Tải bản đầy đủ (.docx) (24 trang)

Vận dụng quan điểm hồ chí minh về văn hóa giáo dục vào công cuộc đổi mới căn bản và toàn diện nền giáo dục ở việt nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (111.67 KB, 24 trang )

MỤC LỤC
MỞ ĐẦU................................................................................................................1
CHƯƠNG 1. TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ VĂN HĨA GIÁO DỤC...............4

1.1. Nguồn gốc tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa giáo dục........................4
1.2. Nội dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa giáo dục...........................4
1.2.1. Mục tiêu của văn hóa giáo dục...........................................................5
1.2.2. Nội dung giáo dục................................................................................7
1.2.3. Phương châm và phương pháp giáo dục...........................................8
1.2.4. Về đội ngũ giáo viên..........................................................................12
CHƯƠNG 2. VẬN DỤNG QUAN ĐIỂM HỒ CHÍ MINH VỀ VĂN HĨA GIÁO
DỤC VÀO CƠNG CUỘC ĐỔI MỚI CĂN BẢN VÀ TOÀN DIỆN NỀN GIÁO
DỤC Ở VIỆT NAM HIỆN NAY..........................................................................13

2.1. Thực trạng nền giáo dục Việt Nam hiện nay........................................13
2.1.1. Thành tựu..........................................................................................13
2.1.2. Hạn chế..............................................................................................16
2.2. Giải pháp nâng cao vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh cơng cuộc đổi
mới căn bản và toàn diện nền giáo dụcViệt Nam hiện nay........................17
KẾT LUẬN..........................................................................................................18
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO..............................................................20


MỞ ĐẦU
1.Tính cấp thiết của đề tài
Tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa giáo dục vừa là thành quả của sự chắt
lọc tinh tế tinh hoa văn hoá dân tộc và nhân loại, vừa mang đậm hơi thở của
cuộc sống. Do vậy, ở Hồ Chí Minh, lý luận giáo dục và thực tiễn giáo dục có sự
thống nhất hữu cơ, không tách rời nhau. Đúng như Nghị quyết UNESCO đánh
giá: "Sự đóng góp quan trọng về nhiều mặt của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong các
lĩnh vực văn hố, giáo dục và nghệ thuật là kết tinh của truyền thống hàng ngàn


năm của nhân dân Việt Nam và những tư tưởng của Người là hiện thân của
những khát vọng của các dân tộc trong việc khẳng định bản sắc dân tộc của
mình và tiêu biểu cho việc thúc đẩy sự hiểu biết lẫn nhau”.
Có thể nói, tư tưởng văn hóa giáo dục Hồ Chí Minh là sự kế thừa, tiếp thu
có chọn lọc, sáng tạo và phê phán từ các tiền đề: Một là, chủ nghĩa yêu nước,
truyền thống văn hoá, giáo dục và tinh thần nhân ái Việt Nam. Hai là, triết lý
giáo dục phương Đông, đặc biệt là triết lý nhân sinh của Nho, Phật, Lão và Ba
là, những tư tưởng tiến bộ thời kỳ cận đại. Nhưng tiền đề quan trọng nhất, cái
tạo nên sự phát triển về chất trong tư tưởng giáo dục Hồ Chí Minh là chủ nghĩa
Mác - Lênin. Trên cơ sở đó và cùng với quá trình hoạt động thực tiễn cách mạng
sinh động, phong phú của mình, Hồ Chí Minh đã đưa ra quan điểm hết sức sâu
sắc và mới mẻ về vai trị, mục đích, nội đung và phương pháp giáo dục.
Năm 1945, cùng với thắng lợi chính trị, nhân dân ta đã xóa đi một nên
giáo dục đồi bại, xảo trá của thực dân Pháp: Chỉ dạy cho nhân dân sùng bái
những kẻ mạnh hơn mình; dạy cho thanh niên yêu một Tổ quốc không phải là
Tổ quốc của mình; dạy cho thanh niên khinh rẻ nguồn gốc, dịng giống mình…
Đó là một nền giáo dục nguy hiểm hơn cả sự dốt nát. Chế độ mới ra đời, cùng
1


