bè đã có những biểu hiện TTCNT. Điều đó thể hiện
ở tính tích cực, chủ động tham gia hoạt động, tích cực tìm hiểu nhận thức thế giới
xung quanh, ở nhu cầu muốn xem xét mọi vật, ở việc luôn đặt ra câu hỏi cho mọi
người… Đây là phẩm chất đáng quý và cần thiết cho sự phát triển tư duy, sáng tạo và
năng lực nhận thức sau này của trẻ, đặc biệt đối với trẻ MG 5 - 6 tuổi việc phát triển
TTCNT cịn góp phần làm tốt cơng tác chuẩn bị cho trẻ bước vào trường phổ thông,
nơi mà hoạt động học tập là hoạt động chủ đạo. Chính vì vậy, trường mầm non cần
quan tâm đúng mức việc phát huy TTCNT của trẻ MG nói chung, MG 5 - 6 tuổi nói
riêng để đáp ứng một phần yêu cầu bức thiết của xã hội mới đòi hỏi việc chuẩn bị
người lao động sáng tạo.
1.3. Khám phá môi trường xã hội (MTXH) là một trong những nội dung cơ bản,
chiếm vị trí quan trọng trong chương trình chăm sóc - giáo dục trẻ. Việc tổ chức cho
trẻ tích cực khám phá, tìm hiểu MTXH sẽ giúp hình thành, củng cố và phát triển
những tri thức sơ đẳng về xã hội xung quanh trẻ, nhằm thỏa mãn nhu cầu nhận thức và
mở rộng tầm hiểu biết cho trẻ về thế giới; phát triển các quá trình tâm lý nhận thức
(như cảm giác, tri giác, tư duy, tưởng tượng…), phát triển ngơn ngữ. Từ đó, giáo dục
1
cho trẻ có thái độ ứng xử đúng đắn đối với mọi người theo tinh thần của lịng nhân ái,
tình yêu đối với cái đẹp và thái độ tôn trọng, bước đầu biết sống có văn hóa.
1.4. Trong những năm gần đây, trong xu thế đổi mới giáo dục, dạy học của các
cấp học, bậc học mầm non cũng không ngừng đổi mới. Tuy nhiên, trên thực tế quá
trình chăm sóc - giáo dục trẻ nói chung, q trình KPMTXH của trẻ MG 5 - 6 tuổi nói
riêng cịn bộc lộ nhiều hạn chế, như việc lựa chọn nội dung KPMTXH chưa xuất phát
từ vốn kinh nghiệm, nhu cầu, nguyện vọng, sở thích của trẻ; việc lựa chọn sử dụng các
phương pháp cịn mang tính cứng nhắc, rập khn; hình thức tổ chức đơn điệu, mang
tính đồng loạt, chưa chú ý đến đặc điểm cá nhân trẻ; phương thức dạy học độc đáo đối
với trẻ MG (học bằng chơi, chơi mà học) chưa được áp dụng một cách triệt để. Do đó
chưa phát huy được tính tích cực, chủ động của trẻ.
Về lý luận, đã có một số cơng trình nghiên cứu về TTCNT của trẻ, song chưa có
cơng trình nào nghiên cứu một cách dài hạn và có hệ thống về các biện pháp phát huy
TTCNT của trẻ MG 5 - 6 tuổi trong quá trình KPMTXH.
Xuất phát từ những lý do trên, chúng tôi chọn đề tài nghiên cứu: “Các biện pháp
tích cực hóa hoạt động nhận thức của trẻ mẫu giáo 5 - 6 tuổi trong quá trình khám
phá mơi trường xã hội”.
2. Mục đích nghiên cứu
Xây dựng và TN các biện pháp nhằm tích cực hóa hoạt động nhận thức của trẻ
MG 5 - 6 tuổi trong q trình khám phá MTXH. Góp phần phát triển TTCNT và nâng
cao chất lượng chăm sóc - giáo dục trẻ ở trường mầm non.
3. Khách thể và đối tượng nghiên cứu
* Khách thể nghiên cứu
Qúa trình giáo dục TTCNT cho trẻ MG trong hoạt động KPMTXH
* Đối tượng nghiên cứu
Quá trình tổ chức cho trẻ MG 5 - 6 tuổi KPMTXH
4. Giả thuyết khoa học
Có thể tích cực hóa hoạt động nhận thức của trẻ MG 5 - 6 tuổi trong quá trình
KPMTXH, nếu xây dựng và sử dụng một cách đồng bộ, linh hoạt các biện pháp dựa
trên hứng thú, vốn kinh nghiệm sống, kinh nghiệm nhận thức của trẻ, tạo ra những tình
huống sinh động, hấp dẫn, phù hợp với chủ đề, tăng cường sử dụng yếu tố chơi và trị
chơi, khuyến khích trẻ hoạt động khám phá, trải nghiệm một cách đa dạng.
2
5. Nhiệm vụ nghiên cứu
Đề tài tập trung nghiên cứu các nhiệm vụ sau:
- Nghiên cứu cơ sở lý luận của biện pháp phát huy TTCNT của trẻ MG nói chung
và trẻ MG 5 - 6 tuổi trong quá trình KPMTXH nói riêng.
- Điều tra thực trạng việc sử dụng biện pháp nhằm phát triển TTCNT cho trẻ MG
5 - 6 tuổi trong hoạt động KPMTXH.
- Đề xuất các biện pháp tổ chức q trình KPMTXH nhằm tích cực hóa TTCNT
của trẻ MG 5 - 6 tuổi.
- Tổ chức TN sư phạm nhằm kiểm nghiệm, đánh giá tính khả thi của các biện
pháp và kiểm chứng giả thuyết khoa học mà đề tài đã đề ra.
6. Giới hạn và phạm vi nghiên cứu
6.1. Giới hạn về khách thể nghiên cứu
Đề tài được thực hiện nghiên cứu trên 60 trẻ MG 5 - 6 tuổi và 20 GV ở trường
mầm non Hoa Hồng, Đồng Hới, Quảng Bình.
6.2. Giới hạn về nội dung nghiên cứu
Nghiên cứu mức độ hình thành và phát triển TTCNT của trẻ MG 5 - 6 tuổi và
biểu hiện TTCNT của trẻ qua việc tổ chức, sử dụng các biện pháp tích cực hóa hoạt
động nhận thức trong hoạt động KPMTXH.
6.3. Giới hạn về thời gian nghiên cứu
Đề tài được tiến hành nghiên cứu từ tháng 12/2019 - 5/2020
7. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài được thực hiện với sự phối hợp các phương pháp nghiên cứu sau:
7.1. Nhóm phương pháp nghiên cứu lý luận
Phân tích, so sánh, tổng hợp, khái quát hóa, hệ thống hóa những nguồn tài liệu
liên quan đến đề tài nghiên cứu.
7.2. Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn
7.2.1. Phương pháp quan sát
- Quan sát biểu hiện TTCNT của trẻ ra bên ngoài khi trẻ thực hiện các hoạt
động trong giờ học.
- Dự giờ, đánh giá các bài học mà GVMN cho trẻ thực hiện các hoạt động trong
giờ học.
7.2.2. Phương pháp đàm thoại
- Trao đổi với GV về các biện pháp phát triển cho trẻ MG trong hoạt động
KPMTXH.
3
- Trò chuyện với trẻ MG 5 - 6 tuổi qua các hoạt động hằng ngày để tìm hiểu mức
độ nhận thức cũng như TTCNT của trẻ trong hoạt động giáo dục.
7.2.3. Phương pháp điều tra bằng anket
Nhằm thu thập các thông tin về thực trạng sử dụng biện pháp phát huy TTCNT
trong hoạt động KPMTXH ở trường mầm non, từ đó đánh giá thực trạng và làm cơ sở
thực tiễn cho việc nghiên cứu, lựa chọn các biện pháp giúp trẻ phát triển TTCNT.
7.2.4. Phương pháp tổng kết kinh nghiệm
Dự giờ, trao đổi với các GV nhằm thu thập những kinh nghiệm quý báu của các
nhà chuyên môn về các biện pháp phát triển TTCNT cho trẻ để đưa ra kết luận chính
xác và khoa học, rút ra bài học cho bản thân.
7.2.5. Phương pháp nghiên cứu sản phẩm hoạt động của trẻ
- Nghiên cứu giáo án và giờ dạy của GV nhằm tìm hiểu việc tổ chức dạy học và
việc phát triển TTCNT cho trẻ ở trường hiện nay.
- Nghiên cứu các sản phẩm của trẻ nhằm biết được mức độ phát triển TTCNT
của trẻ.
7.2.6. Phương pháp TN sư phạm
Bước đầu TN các biện pháp đã lựa chọn nhằm đánh giá hiệu quả thực tiễn của
các biện pháp đó đối với sự phát triển TTCNT của trẻ MG 5 - 6 tuổi trong hoạt động
KPMTXH.
7.2.7. Phương pháp thống kê tốn học
Sử dụng một số cơng thức tốn học để xử lý các số liệu thu được từ khảo sát thực
trạng và TN.
8. Những đóng góp của đề tài
- Làm rõ một số khái niệm công cụ của đề tài và quan điểm lý luận định hướng
cho việc xây dựng các biện pháp phát huy TTCNT, xây dựng tiêu chí và cơng cụ đánh
giá TTCNT của trẻ MG 5 - 6 tuổi trong quá trình KPMTXH.
- Đánh giá được thực trạng việc tổ chức quá trình KPMTXH cho trẻ MG 5 - 6
tuổi, phân tích được những mặt tích cực và hạn chế của thực trạng này đối với việc
phát huy TTCNT của trẻ MG 5 - 6 tuổi.
- Đề xuất 4 biện pháp nhằm phát huy TTCNT của trẻ MG 5 - 6 tuổi trong quá
trình KPMTXH: Lựa chọn nội dung khám phá phù hợp với yêu cầu giáo dục, hứng thú
và kinh nghiệm của trẻ; Tạo ra các tình huống có vấn đề, có ý nghĩa đối với trẻ, kích
thích trẻ suy nghĩ và tìm kiếm phương thức giải quyết; Tạo điều kiện để trẻ tự khám
phá, trải nghiệm; Tăng cường sử dụng yếu tố chơi và trị chơi vào trong q trình
khám phá.
4
9. Cấu trúc của khóa luận
Mở đầu
Nội dung
Chương 1: Cơ sở lý luận của việc xây dựng các biện pháp nhằm tích cực hóa
hoạt động nhận thức của trẻ MG 5 - 6 tuổi trong quá trình KPMTXH
Chương 2: Cơ sở thực tiễn của việc xây dựng các biện pháp nhằm tích cực hóa
hoạt động nhận thức của trẻ MG 5 - 6 tuổi trong quá trình KPMTXH
Chương 3: Các biện pháp tích cực hóa hoạt động nhận thức cho trẻ MG 5 - 6
tuổi trong quá trình KPMTXH và kết quả TN sư phạm.
Kết luận và kiến nghị
5
CHƯƠNG 1:
CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VIỆC XÂY DỰNG
CÁC BIỆN PHÁP NHẰM TÍCH CỰC HĨA HOẠT ĐỘNG NHÂN THỨC
CỦA TRẺ MẪU GIÁO 5 - 6 TUỔI TRONG QUÁ TRÌNH
KHÁM PHÁ MÔI TRƯỜNG XÃ HỘI
1.1. Lịch sử vấn đề nghiên cứu
Vấn đề phát huy TTCNT của học sinh không phải là vấn đề mới nhưng nó ln
là một trong những vấn đề cấp thiết của việc cải tiến, đổi mới, nâng cao chất lượng dạy
học trong mọi giai đoạn phát triển của nền giáo dục Việt Nam và thế giới. Qua nghiên
cứu tổng quan các cơng trình nghiên cứu trong và ngồi nước có thể rút ra một số nhận
xét cơ bản dưới đây.
1.1.1. Về vấn đề phát huy TTCNT của người học nói chung
* Trên thế giới
Ở nhiều nước trên thế giới, từ thời cổ đại cho đến thời kỳ cận đại đã có nhiều nhà
giáo dục phương Đơng cũng như phương Tây quan tâm tới vấn đề phát triển TTCNT
của người học như Xôcrat, Khổng Tử, Francis Bacon, John Lock, J. A. Comenxki,…
Sang thế kỷ 20, các giải pháp phát huy TTCNT được phát triển hết sức đa dạng.
Đặc biệt từ những thập niên 60 của thế kỉ 20 trở lại đây đã có nhiều cơng trình nghiên
cứu phương hướng, biện pháp phát huy TTCNT của học sinh trong q trình dạy học.
Theo L.C.Vưgơtxki - nội dung dạy học phải nằm trong “vùng phát triển gần nhất” của
học sinh thì mới tạo ra hứng thú, kích thích tính tích cực học tập của học sinh. Ngoài
việc nội dung dạy học phải mới ra, trong quá trình dạy học, GV cần phải biết làm cho
nội dung dạy học có tính thực tiễn, gần gũi với sinh hoạt, suy nghĩ hằng ngày, thỏa
mãn nhu cầu nhận thức của học sinh. Có như vậy, nội dung dạy học mới có khả năng
lơi kéo, thúc đẩy người học tìm hiểu những điều mới lạ trong mỗi tiết học.
Xuất phát từ quan niệm coi tính tích cực là trạng thái hoạt động của chủ thể nên
Kharlamôv [12] và Muraviev A.V [17] nêu một số thủ thuật kích thích xúc cảm và thái
độ học tập của học sinh như sử dụng tài liệu mới lạ và mâu thuẫn với cái đã biết, dùng
thái độ vui và hấp dẫn của GV, sử dụng mâu thuẫn nhận thức và giúp học sinh tự giải
quyết nó. Một số phương pháp dạy học truyền thống cũng có tác dụng phát huy
TTCNT của học sinh nếu thay đổi thủ thuật tiến hành như làm tăng cường tính trực
6
quan, sử dụng các phương tiện dạy học hiện đại, sử dụng ngữ điệu, cử chỉ, nét mặt tạo
nên trạng thái cao trào trong khi thuyết trình hoặc sử dụng các câu hỏi yêu cầu so sánh,
đối chiếu.
Một biện pháp nữa để phát huy tính tích cực tư duy, tích cực học tập của học sinh
được nhiều nhà giáo dục bàn đến là tăng cường hoạt động tự lực của học sinh trong
việc tìm kiếm thơng tin thơng qua sách vở, báo chí, qua các phương tiện kĩ thuật hiện
đại như Internet… Theo các tác giả N.Iu. Sôcôlôva, G. I. Sukina, GV có thể giao
nhiệm vụ cho học sinh để họ tự tìm kiếm thơng tin, sau đó trình bày lại theo cách hiểu
của mình.
Ngày nay, dạy học được tổ chức dưới nhiều hình thức khác nhau như hình thức
lên lớp (tiết học, giờ học), hình thức thảo luận, hình thức tham quan dã ngoại, hình
thức tự học, … Dạy học được tổ chức với cả lớp, theo nhóm nhỏ hoặc cho từng cá
nhân, các hình thức dạy học ngày càng được hồn thiện hơn. Tuy nhiên hình thức lên
lớp (giờ học) vẫn ln là hình thức dạy học cơ bản nhất. Vì vậy, phải hồn thiện hình
thức này như thế nào để phát huy TTCNT của học sinh đã được nhiều tác giả bàn đến.
Việc phân hóa và cá nhân hóa dạy học nhằm tổ chức q trình dạy học ngày càng
xích dần với mơ hình lĩnh hội cá nhân đang là một xu hướng dạy học mới được hình
thành và phát triển trong nhiều hệ thống nổi tiếng ở Anh, Mỹ, Đức, Liên Xô trước đây.