với việc thiết lập nền cộng hòa dân chủ, Chủ tịch Hồ Chí Minh coi việc giải
quyết nạn dốt là một tronh những nhiệm vụ cấp bách. Bởi vì “Một dân tộc dốt là
một dân tộc yếu”, “Yếu thì dại, dại thì hèn”. Quan điểm của Hồ Chí Minh là
phải làm cho nhân dân biết đọc, biết viết, từng bước nâng cao dân trí. Bởi vì
nước ta là một nước dân chủ, dân là chủ và dân làm chủ. Công việc kháng chiến
kiến quốc, đổi mới, xây dựng là trách nhiệm của dân. Chúng ta phải đem tài dân,
sức dân, của dân để làm lợi cho dân. Muốn làm được điều đó, cần phải có giáo
dục và giáo dục lại nhân dân.
Nhận thấy trong tư tưởng của Hồ Chí Minh về văn hóa giáo dục như kim
chỉ nam dẫn lối cho toàn dân, do vậy, xin được chọn đề tài nghiên cứu cho bài

tiểu luận là: “Vận dụng quan điểm Hồ Chí Minh về văn hóa giáo dục vào
cơng cuộc đổi mới căn bản và toàn diện nền giáo dục ở Việt Nam hiện nay.”
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu đề tài
- Mục đích
Đề tài được thực hiện nhằm đưa ra một góc nhìn về sự hình thành tư
tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa đạo đức và vận dụng quan điểm vào việc đổi
mới căn bản và toàn diện nền giáo dục ở Việt Nam hiện nay .
- Nhiệm vụ
Đầu tiên, đề tài chỉ ra khái quát lý luận về văn hóa giáo dục gắn với từng
giai đoạn lịch sử trong tư tưởng của Hồ Chí Minh. Trên cơ sở đó, đề tài phân
tích từng mục nhỏ, từng yếu tố tác động để liên hệ, làm rõ vận dụng vào cơng
cuộc đổi mới căn bản và tồn diện nền giáo dục ở Việt Nam hiện nay.

2


3. Phạm vi nghiên cứu của đề tài
Tiểu luận tập trung nghiên mục tiêu, nội dung, phương châm và phương
pháp văn hóa giáo dục của Hồ Chí Minh trong suốt cuộc đời và sự nghiệp Cách
mạng của Người, cùng với các dẫn chứng về tác phẩm, tuyên ngôn, hành động
của Hồ Chí Minh. Từ đó đưa ra thực trạng cơng cuộc học tập và đổi mới căn bản
nền giáo dục Việt Nam trong giao đoạn cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội
nhập kinh tế quốc tế.

4. Phương pháp nghiên cứu đề tài
Trong bài tiểu luận đã sử dụng một số phương pháp chủ yếu như: logic lịch sử, phân tích - tổng hợp, diễn dịch - quy nạp, so sánh đối chiếu, gắn lý luận
với thực tiễn…
5. Kết cấu của đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung luận
văn gồm 2 chương:

Chương 1: Tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa giáo dục
Chương 2: Vận dụng quan điểm Hồ Chí Minh về văn hóa giáo dục vào cơng
cuộc đổi mới căn bản và toàn diện nền giáo dục ở việt nam hiện nay

3


4


CHƯƠNG 1. TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ VĂN HĨA GIÁO DỤC
1.1. Nguồn gốc tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa giáo dục
Tư tưởng Hồ Chí Minh bắt nguồn từ những truyền thống văn hóa tốt đẹp
của dân tộc. Đó là truyền thống hiếu học, tơn sư trọng đạo,… đã tồn tại ngàn đời
nay trong đời sống nhân dân ta. Khơng chỉ vậy, người cịn ảnh hưởng sâu sắc từ
những quan điểm mới mẻ của giáo dục phương Tây như tinh thần tư học là
chính, là quan niệm “học đi đôi với hành”…
Nguồn gốc quan trọng nhất của Tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa giáo
dục vẫn là chủ nghĩa Mác - Lênin và những tấm gương sáng của các ông. Mác
và Ăngghenđã tuyên bố trong “Tuyên ngôn Đảng Cộng Sản” là: “Sự phát triển
tự do của mỗi người là điều kiện cho sự phát triển tự do của tất cả mọi người”.
Tại diễn đàn Đại hội giáo dục toàn Nga lần thứ nhất (28-8-1918), Lênin đã
khẳng định vai trị to lớn của cơng tác giáo dục, coi đó là một điều kiện đảm bảo
thắng lợi trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội. Khẩu hiệu nổi tiếng của
Lênin: “Học, học nữa, học mãi” đã trở thành triết lý sống của hàng triệu, hàng
triệu con người trong các thế hệ. Uỷ ban quốc tế về giáo dục thế kỷ XXI đã đưa
giáo dục suốt đời thành một nguyên lý của nền giáo dục mở đầu thiên niên kỷ
mới.
Ngồi ra, trong q trình bơn ba tìm đường cứu nước, Bác đã học tập
được rất nhiều, trong nhân dân, trong lao động, tự học là chủ yếu. Bác nhận ra