Theo I. F. Kharlamôv [12] cần đối xử riêng với từng loại học sinh nhằm kích thích tính
tích cực học tập, cần giúp đỡ cá nhân kết hợp với kiểm tra hàng ngày.
* Ở Việt Nam
- Vấn đề phát huy tính tích cực, tự lực, chủ động của học sinh nói chung,
TTCNT nói riêng được đặt ra trong ngành giáo dục từ những năm 60 của thế kỷ XX.
Khẩu hiệu “biến quá trình đào tạo thành quá trình tự đào tạo” cũng đi vào các trường
sư phạm từ thời điểm đó.
Sau 1990, giáo dục Việt Nam được đổi mới, đông đảo các nhà lãnh đạo Đảng,
Nhà nước, cán bộ quản lý giáo dục và GV rất quan tâm đến việc cải tiến nội dung,
phương pháp dạy học. Nhiều vấn đề được đặt ra xem xét, một trong những vấn đề đó
là khẳng định lại vai trò của người học. Tư tưởng dạy học lấy học sinh làm trung tâm
(dạy học hướng vào người học) được nhiều nhà giáo dục bàn tới. Nhiều công trình
nghiên cứu các phương pháp, biện pháp dạy học nhằm phát huy TTCNT của học sinh.
Có thể kể đến các cơng trình của các tác giả: Hà Thế Ngữ, Đặng Vũ Hoạt [19],
7
Nguyễn Ngọc Quang [22], Thái Duy Tuyên [26], Nguyễn Kỳ [16], Nguyễn Ngọc Bảo
[2] và nhiều người khác, …
Theo tác giả Đặng Vũ Hoạt [8] và Thái Duy Tuyên [26], để phát huy TTCNT của
học sinh, trong quá trình lên lớp thầy giáo phải cải tiến nội dung dạy học sao cho nội
dung đó ln phải chứa đựng cái mới, cái hiện đại; nội dung phải gần gũi với đời sống
sinh hoạt của học sinh, và phải phân hóa nội dung cho phù hợp với đối tượng.
Bên cạnh đó, các tác giả Nguyễn Kỳ [16], Trần Kiều [14], … cũng cho rằng cần
phải hiện đại hóa phương pháp dạy học, sáng tạo ra những phương pháp dạy học mới
và cải tạo các phương pháp dạy học truyền thống nhằm phát huy TTCNT của học sinh.
Xuất phát từ ưu nhược điểm của các phương pháp, từ đặc điểm lứa tuổi học sinh, tác
giả Thái Duy Tuyên [26] cho rằng, để phát huy TTCNT của học sinh cần phải dùng
các phương pháp đa dạng và phải phối hợp chúng lại với nhau; sử dụng các phương
tiện dạy học trực quan, đặc biệt ở các lớp nhỏ, để kích thích hứng thú của trẻ; kích
thích tính tích cực của học sinh qua thái độ, cách ứng xử giữa thầy giáo và học sinh.
Tổ chức giờ học phân hóa theo nhịp độ lĩnh hội là một hướng đổi mới phương
pháp dạy học được tác giả Đặng Thành Hưng [9] cùng cộng sự TN nhằm nâng cao khả
năng thích ứng học tập của học sinh. Ngồi ra, trong các cơng trình của mình, ơng
cũng đã nêu ra một số giải pháp tích cực hóa hoạt động nhận thức của học sinh như
phương pháp Curriculum, giải pháp về phương pháp, phương tiện dạy học, giải pháp
về học chế và những quan hệ sư phạm.
Ngồi những cơng trình nghiên cứu của các nhà khoa học giáo dục, trong những
năm gần đây đã có nhiều luận án tiến sĩ, khóa luận thạc sĩ nghiên cứu về vấn đề tích
cực hóa hoạt động nhận thức của học sinh, sinh viên được bảo vệ thành công trong
nước. Tiêu biểu là các luận án tiến sĩ của các tác giả Phạm Duy Khiêm [13], Ngô Thị
Thu Dung [4], Thái Văn Thành [23], Nguyễn Thị Hường [11], Đào Quốc Trị [25], …
Theo tác giả Đào Quốc Trị [25], có thể phát huy được TTCNT và nâng cao chất
lượng học tập của sinh viên các trường kỹ thuật quân sự nếu sử dụng các biện pháp: tổ
chức giờ học trên lớp theo quan điểm học tập hợp tác; tổ chức quá trình học tập bằng
các bài TN có cấu trúc mở (hay TN sáng tạo); tổ chức cho sinh viên kiểm tra và tự
kiểm tra tri thức bằng kỹ thuật test trên mạng máy tính.
Trên cơ sở phân tích các mối liên hệ phụ thuộc của việc nâng cao tính tích cực
học tập trong giờ học, các tác giả Ngô Thị Thu Dung [4], Thái Văn Thành [23] cho
8
rằng, với học sinh tiểu học chúng ta có thể phát huy TTCNT của các em theo các
phương hướng:
- Phân hóa các yếu tố của q trình dạy học dựa trên đặc điểm tâm lý nhận thức
của học sinh tiểu học.
- Hình thành và duy trì cảm xúc học tập tích cực của học sinh trong suốt giờ học.
Ngồi hai phương hướng trên, tác giả Thái Văn Thành [23] còn cho rằng có thể
nâng cao TTCNT của học sinh tiểu học nếu chúng ta sử dụng các phương tiện kỹ thuật
hiện đại như các phương tiện nghe - nhìn và máy tính điện tử. Cũng vì vậy mà tác giả
đã đưa ra các phương pháp sử dụng phần mềm dạy học theo hướng tích cực hóa q
trình nhận thức của học sinh trong q trình dạy học.
Như vậy có thể nói rằng, vấn đề phát huy TTCNT của học sinh nói chung đã
được nhiều nhà giáo dục trên thế giới và ở Việt Nam quan tâm nghiên cứu và áp dụng.
Còn đối với GDMN, vấn đề phát huy TTCNT của trẻ đã được nghiên cứu như thế nào
và đạt được ở mức độ nào, chúng tôi xin bàn đến ở mục sau
1.1.2. Vấn đề phát huy TTCNT của trẻ MG
* Ở nước ngoài
Vấn đề phát huy TTCNT của trẻ MG đã được nhiều nhà tâm lý học, giáo dục học
trên thế giới đề cập đến trong các cơng trình nghiên cứu của mình theo các khía cạnh
sau:
Thứ nhất, nghiên cứu tiềm năng phát triển trí tuệ và năng lực hoạt động trí tuệ
của trẻ mẫu giáo (A.N.Lêơnchiev, A. V. Dapơrơgiets, Đ. B. Êncônhin); Nghiên cứu
về bản chất TTCNT của trẻ MG và một số dấu hiệu nhận biết TTCNT của trẻ MG
trong hoạt động ( A. A. Liublinxkaia, N. P. Xaculina…)
Thứ hai, nghiên cứu về các biện pháp nhằm phát huy TTCNT của trẻ MG trong
các lĩnh vực hoạt động, trong đó có KPMTXH. Cụ thể có những biện pháp sau:
- Về nội dung: một số tác giả như Marjory A. E [30], Marilyn Fleer (Australia)
[31] , các nhà giáo dục học mẫu giáo NewZeland cho rằng để phát huy TTCNT của
trẻ, nội dung kiến thức đưa ra cho trẻ phải hấp dẫn, phù hợp với nhu cầu, sở thích và
vốn kinh nghiệm của trẻ.