phương pháp học mới gắn liền với thực tiễn khác xa với cách học truyền thống.
Đúc kết giá trị truyền thống và hiện đại, tiếp thu tư tưởng Mác- Lênin và
vận dụng trong trải nghiệm của mình, Hồ Chí Minh có những quan niệm mới mẻ
về văn hóa giáo dục, phù hợp với “nội tạng” của người Việt Nam ta.

5


1.2. Nội dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa giáo dục
Hồ Chí Minh phê phán nền giáo dục phong kiến kinh viện xa thực tế và
coi trọng mẫu người theo quan niệm của nho giáo: “tam cương ngũ thường”,
phụ nữ bị tước mất quyền học vấn sống trong khn phép “tam tịng tứ đức”…
Người cũng đã tố cáo nền giáo dục thực dân là nền giáo dục “ngu dân”, nhồi sọ
và giả dối, làm cho cả thế giới hiểu rõ hơn thực chất của nền giáo dục ấy, đồng
thời thúc tỉnh nhân dân các nước thuộc địa vùng dậy đấu tranh chống chủ nghĩa
thực dân.
Sau khi cách mạng tháng Tám thành cơng văn hóa giáo dục trở thành một
mặt trận quan trọng trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội và đấu tranh
thống nhất nước nhà.Việc xây dựng văn hóa giáo dục mới trở thành nhiệm vụ
vừa lâu dài, vừa cấp bách của dân tộc ta. Người viết: “Chúng ta có nhiệm vụ cấp
bách là phải giáo dục lại nhân dân chúng ta. Chúng ta phải làm cho dân tộc
chúng ta trở nên một dân tộc dũng cảm, yêu nước, yêu lao động, một dân tộc
xứng đáng với nước Việt Nam độc lập”.
Những quan điểm của Hồ Chí Minh về văn hóa giáo dục:
1.2.1. Mục tiêu của văn hóa giáo dục
Mục tiêu của văn hóa giáo dục để thực hiện cả ba chức năng của văn hóa
và bằng giáo dục. Người chỉ rõ: “Dốt nát cũng là kẻ địch... Địch thực dân dựa
vào địch dốt nát để thi hành chiến lược ngu dân. Địch dốt nát dựa vào địch thực
dân để đưa dân ta vào nơi mù quáng... Một dân tộc dốt là một dân tộc yếu”. Vì
vậy, theo Người, giáo dục để mở mang dân trí, nâng cao kiến thức, bồi dưỡng tư

tưởng đúng đắn và tình cảm cao đẹp, những phẩm chất trong sáng và phong
cách lành mạnh cho nhân dân. Giáo dục để đào tạo con người có ích cho xã hội.
Trong tác phẩm:“Đời sống mới” viết năm 1947, Người nói: “Từ tiểu học, trung
6


học cho đến đại học, là nơi rèn luyện nhi đồng và thanh niên. Óc những người
tuổi trẻ trong sạch như một tấm lụa trắng. Nhuộm xanh thì nó sẽ xanh. Nhuộm
đỏ thì nó sẽ đỏ. Vì vậy sự học tập ở trường có ảnh hưởng rất lớn cho tương lai
của thanh niên, và tương laicủa thanh niên là tương lai của nước nhà. Vì vậy cốt
nhất là phải dạy cho học trò biết yêu nước, thương nòi. Phải dạy cho họ có chí tự
lập, tự cường, quyết khơng chịu thua kém ai, quyết không chịu làm nô lệ”. Nền
giáo dục mới phải thực hiện dạy và học theo hướng: “Học để làm việc, làm
người, làm cán bộ. Học để phụng sự đoàn thể, giai cấp và nhân dân, Tổ quốc và
nhân loại”. Giáo dục còn là để “cải tạo trí thức cũ”, “đào tạo trí thức mới”, thực
hiện “cơng nơng tri thức hóa”, xây dựng đổi ngũ tri thức ngày càng đơng đảo và
có trình độ ngày càng cao. Nền văn hóa giáo dục cịn phải đào tạo lớp người kế
tục sự nghiệp cách mạng, xây dựng đất nước giàu mạnh sánh vai cùng các
cường quốc năm châu.
Năm 1952, trong “Thư gửi giáo sư và sinh viên trường dự bị đại học ở
Thanh Hóa, Bác Hồ đã nêu rõ mục đích của giáo dục. Với phong cách ngắn gọn,
ngay sau lời cảm ơn và thăm hỏi thân mật, Bác đã viết: “Các thầy giáo có nhiệm
vụ nặng nề và vẻ vang là đào tạo cán bộ cho dân tộc. Vậy giáo dục cần nhằm
vào mục đích là thật thà phụng sự nhân dân.Các cháu (học sinh) thì học tập cần
gắn liền với thực hành để mai sau thực hiện mục đích cao q: thật thà phụng sự
nhân dân”.
Tồn bộ mục đích này gói gọn trong 6 chữ. Hai hoạt động cơ bản và bao
trùm của thầy là dạy và của trị là học đều hướng vào cùng mục đích, đồng thời
cũng là mục đích chung của ngành Giáo dục. Mục đích gồm sáu chữ này nhấn
mạnh yêu cầu làm việc trung thực và tận tụy, hết lòng hết sức để cống hiến hết

mình, tất cả vì dân, cho dân. Sản phẩm đào tạo theo Triết lý giáo dục Hồ Chí
Minh sẽ phải đạt được yêu cầu như vậy.

7


Năm 1955, khi viết “Thư gửi giáo viên, học sinh, cán bộ thanh niên và
nhi đồng” nhân dịp năm học mới, Bác Hồ đã căn dặn: “Trường của chúng ta là
trường học của chế độ dân chủ nhân dân, nhằm mục đích đào tạo những cơng
dân và cán bộ tốt, những người chủ tương lai tốt của nước nhà…Và cần xây
dựng tư tưởng: dạy và học để phục vụ Tổ quốc, phục vụ nhân dân”.
Dù ngơn từ dài ngắn có khác nhau nhưng nội dung cơ bản vẫn thống nhất
về mục đích chung của giáo dục.
Tới năm 1959, khi căn dặn giáo viên mẫu giáo, Bác Hồ lại viết: “Công tác
giáo viên và mẫu giáo có khác nhau, nhưng cùng chung mục đích đào tạo những
cơng dân tốt, cán bộ tốt, cho Tổ quốc, cho chủ nghĩa xã hội”.
Như vây, nhiệm vụ của ngành giáo dục rất quan trọng và vẻ vang nhằm
xây dựng và hoàn thiện con người mới, những chủ nhân tương lai của đất nước.
Hồ Chí Minh từng căn dặn cán bộ: Ta xây dựng con người phải có ý định rõ
ràng như kiến trúc sư định xây dựng ngôi nhà như thế nào rồi mới dùng gạch,
vữa, vôi, cát mà xây dựng lên. Con người mới mà nền giáo dục Việt Nam cần
xây dựng theo Người là những công dân “vừa hồng, vừa chuyên”.
1.2.2. Nội dung giáo dục
Phải tiến hành cải cách giáo dục gồm xây dựng một hệ thống trường lớp
với trương trình nội dung dạy và học thật khoa học, thật hợp lý, phù hợp với
những bước phát triển của ta. Giáo dục phải đảm bảo kiến thức toàn diện. Nội
dung giáo dục phải bao gồm cả văn hóa, trính trị, khoa học kỹ thuật, chun
mơn nghề nghiệp, lao động. Các nội dung đó có mối quan hệ mật thiết với nhau.
Cần phải học tập khoa học, kỹ thuật bởi chúng ta đang sống trong thời đại mà
cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đang tiến như vũ báo, loài người