- Về phương pháp: tổ chức hoạt động dạy học nhằm phát huy TTCNT của trẻ
MG, một số nhà giáo dục Anh, Mỹ, Úc, New Zealand như Fontana, Stenhouse,
Marilyn Fleer [31], Marjory A. E. [30].., cho rằng để phát huy tính tích cực của trẻ
9
trong quá trình học tập phải hiểu trẻ học như thế nào. Theo họ, trẻ học tích cực khi nó
cảm thấy thích thú, trẻ học tích cực nhất, tốt nhất là bằng con đường khám phá thông
qua các giác quan, bằng con đường hoạt động thực hành, trải nghiệm. Vai trị của
người GV là tạo cơ hội, tạo tình huống, tạo mơi trường thuận lợi để trẻ trải nghiệm tích
cực, đồng thời GV cần biết khuyến khích động viên trẻ kịp thời, thể hiên sự tôn trọng
và thái độ chấp nhận đối với những suy nghĩ, những ý tưởng, những câu trả lời của trẻ
cho dù câu trả lời chưa thật chính xác và hồn hảo, khơng nên để cho trẻ cảm nhận
chúng đang bị xem xét, đánh giá.
- Nhiều nhà giáo dục Anh, Mỹ, Australia như Nancy – Jo Hereford và Jane Schall
[32], Marilyn Fleer, Tim Hardy [31]... cũng đã nhấn mạnh đến việc tăng cường sử
dụng các câu hỏi mở (open question), tình huống mở (open situations), hoạt động mở
(open activities) như một biện pháp phát huy TTCNT của trẻ
- Phương pháp dùng trò chơi là một phương pháp dạy học độc đáo ở MG cũng
được các nhà giáo dục Anh, Mỹ, Nga, Úc vận dụng nhằm giúp trẻ tích cực nhận thức.
Cịn V. A Verechenhicơva (Nga) thì cho rằng để phát huy TTCNT của trẻ trong
quá trình tổ chức cho trẻ quan sát, cô giáo cần sử dụng thêm các biện pháp hỗ trợ như
tình huống chơi, hành động thực hành và đặc biệt là biện pháp so sánh qua đó có thể
làm cho trẻ tích cực thực hiện các thao tác tư duy như phân tích, tổng hợp, so sánh…
Nhà giáo dục Xô Viết nổi tiếng Potđiacốp [21] đã chứng minh rằng, những hình
thức dạy học nêu vấn đề đơn giản đã phù hợp đối với trẻ MG 5 - 6 tuổi và có thể được
sử dụng như một trong những biện pháp để kích thích tính tích cực tư duy của trẻ.
Vấn đề cá nhân hố, phân hố trong q trình giáo dục, dạy trẻ cũng được nhiều
nhà khoa học như Ia. I. Kôvalchue (Nga), Marilyn F. và Tim H. (Australia), Barbara B.
(Mỹ) đề cập đến. Ia. I. Kơvalchuc chia trẻ thành 5 nhóm theo đặc điểm tâm lý, nhận
thức và tác giả đưa ra cách tác động với từng nhóm trẻ nhằm đảm bảo phát huy tính
tích cực của tất cả các trẻ, từ đó nâng cao hiệu quả của giờ học, Hình thức học theo
nhóm được nhiều nhà giáo dục MG Anh, Mỹ, Australia sử dụng. Tuy nhiên, họ lại
không nêu cách phân nhóm trẻ như thế nào để có thể phát huy TTCNT của tất cả các
trẻ.
* Ở Việt Nam
Trong những năm gần đây đã bắt đầu có một số nhà tâm lý học, giáo dục học
mẫu giáo như Đào Thanh Âm [1], Trịnh Dân [3], Lê Thanh Thủy [24], Ngô Công
10
Hồn [7], Ngơ Hiệu [5], Nguyễn Thị Hịa [6], … bàn đến vấn đề phát huy TTCNT
trong các cơng trình nghiên cứu của mình.
Các tác giả đề cập đến vấn đề phát huy TTCNT của trẻ MG theo những khía cạnh
sau:
Thứ nhất là, Nêu lên bản chất và tiêu chí đánh giá TTCNT của trẻ MG 5 - 6 tuổi
(Nguyễn Thị Hịa, Ngơ Hiệu) mối liên hệ giữa TTCNT và tự sáng tạo trong hoạt động
tạo hình (Lê Thanh Thủy).
Thứ hai, tìm ra các biện pháp nhằm phát huy TTCNT của trẻ trong các hoạt động
học tập, vui chơi… Tác giả Ngô Hiệu [5] đã chỉ ra một số biện pháp nhằm nâng cao
TTCNT của trẻ trên tiết học như tổ chức cho trẻ làm thí nghiệm, sử dụng trị chơi…
Xuất phát từ quan điểm “trẻ học bằng chơi, chơi mà học” các tác giả Ngơ Cơng Hồn
[7], Đinh Văn Vang [29] đã thiết kế các tiết học - trò chơi, qua đó chứng minh hình
thức dạy học thơng qua vui chơi là phù hợp với trẻ và có tác dụng làm tăng hứng thú
nhận thức, phát huy TTCNT của trẻ. Cịn tác giả Trịnh Dân đã đề xuất mơ hình dạy
học lấy trẻ làm trung tâm, trong đó tác giả đề xuất việc sử dụng kiểu dạy học nêu vấn
đề phương pháp dạy học trực quan và thực tiễn nhằm nâng cao chất lượng dạy học ở
MG.
Với quan điểm cho rằng, trị chơi học tập là phương tiện hình thành và phát triển
TTCNT có hiệu quả đối với trẻ 5 - 6 tuổi, tác giả Nguyễn Thị Hòa [6] đã đưa ra 7 biện
pháp tổ chức trò chơi học tập nhằm phát huy TTCNT của trẻ 5 - 6 tuổi như biện pháp
lập kế hoạch tổ chức cho trẻ chơi, xây dựng mơi trường chơi mang tính phát triển, sử
dụng kết hợp biện pháp dùng lời với biện pháp trực quan và biện pháp thực hành trong
quá trình tổ chức cho trẻ chơi, tạo ra tình huống chơi mang tính có vấn đề, tổ chức cho
trẻ được chơi - luyện tập có sự hướng dẫn của cơ dưới nhiều hình thức khác nhau (chơi
cá nhân, chơi theo nhóm, tập thể), cho trẻ được tự tổ chức chơi luyện tập, kiểm tra,
đánh giá kết quả chơi.
Tóm lại, qua nghiên cứu các cơng trình của các nhà khoa học trong và ngồi
nước, chúng tơi nhận thấy vấn đề phát huy TTCNT của học sinh nói chung, của trẻ lớp
MG 5 - 6 tuổi nói riêng là một vấn đề quan trọng và cần thiết. Ở độ tuổi 5 - 6, việc
phát huy TTCNT của trẻ trong các hoạt động có ý nghĩa to lớn đối với sự hình thành
và phát triển nhân cách và góp phần chuẩn bị cho trẻ vào học tiểu học được tốt. Tuy
vậy, so với các cấp học, bậc học khác, cho đến nay vẫn cịn ít các cơng trình nghiên
11
cứu về biện pháp phát huy TTCNT của trẻ MG 5 - 6 tuổi. Vì thế, chúng tơi hy vọng
rằng việc tiếp tục nghiên cứu “Các biện pháp tích cực hóa hoạt động nhận thức của trẻ
MG 5 - 6 tuổi trong q trình KPMTXH” có ý nghĩa cả về mặt lý luận lẫn thực tiễn,
đáp ứng yêu cầu đòi hỏi của đất nước, của xã hội đối với việc đổi mới GDMN trong
giai đoạn hiện nay.
1.2. Một số vấn đề chung về tính tích cực và TTCNT của trẻ MG 5 - 6 tuổi
trong quá trình KPMTXH
1.2.1. Các khái niệm cơ bản
1.2.1.1. Khái niệm về tính tích cực
Tính tích cực nói chung và tính tích cực của trẻ MG nói riêng được các nhà khoa
học nghiên cứu và đề cập trong các cơng trình nghiên cứu của mình.
Trong một số từ điển ngôn ngữ, từ điển tâm lý học của các nước, thuật ngữ tính
tích cực được xem xét gắn liền với hoạt động, với những hành động bên trong của chủ
thể. Nó là điều kiện thúc đẩy, tạo ra hoạt động hay là biến đổi hoạt động. Tính tích cực
bao hàm tính chủ động, tính chủ định, có ý thức của chủ thể. Nó đối lập với tính bị
động. Tính tích cực biểu hiện tính ổn định của hoạt động, thể hiện ý chí và tính độc lập
của chủ thể đối với mơi trường bên ngồi.
Dưới góc độ triết học, trên cơ sở phát triển học thuyết Mác - Lênin, tính tích cực
được coi là một đặc tính của sinh học, luôn luôn vận động và phát triển đi lên. Tính
tích cực chính là thái độ cải tạo và biến đổi của chủ thể đối với khách thể, vì thế nó có
vai trị quan trọng trong việc tạo ra thế giới hiện thực khách quan.
Tính tích cực cũng được đề cập đến trong nhiều cơng trình nghiên cứu của các
nhà tâm lý học, giáo dục học theo các khía cạnh khác nhau.
Một số tác giả như A. N. Lnchiev, A. A. Liublinxcaia, I. F. Kharlamơv, … xem
xét tính tích cực như một phẩm chất của cá nhân gắn liền với hoạt động. Theo họ, tính
tích cực chỉ sự sẵn sàng hoạt động và con người tích cực có nghĩa là con người đó
đang ở trong trạng thái hoạt động. Nhu cầu, hứng thú có quan hệ chặt chẽ với tính tích
cực, nó chính là nguồn sống bên trong, là động lực thúc đẩy con người ta hoạt động.
Từ gốc độ chức năng và vai trò của chủ thể đối với thế giới bên ngoài, các tác giả
V. Ia. Romanơv, X. Đ. Xmirnơv cho rằng tính tích cực chính là tính chủ động của chủ
thể, tính tích cực thực hiện chức năng chỉ báo hoạt động của con người.
12
Còn một số tác giả như L. M. Ackhagenxki (Liên Xơ trước đây), R. Minle (Cộng
hịa dân chủ Đức),… xem xét tính tích cực trong mối quan hệ chặt chẽ giữa trạng thái
hoạt động của con người với thái độ cải tạo thế giới của họ.
Quan điểm cuối cùng là xem xét tính tích cực của nhân cách là khả năng của con
người tiến hành việc cải tạo thế giới mang ý nghĩa xã hội trên cơ sở tiếp thu sự giàu có
của nền văn hóa vật chất và tinh thần, được thể hiện trong sự sáng tạo trong giao tiếp,
trong các hành động ý chí (A. V. Petrovxki và M. G. larơsevxki). Các nhà tâm lí học
này cho rằng đặc trưng khái quát của tính tích cực chính là tính tích cực xã hội của con
người, được thể hiện ở tính nguyên tắc, tư tưởng, ở tính logíc trong việc bảo vệ các
quan điểm của mình, trong sự thống nhất giữa lời nói và việc làm.
Trên cơ sở phân tích các quan điểm trên, tính tích cực có thể hiểu như sau:
Tính tích cực là một phẩm chất quan trọng của nhân cách, là thái độ cải tạo, biến đổi
của chủ thể đối với thế giới xung quanh. Tính tích cực gắn liền với hoạt động. Tính
tích cực ln mang tính chủ động, nó đối lập với tính bị động. Động cơ, nhu cầu và
hứng thú hoạt động chính là nguồn gốc bên trong của tính tích cực, là động lực thúc
đẩy con người ta hoạt động.
1.2.1.2. Khái niệm về tính tích cực nhận thức
Về khái niệm TTCNT được các tác giả đề cập đến nhiều trong cơng trình nghiên
cứu của mình dưới những gốc độ khác nhau.
Một số tác giả, dưới gốc độ triết học và dựa vào sự phân tích lý thuyết phản ánh
của V. I. Lênin quan niệm rằng, TTCNT thể hiện thái độ cải tạo của chủ thể nhận thức
đối với đối tượng nhận thức. Nghĩa là, tài liệu học tập được phản ánh vào não học sinh
và được chế biến đi, được hòa vào vốn kinh nghiệm đã có của chúng và được vận
dụng linh hoạt, sáng tạo vào các tình huống khác nhau nhằm cải tạo hiện thực và cải
tạo cả bản thân mình. Đại diện tiêu biểu của các tác giả có quan điểm này là L.
Arixtôva (Nga). Bà viết “TTCNT được hiểu là mối quan hệ cải biến sáng tạo của cá
nhân với khách thể nhận thức, nó liên quan tới những thay đổi trong nhận thức của cá
nhân đó. Bà cho rằng, TTCNT địi hỏi phải có hai yếu tố sau: thứ nhất là thái độ lựa
chọn đối với đối tượng nhận thức; thứ hai là đề ra cho mình mục đích, nhiệm vụ cần
giải quyết sau khi đã lựa chọn đối tượng, cải tạo đối tượng trong hoạt động tiếp theo
nhằm giải quyết vấn đề. Hoạt động mà thiếu những yếu tố trên thì có thể nói đó là sự
thể hiện trạng thái hành động nhất định của con người, mà khơng thể là tính tích cực
13
được. Hiện tượng tích cực và trạng thái hành động của con người về vẻ bề ngồi có thể
giống nhau, nhưng khác nhau về bản chất. Tính tích cực khi được thể hiện trong hoạt
động cải tạo, đòi hỏi phải có sự thay đổi trong ý thức và hành động của chủ thể nhận
thức.
Theo N. P. Anhikeiva, T. Samôva, những dấu hiệu đặc trưng của TTCNT là sự cố
gắng nỗ lực của trí tuệ, của các hành động tư duy, sự thể hiện hứng thú đối với tài liệu,
tính độc lập, sáng tạo trong học tập. Hạt nhân cơ bản của TTCNT, theo tác giả Thái
Duy Tuyên [27] là hoạt động tư duy của cá nhân, được tạo nên do sự thúc đẩy của nhu
cầu đa dạng.
Còn tác giả Đặng Thành Hưng [10] lại giải thích bản chất TTCNT có bản chất
tâm lý (tính tích cực cảm giác, tính tích cực tư duy, tính tích cực tưởng tượng) và bản
chất sinh học - xã hội (tính tích cực sinh học, tính tích cực thái độ, tình cảm, tính tích
cực hành động ý chí). Nội dung của TTCNT bao gồm nhu cầu cao về tri thức, trình độ
cao của các tình cảm trí tuệ, hứng thú học tập, ý chí, trí lực chuyên biệt, tính thích ứng
sinh học, những động cơ xã hội và nhân văn cấp cao, nhiều trải nghiệm thành cơng
trong học tập, các kiểu khí chất mạnh mẽ.
Dựa vào quan điểm triết học, tâm lý học, dựa vào lý thuyết phản ánh của V. I.
Lênin, trên cơ sở phân tích, so sánh, hệ thống hóa các tài liệu nghiên cứu về TTCNT
của các tác giả trong và ngoài nước, chúng tôi xác định: TTCNT là một phẩm chất tâm
lý của cá nhân trong hoạt động nhận thức, là thái độ cải tạo của chủ thể đối với khách
thể thông qua việc huy động ở mức độ cao các chức năng tâm lý nhằm giải quyết
những nhiệm vụ nhận thức, trong đó tính tích cực, tính độc lập, tư duy sáng tạo và
toàn bộ nhân cách của chủ thể phát triển.