đang vận dụng những thành tựu kỳ diệu của khoa học, kỹ thuật, công nghệ để
8


đẩy mạnh sản xuất và cải tạo nhanh chóng bộ mặt của thế giới. Phải chú ý học
chính trị, vì nếu chỉ học văn hóa, kỹ thuật mà khơng có chính trị thì như người
nhắm mắt mà đi. Học chính trị là học chủ nghĩa Mác –Lênin và đường lối của
Đảng để hiểu rõ nhiệm vụ cách mạng,từ đó vững tin vào lý tưởng cách mạng,
tránh được mọi sai lầm vấp ngã. Do vậy, học đi đôi với hành, lý luận phải liên hệ
với thực tế; học tập phải kết hợp với lao động. Muốn đẩy mạnh sự nghiệp giáo
dục phải phối hợp cả ba khâu; gia đình, nhà trường, xã hội.
Trả lời câu hỏi “Học như thế nào?” Hồ Chí Minh đã đưa ra phương pháp
kết hợp lý luận với thực tế, học đi đôi với hành, kết hợp chặt chẽ nhà trường với
gia đình và xã hội. Chú trọng tự học, học suốt đời, học thực tiễn, học nhân dân,
học lẫn nhau, học ở sách vở, học ở trường. Dạy và học không phải chạy theo
kiến thức đơn thuần, mà chú trọng tư duy sáng tạo, tự do tư tưởng. Quan điểm
về phương pháp giáo dục của Hồ Chí Minh đáp ứng được nhu cầu và khả năng
tự học của người học. Đó cịn là phương pháp học suốt đời, học mọi lúc, mọi
nơi, bằng mọi cách. Người cho rằng: “Học mãi để tiến bộ mãi. Càng tiến bộ
càng thấy phải học thêm”.Tư tưởng và tấm gương của Người là “ngày nào cũng
phải học”. Người cho rằng “Công việc cứ tiến mãi. Khơng học thì khơng theo
kịp, cơng việc nó sẽ gạt mình lại phía sau”. Việc học là quyển vở khơng có trang
cuối cùng.
Học ở mọi nơi, mọi lúc, học mọi người, học suốt đời, coi trọng việc tự
học, tự đào tạo và đào tạo lại. Người quan niệm: " Học không biết chán, học
không bao giờ đủ, còn sống còn học”. Học ở lớp chỉ là một phần, phần chủ yếu
là phải học trong lao động, trong công tác trong hoạt động thực tiễn. Học ở
những người thầy ở trong trường lớp, học ở những người xung quanh – bạn bè,
đồng chí, đồng nghiệp, nhất là nhân dân. Học tập là một quá trình lao động gian
khổ, phải rèn luyện những đức tính, những tập quán tốt đẹp trong học tập, phải

có tinh thần say học tập, có quyết tâm, có nghị lực để học tập không ngừng.
9


Phương pháp giáo dục phải xuất phát và bám chắc vào mục tiêu giáo dục và cần
thực hiện dân chủ bình đẳng trong giáo dục. Giáo dục là một khoa học nên cách
dạy phải phù hợp với lứa tuổi; dạy từ dễ đến khó; kết hợp học tập với vui chơi
có ích, lành mạnh; giáo dục phải dùng phương pháp nêu gương; giáo dục phải
gắn liền với thi đua.
1.2.3. Phương châm và phương pháp giáo dục
*/ Phương châm giáo dục
- Học đi đôi với hành, giáo dục phải gắn liền với xã hội.
+ Tháng 9-1945, trong Thư gửi các học sinh, Hồ Chí Minh viết: "Đối riêng với
các em lớn… Phải sẵn sàng mà chống giặc cướp nước, đấy là bổn phận của mỗi
công dân. Các em lớn chưa hẳn đến tuổi phải gánh công việc nặng nhọc ấy,
nhưng các em cũng nên, ngoài giờ học ở trường tham gia vào các Hội nghị cứu
quốc để tập luyện thêm cho quen với đời sống chiến sĩ và để giúp đỡ một vài
việc nhẹ nhàng trong cuộc phòng thủ đất nước".
Với các em nhỏ, Người khuyên: "Từ 5 đến 10 cháu tổ chức thành một đội,
giúp nhau học hành. Khi học rảnh, mỗi tuần cả đội đem nhau đi giúp đồng bào".
+ Trong kháng chiến, Hồ Chí Minh chủ trương: "Chúng ta cần có một nền giáo
dục kháng chiến và kiến quốc". Người yêu cầu: "Chúng ta phải sửa đổi cách dạy
cho phù hợp với đào tạo nhân tài kháng chiến và kiến quốc", "Chúng ta phải đào
tạo cán bộ mới và giúp đỡ cán bộ cũ theo tôn chỉ kháng chiến và kiến quốc".
+ Ngày 31-8-1960, trong Thư gửi các cán bộ giáo dục, học sinh, sinh viên các
trường và các lớp bổ túc văn hóa, Người nhắc nhở: "Giáo dục phải phục vụ