1.2.1.3. Khái niệm về TTCNT của trẻ MG và những biểu hiện của nó ở trẻ MG 5
- 6 tuổi trong quá trình KPMTXH
1) Khái niệm về TTCNT của trẻ MG
Bắt đầu từ cuối giai đoạn tuổi nhà trẻ, ở trẻ xuất hiện nguyện vọng độc lập, nhu
cầu tự khẳng định và ở trẻ em MG đã có nhu cầu được người khác thừa nhận. Đây là
những hình ảnh biểu hiện quan trọng của tính tích cực, là điều kiện cần thiết cho nhân
cách của trẻ phát triển bình thường. Vì vậy, việc giáo dục tính tích cực có thể bắt đầu
ngay từ lứa tuổi MG.
14
Vấn đề TTCNT của trẻ MG được nhiều nhà nghiên cứu trong và ngoài nước
quan tâm, chú ý đến. Khái niệm TTCNT của trẻ được đề cập đến trong từ điển bách
khoa Xơ Viết như là thái độ tích cực của trẻ đối với sự vật của thế giới xung quanh; sự
ham muốn vượt ra ngồi phạm vi những gì đã biết; sự mong mỏi mở rộng phạm vi
hiểu biết và sử dụng chúng một cách sáng tạo trong lý luận và thực tiễn. TTCNT có
mối quan hệ chặt chẽ với óc quan sát, với năng lực phân tích những khía cạnh cũng
như các mối quan hệ đặc thù trong các hiện tượng và sự kiện. Trong một số công trình
nghiên cứu của các nhà khoa học Xơ Viết, TTCNT của trẻ MG được xác định như là
thái độ tích cực của trẻ đối với hiện thực xung quanh, lòng ham muốn chiếm lĩnh tri
thức và biết vận dụng chúng vào trong hoàn cảnh thực tiễn. Theo nghiên cứu của A. A.
Liublinxkaia, ở lứa tuổi MG đã xuất hiện tính tích cực ở bình diện cao nhất, đó là tính
tích cực của hoạt động trí tuệ. Bà cho rằng tính tích cực được thể hiện trong hoạt động
và mức độ phát triển của tính tích cực được đánh giá bằng khả năng lĩnh hội hành
động của trẻ từ nhỏ đến lớn.
V. X. Mukhina [18], Nguyễn Ánh Tuyết [28] và một số tác giả khác quan niệm
cho rằng: “TTCNT của trẻ MG thể hiện ở lòng ham hiểu biết, muốn khám phá những
điều mới lạ của thế giới tự nhiên và cuộc sống xã hội. Sự phát triển tính ham hiểu biết
của trẻ trong thời kỳ MG thể hiện đặc biệt ở sự tăng lên mạnh mẽ về số lượng và sự
biến đổi về chất của những câu hỏi của trẻ em. So với trẻ MG 4 - 5 tuổi, trẻ MG 5 - 6
tuổi những câu hỏi hướng vào việc tiếp thu tri thức mới chiếm ưu thế, hơn nữa trẻ em
thường quan tâm tới những nguyên nhân của sự vật, sự việc mn hình, mn vẻ,
những mối liên hệ giữa chúng”.
L. G. Nhixcanhcn lại quan niệm TTCNT của trẻ MG chính là tính tích cực được
nảy sinh trong quá trình nhận thức và là kết quả của quá trình nhận thức. TTCNT được
thể hiện sự thích thú tiếp nhận thơng tin, sự mong muốn làm chính xác hóa, đào sâu
kiến thức của trẻ, sự độc lập tìm kiếm những câu trả lời cho những vấn đề mà trẻ quan
tâm, sự vận dụng kỹ năng so sánh để tìm ra sự giống nhau và khác nhau, ở lòng mong
muốn và kĩ năng đặt câu hỏi, sự thể hiện của các yếu tố sáng tạo và sử dụng các kỹ
năng nhận thức vào giải quyết các bài tập và tính huống mới.
Trên cơ sở phân tích, so sánh, khái qt hóa những cơng trình nghiên cứu của các
nhà khoa học trong nước và trên thế giới về TTCNT của trẻ MG, chúng tơi quan niệm
TTCNT của trẻ MG trong q trình KPMTXH như một phẩm chất tâm lý cá nhân của
15
trẻ trong hoạt động nhận thức, thể hiện thái độ tích cực của trẻ đối với xã hội xung
quanh; Đó là một năng lực trí tuệ phức tạp, địi hỏi sự nỗ lực huy động ở mức độ cao
các chức năng tâm lý, đặc biệt là chức năng nhận thức khi giải quyết các nhiệm vụ
nhận thức đã đặt ra trong các hoạt động KPMTXH. Nó vừa là mục đích, vừa là điều
kiện, vừa là kết quả của hoạt động nhận thức nói riêng, của sự phát triển nhân cách
đứa trẻ nói chung.
2) Những biểu hiện của TTCNT ở trẻ MG 5 - 6 tuổi trong quá trình KPMTXH
TTCNT của trẻ MG nói chung, của trẻ MG 5 - 6 tuổi nói riêng như một phẩm
chất tâm lý cá nhân của trẻ trong hoạt động nhận thức, trong đó nó chứa đựng các yếu
tố nhận thức, tình cảm, ý chí. Do vậy, khi xem xét những biểu hiện của TTCNT của trẻ
MG 5 - 6 tuổi trong quá trình KPMTXH, chúng tôi sẽ dựa trên những yếu tố này.
Thêm nữa, đối với trẻ MG nói chung, trẻ MG 5 - 6 tuổi nói riêng, TTCNT thường
được biểu hiện rõ qua các hành vi bên ngồi (có thể thơng qua hành động , cử chỉ, nét
mặt, ngôn ngữ,…)
Theo chúng tôi, trong q trình KPMTXH có thể nhận biết TTCNT của trẻ bằng
các dấu hiệu sau:
Thứ nhất, Những dấu hiệu nói lên nhu cầu và hứng thú nhận thức của trẻ đối với
các đối tượng trong MTXH.
Hứng thú nhận thức là xu hướng lựa chọn của cá nhân nhằm vào việc nhận thức
được một hoặc một số lĩnh vực hoạt động, trong đó cá nhân khơng chỉ dừng lại ở
những đặc điểm bên ngồi mà cịn đi sâu vào các bản chất bên trong của đối tượng
muốn nhận thức.
Hứng thú nhận thức giữ vai trò là động cơ quan trọng của hoạt động trong quá
trình hình thành cá nhân và thường biểu lộ ra ngồi dưới dạng lịng ham hiểu biết, tính
tị mò, lòng khao khát kiến thức mãnh liệt.
Đối với trẻ MG 5 - 6 tuổi, hứng thú nhận thức có ý nghĩa rất quan trọng trong
hoạt động và đối với sự phát triển nhân cách của trẻ. Bởi hứng thú nhận thức là động
lực thúc đẩy bên trong mang lại niềm vui, làm giảm sự căng thẳng, sự mệt mỏi của trẻ
khi giải quyết các nhiệm vụ nhận thức trong quá trình KPMTXH. Dưới ảnh hưởng của
hứng thú nhận thức, trẻ tích cực tri giác hơn và tri giác trở nên sâu sắc hơn, tinh tế hơn,
trí nhớ cảm xúc, trí nhớ hình ảnh diễn ra tích cực hơn, tưởng tượng trở nên sáng tạo
16
hơn và có hiệu quả hơn,… Như vậy, nhờ có hứng thú nhận thức mà hoạt động nhận
thức của trẻ diễn ra thuận lợi hơn, lâu hơn và có hiệu quả hơn.
Nhu cầu nhận thức của trẻ MG được hiểu là lịng ham thích, sự mong muốn
khám phá và nhận thức thế giới xung quanh của trẻ, được tạo bởi những đòi hỏi tất yếu
của cá nhân để tồn tại và phát triển, là động lực tích cực của cá nhân đối với hoàn cảnh
xung quanh. Nhu cầu nhận thức của trẻ vừa là tiền đề vừa là kết quả của q trình
nhận thức. Có lịng ham muốn nhận thức là dấu hiệu tốt song chưa đủ, mà cần phải
làm cho lịng ham muốn đó vận động và chuyển thành hành động và hứng thú đích
thực. Đây là q trình chuyển dịch từ tác động bên ngoài thành động cơ bên trong…
Vì thế, muốn hình thành TTCNT cho trẻ MG, trước hết cần hình thành cho chúng lịng
ham muốn, sự say mê và ý chí nỗ lực vượt qua khó khăn để hồn thành nhiệm vụ nhận
thức.
Động cơ kích thích trẻ có nhu cầu, hứng thú nhận thức trong quá trình KPMTXH
chủ yếu phụ thuộc vào nội dung của đối tượng tiếp xúc. Nếu những đối tượng mà trẻ
đang tìm hiểu, khám phá chứa đựng những nội dung mới, hấp dẫn thì nó sẽ càng kích
thích tính tị mị, ham hiểu biết của trẻ. Từ đó càng thúc đẩy hoạt động nhận thức phát
triển.
Nhu cầu hứng thú nhận thức của trẻ trong quá trình KPMTXH thể hiện bằng
những dấu hiệu cụ thể sau :
- Trẻ thích thú chủ động tiếp xúc, hoạt động với đối tượng gần gũi xung quanh.
- Trẻ hay đặt những câu hỏi và có những thắc mắc đối với GV, đối với người lớn
xung quanh và yêu cầu giải thích cặn kẽ. Việc đặt ra câu hỏi của trẻ thể hiện lòng
mong muốn hiểu biết nhiều hơn, sâu hơn về những đối tượng mà trẻ đang tiếp xúc.
Chúng ta thường bắt gặp ở trẻ những câu hỏi dạng: Đây là cái gì? Dùng để làm gì? Có
thể.. được khơng? Tại sao? Như thế nào? Từ đâu mà có?... Những câu hỏi, những thắc
mắc tự đứa trẻ đưa ra biểu hiện sự tích cực tìm kiếm, lịng ham hiểu biết, trí tị mị của
trẻ. Nếu đứa trẻ thụ động, khơng hứng thú, thì nó sẽ khơng đưa ra câu hỏi và nó cũng
sẽ khơng có phản ứng gì nếu câu hỏi khơng được trả lời.
- Một dấu hiệu khác thể hiện nhu cầu hứng thú nhận thức của trẻ đối với MTXH
là trẻ chú ý quan sát, chăm chú lắng nghe cơ nói và theo dõi những gì cơ làm.
- Dấu hiệu nữa của hứng thú nhận thức là trẻ hay giơ tay phát biểu, nhiệt tình
hưởng ứng bổ sung ý kiến vào câu trả lời của bạn và thích tham gia vào các hoạt động.
- Những biểu hiện của trạng thái cảm xúc là một dấu hiệu quan trọng để giúp
người GV nhận ra sự có mặt của hứng thú nhận thức ở trẻ.
17
Như vậy, để đánh giá trẻ có nhu cầu nhận thức hay khơng, trẻ có hứng thú với
nhiệm vụ nhận thức đặt ra trong q trình KPMTXH hay khơng, chúng ta có thể dựa
vào năm dấu hiệu cụ thể trên.
Thứ hai, Những dấu hiệu nói lên khả năng nhận thức và ngơn ngữ của trẻ trong
q trình KPMTXH.
- Trẻ có kĩ năng quan sát, phát hiện nhanh chóng, chính xác những nội dung được
quan sát
- Trẻ có kĩ năng lắng nghe, hiểu lời người khác và diễn đạt cho người khác hiểu ý
của mình, thể hiện ở chỗ trẻ hiểu nội dung câu hỏi, yêu cầu của cô và khả năng diễn
đạt để người khác hiểu ý tưởng của mình.
- Trẻ thực hiện đủ, đúng các thao tác thực hành (bài tập hoặc trị chơi) do cơ đưa
ra.
- Trẻ biết sử dụng các thao tác nhận thức, đặc biệt là các thao tác tư duy như phân
tích, tổng hợp, so sánh, khái quát hóa… vào việc giải quyết các nhiệm vụ nhận thức.
- Trẻ tích cực vận dụng vốn kiến thức và kỹ năng đã tích lũy được vào việc giải
quyết các tình huống và các bài tập khác nhau, đặc biệt là vào việc xử lý các tình
huống mới, chưa quen thuộc.
- Một dấu hiệu nữa cũng rất quan trọng đó là những biểu hiện của tính độc lập,
sáng tạo của trẻ trong quá trình giải quyết các nhiệm vụ nhận thức như độc lập, tự tin
trả lời câu hỏi của cơ, có sáng kiến, tự mình tìm ra một vài cách giải quyết khác nhau
cho các bài tập và tình huống do cơ đưa ra và biết cách lựa chọn cách giải quyết hay
nhất.
Thứ ba, Những dấu hiệu của ý chí trong TTCNT của trẻ MG 5 - 6 tuổi.
Liên quan đến những biểu hiện này có thể kể đến sự nỗ lực, cố gắng vượt qua các
tác động nhiễu bên ngồi và các khó khăn để thực hiện nhiệm vụ được giao đến cùng,
sự phản ứng của trẻ khi cơ đưa ra tín hiệu thơng báo hết giờ (như phản ứng khơng hài
lịng khi phải kết thúc công việc và tiếp tục thực hiện đến giờ phút cuối cùng…)
Trên đây là những mối quan hệ đặc trưng về TTCNT của trẻ MG 5 - 6 tuổi mà
các nhà nghiên cứu và các GVMN có thể xem xét lựa chọn để làm tiêu chí đánh giá
TTCNT của trẻ MG 5 - 6 tuổi trong quá trình KPMTXH.
1.3. Đặc điểm phát triển tâm lý, nhận thức của trẻ MG 5 - 6 tuổi
1.3.1. Đặc điểm phát triển nhận cảm
Đến MG 5 - 6 tuổi, hoạt động nhận cảm (bao gồm quá trình cảm giác và tri giác)
của trẻ tiếp tục phát triển và hoàn thiện, độ nhạy cảm được nâng cao, cho phép trẻ định
18
hướng vào những thuộc tính và những mối liên hệ bên ngồi của sự vật, hiện tượng.
Hệ thống tín hiệu thứ hai tham gia tích cực hơn và đồng thời làm cho cảm giác có tính
chất tự giác. Cùng với cảm giác, tri giác của trẻ cũng phát triển mạnh. Nếu được giải
quyết tốt thì đến cuối tuổi MG trẻ bắt đầu có khả năng tri giác có kế hoạch. Khả năng
quan sát của trẻ phát triển giúp trẻ khám phá một cách có ý thức, có mục đích. Trẻ tri
giác chính xác hơn, khả năng phân biệt các đối tượng nhanh hơn.
Tri giác của trẻ thường gắn liền với các hoạt động của chúng. Nếu chúng ta càng
tổ chức cho trẻ tham gia tích cực vào các hoạt động, càng sinh động hấp dẫn thì tri
giác của trẻ càng phát triển và đạt kết quả tốt.
1.3.2. Đặc điểm phát triển tư duy
Tư duy của trẻ ở độ tuổi 5 - 6 phát triển mạnh mẽ về kiểu loại, các thao tác và
thiết lập các mối quan hệ giữa các sự kiện, hiện tượng thông tin giữa mới và cũ, gần và
xa…, đặc biệt là kiểu tư duy trực quan hình tượng. Ở giai đoạn này, một kiểu tư duy
trực quan - hình tượng mới xuất hiện - đó là kiểu tư duy trực quan - sơ đồ, trong đó
hình tượng đã bị tước đi những chi tiết rườm rà, cụ thể mà chỉ còn giữ lại những yếu tố
cơ bản nhất giúp trẻ phản ánh một cách khái quát về những sự vật chứ không phải là
từng sự vật riêng lẻ. Mặc dù vẫn nằm trong phạm vi của kiểu tư duy trực quan - hình
tượng nói chung nhưng kiểu tư duy trực quan - sơ đồ cũng biểu hiện một bước phát
triển đáng kể trong tư duy của trẻ MG. Đó chính là bước trung gian của sự chuyển tiếp
từ tư duy trực quan - hình tượng đến tư duy logíc. Nhờ đó, một số yếu tố của tư duy
logíc được xuất hiện, tạo cho trẻ khả năng khái qt hóa, phán đốn, suy luận và hình
thành được một số khái niệm đơn giản.