10



đường lối chính trị của Đảng và Chính phủ, gắn liền với sản xuất và đời sống
nhân dân".
- Phối hợp nhà trường - xã hội - gia đình.
+ Hồ Chí Minh khẳng định: "Giáo dục trong nhà trường chỉ là một phần, cịn
cần có sự giáo dục ngồi xã hội, trong gia đình để giúp cho việc giáo dục trong
nhà trường được tốt hơn".
Ngày 31-10-1955, khi miền Bắc đã giải phóng, Hồ Chí Minh viết: "Tơi
cũng mong các gia đình liên lạc chặt chẽ với nhà trường, giúp nhà trường giáo
dục và khuyến khích con em chăm chỉ học tập, sinh hoạt lành mạnh và hăng hái
giúp ích nhân dân".
+ Các đoàn thể là một yếu tố quan trọng trong việc đào tạo thế hệ trẻ, nhất là
Đoàn thanh niên. Vì vậy, Hồ Chí Minh viết: Trường học, gia đình và đoàn thể
thanh niên cần phải chú ý đến giáo dục tư tưởng, thái độ, hoạt động và sinh hoạt
hàng ngày của thanh niên để kịp thời khuyến khích, uốn nắn, sửa chữa. Trường
học, gia đình và các đồn thể thanh niên phải liên hệ chặt chẽ trong việc giáo
dục thanh niên.
- Thực hiện dân chủ, bình đẳng trong giáo dục.
+ Hồ Chí Minh dạy: "Trong trường cần có dân chủ. Đối với mọi vấn đề, thầy và
trò cùng nhau thảo luận, ai có ý kiến gì đều thật thà phát biểu. Điều gì chưa
thơng suốt, thì hỏi, bàn cho thơng suốt. Dân chủ nhưng trị phải kính thầy, thầy
phải q trị, chứ khơng phải là "cá đối bằng đầu". Đồng thời thầy và trò cần
giúp đỡ những anh chị em phục vụ cho nhà trường. Các anh chị em nhân viên
thì nên thi đua sao cho cơm lành canh ngọt để cho học sinh ăn no, học tốt".
11


+ "Giáo dục là sự nghiệp của quần chúng. Cần phải phát huy đầy đủ dân chủ xã
hội chủ nghĩa, xây dựng quan hệ thật tốt, đoàn kết chặt chẽ giữa thầy và thầy,
giữa thầy và trò, giữa học trò với nhau, giữa cán bộ các cấp, giữa nhà trường và
nhân dân để hồn thành thắng lợi nhiệm vụ đó".