Tóm lại ở độ tuổi MG kể cả giai đoạn cuối cùng (5 - 6 tuổi) hoạt động tâm lý của
trẻ đặc biệt nhạy cảm và tiếp thu các tri thức dưới dạng trực quan hình tượng là dễ
dàng hơn cả. Do đó, trong cơng tác chăm sóc - giáo dục trẻ chúng ta cần lưu ý đến đặc
điểm này để lựa chọn và sử dụng phương pháp, biện pháp, phương tiện phù hợp nhằm
nâng cao hiệu quả của quá trình giáo dục.
1.3.3. Đặc điểm phát triển ngôn ngữ của trẻ MG 5-6 tuổi.
Đến độ tuổi MG 5 - 6 tuổi, trẻ đã có thể sử dụng tiếng mẹ đẻ một cách thành thạo
trong sinh hoạt hàng ngày. Trẻ nắm vững ngữ âm và ngữ điệu khi sử dụng. Vốn từ của
trẻ tích lũy được khá phong phú không chỉ về danh từ mà cả về động từ, tính từ, liên
từ. Trẻ nắm được những từ trong tiếng mẹ đẻ đủ để diễn đạt các mặt trong đời sống
19
hàng ngày và biết nói đúng theo cơ cấu ngữ pháp. Ngôn ngữ mạch lạc bắt đầu phát
triển mạnh, lúc này nhiều trẻ đã biết trình bày ý nghĩ của mình theo một trật tự hợp lý,
biết nhấn mạnh những điểm chủ yếu để người xung quanh nghe được một cách rõ
ràng. Kiểu ngơn ngữ mạch lạc có ý nghĩa hết sức quan trọng đối với sự phát triển trí
tuệ của trẻ. Muốn có ngơn ngữ mạch lạc thì những điều trẻ định nói ra cần phải được
suy nghĩ rõ ràng, rành mạch ngay từ trong đầu, tức là cần được tư duy hỗ trợ. Mặt
khác, chính ngơn ngữ mạch lạc là phương tiện làm cho tư duy của trẻ phát triển đến
một chất lượng mới. Đó là việc nảy sinh các yếu tố của tư duy logíc, nhờ đó mà toàn
bộ sự phát triển của trẻ được nâng lên một trình độ mới cao hơn.
1.3.4. Đặc điểm phát triển về mặt cảm xúc và ý chí của trẻ MG 5 - 6 tuổi
Sự phát triển về mặt cảm xúc và ý chí của trẻ MG 5 - 6 tuổi dần dần phát triển
đáng kể
1) Đặc điểm phát triển cảm xúc: Vào cuối tuổi MG, xúc cảm, tình cảm tiếp tục
phát triển và chi phối mạnh đời sống tâm lý của trẻ. Đời sống xúc cảm, tình cảm của
trẻ ổn định hơn so với trẻ MG 4 - 5 tuổi. Nét đặc biệt trong đời sống tình cảm của trẻ
MG 5 - 6 tuổi là sự hình thành tương đối rõ nét các loại tình cảm bậc cao như tình cảm
trí tuệ, tình cảm đạo đức thẩm mỹ.
- Tình cảm trí tuệ thể hiện ở chỗ trẻ ham hiểu biết, thích khám phá tìm tịi
những gì cịn mới lạ, bí ẩn. Mỗi nhận thức mới đều kích thích niềm vui, hứng thú, sự
say mê đối với trẻ.
- Tình cảm đạo đức thể hiện ở chỗ trẻ rất dễ xúc động và đồng cảm với con
người cảnh vật xung quanh. Trẻ ý thức được nhiều hành vi tốt đẹp cần thực hiện để
làm vui lịng mọi người.
- Tình cảm thẩm mỹ: Cùng với sự phát triển nhận thức về cái đẹp, tình cảm
thẩm mỹ của trẻ càng phát triển. Trẻ biết yêu thích cái đẹp, mong muốn làm ra cái đẹp
để mang đến niềm vui cho chính mình và cho mọi người, ở tuổi này trẻ rất thích các
loại hình nghệ thuật.
2) Đặc điểm phát triển ý chí: Do sự xác định ý thức của bản ngã được rõ ràng
hơn và các q trình tâm lý khơng chủ định chuyển dần sang q trình tâm lý mang
tính chủ định hơn làm cho các hành động ý chí của trẻ ngày càng được bộc lộ rõ nét
trong các hoạt động và đời sống sinh hoạt hàng ngày. Trẻ MG 5 - 6 tuổi đã bắt đầu có
khả năng điều chỉnh một cách có ý thức đối với những hành vi của bản thân. Tuy vậy,
20
tính bột phát vẫn chi phối mạnh mẽ hành vi của trẻ. Trong động cơ hành vi của trẻ cịn
có thêm yếu tố thi đua giữa mình với bạn, giữa tổ mình với tổ khác. Yếu tố thi đua
kích thích trẻ hoạt động một cách tích cực.
Trên đây là một số đặc điểm phát triển tâm lý, nhận thức chủ yếu của trẻ MG 5 6 tuổi mà các nhà giáo dục cần phải quan tâm để lựa chọn nội dung, phương pháp,
phương tiện và hình thức tổ chức giáo dục phù hợp nhằm kích thích sự phát triển
chung, cũng như việc phát huy TTCNT của trẻ trong quá trình KPMTXH.
1.4. MTXH và quá trình KPMTXH của trẻ MG 5 - 6 tuổi
1.4.1. Một số khái niệm cơ bản
1.4.1.1. Khái niệm MTXQ
MTXQ là tất cả những gì bao quanh chúng ta như: tự nhiên, con người, các đồ
vật... Khái niệm này có thể hiểu theo 2 nghĩa:
- Theo nghĩa rộng: MTXQ là tất cả mọi thứ có trong hành tinh mà chúng ta đang
sống.
- Theo nghĩa hẹp: MTXQ là những hoàn cảnh cụ thể bao quanh chúng ta từ khi
sinh ra, lớn lên và phát triển.
Vậy, MTXQ là toàn bộ sự vật hiện tượng của thế giới hữu sinh và vơ sinh được
thu hút vào một q trình của đời sống xã hội ở một giai đoạn lịch sử nhất định và tạo
thành điều kiện cần thiết của sự tồn tại và phát triển của đối với mọi xã hội. MTXQ là
bao gồm thế giới tự nhiên và xã hội gần gũi, quen thuộc xung quanh chúng ta. Các môi
trường trên có mối quan hệ tác động qua lại lẫn nhau.
1.4.1.2. Khái niệm MTXH
C.Mác nói: “Xã hội là sản phẩm của sự tác động lẫn nhau giữa con người và con
người”. Chính vì có sự liên hệ và tác động giữa con người với con người mới có xã hội
và các quy luật xã hội. Xã hội sinh ra, tồn tại và phát triển đó là do có hoạt động của
con người có ý thức, có ý chí và theo đuổi những mục đích nhất định. Con người hoạt
động tạo nên xã hội. Nhưng con người lại luôn chịu sự chi phối của điều kiện tự nhiên,
kinh tế, văn hoá, dân tộc và truyền thống. Khơng có con người nào lại có thể sống
ngồi cộng đồng người. Quan hệ của những con người trong xã hội là quan hệ mang
tính cộng đồng và tính cá thể. Con người phải sống theo những phong tục, tập quán,
truyền thống văn hoá của văn hố cộng đồng, nhưng phải có những cái riêng biệt của
mỗi cá nhân.
21