*/ Phương pháp giáo dục
- Giáo dục phải xuất phát và bám chắc mục tiêu giáo dục.
Người dạy: "Cách dạy trẻ, cần làm cho chúng biết: Yêu Tổ quốc, thương đồng
bào, chuộng lao động, giữ kỷ luật, biết vệ sinh, học văn hóa". "Chúng ta phải
sửa đổi cách dạy cho hợp với sự đào tạo nhân tài kháng chiến và kiến quốc".
- Giáo dục là một khoa học.
Người nói: "Giáo dục nhi đồng là một khoa học", do vậy, cách dạy trẻ
"phải giữ tồn vẹn cái tính vui vẻ, hoạt bát, tự nhiên, tự động, trẻ trung của
chúng (chớ nên làm cho chúng hóa ra những "người già sớm". Nhiều thư các
cháu gửi cho Bác Hồ, viết như người lớn viết; đó là một triệu chứng già sớm nên
tránh)". Ở bậc tiểu học, cách dạy phải nhẹ nhàng vui vẻ, chớ gị ép thiếu nhi vào
khn khổ của người lớn. Phải đặc biệt chú ý giữ gìn sức khỏe cho các cháu.
- Phải biết kết hợp học tập với việc chơi, dạy từ dễ đến khó.
+ Với trẻ nhỏ thì làm sao trong lúc học, cũng cần cho chúng vui, trong lúc vui
cũng cần làm cho chúng học. Ở trong nhà, ở nhà trường, ở xã hội, chúng đều vui
đều học. Muốn vậy thì các ban phụ trách nhi đồng cần phải liên lạc mật thiết với
cha mẹ và thầy giáo của nhi đồng.

12


+ Hồ Chí Minh dạy: "Thanh niên phải chuyên tâm học hành và cơng tác, nhưng
cũng cần có vui chơi. Vui chơi lành mạnh là một bộ phận trong sinh hoạt của
thanh niên… Trong vui chơi cũng cần có giáo dục. Cần có những thứ vui chơi
văn hóa, thể dục có tính chất tập thể và quần chúng".
+ Theo Hồ Chí Minh thực hiện giáo dục khơng thể tùy tiện… Giáo dục cũng
phải theo hoàn cảnh, điều kiện. Phải ra sức làm khơng được vội… Làm phải có
kế hoạch, có từng bước. Việc gì cũng phải từ nhỏ dần dần đến to, từ dễ dần dần
đến khó, từ thấp dần dần đến cao. Một chương trình nhỏ mà thực hành được hẳn
hoi, hơn là một trăm chương trình to tát mà làm không được.

- Giáo dục thế hệ trẻ phải thực hiện phương pháp nêu gương.
+ Thầy nêu gương cho trị. Hồ Chí Minh dạy: "Tri thức phải dễ hiểu, dễ nhớ, học
mau. Ngồi tri thức phải có đạo đức cách mạng. Thầy giáo phải làm kiểu mẫu
cho các cháu. Làm được như thế là làm tròn được nhiệm vụ".
+ Học tập qua các gương sản xuất, chiến đấu. Khi nói với học sinh Trường đại
học nhân dân, Người nói: "Trường này là trường đại học nhân dân, các cháu học
với các thầy giáo, đồng thời phải học nhân dân. Trong bộ đội ta, trong dân công
và những ngành hoạt động khác, có nhiều thanh niên gương mẫu… Mong các
cháu noi theo những thanh niên kiểu mẫu ấy… để xứng đáng là lớp đầu tầu của
Trường đại học nhân dân, để rèn luyện thành chủ nhân xứng đáng tương lai của
nước nhà".
- Giáo dục phải gắn liền với thi đua.

13


+ Hồ Chí Minh dạy: Đồng bào ta đang có phong trào thi đua sôi nổi: "Đại
phong", "Duyên Hải", "Ba nhất", "Thành công". Vậy, các nhà trường cũng nên
phát động một phong trào thi đua "2 tốt" - tức là dạy thật tốt, học thật tốt.
+ Hồ Chí Minh khuyên các cháu học sinh "Các cháu nên thi đua, thi đua học tập,
thi đua trong mọi việc để trở nên những nhi đồng có tổ chức, có kỷ luật, có sáng
kiến, có lực lượng".
1.2.4. Về đội ngũ giáo viên
Phải khơng ngừng nâng cao đảng trí, quan tâm xây dựng đội ngũ giáo
viên vì khơng có giáo viên thì khơng có giáo dục. Trong thư gửi hội nghị giáo
dục toàn quốc (tháng 3-1955), Người viết: “Trách nhiệm nặng nề và vẻ vang
của người thầy dạy học là: chăm lo dạy dỗ con em của nhân dân thành công dân
tốt, người lao động tốt, người chiến sĩ tốt, người cán bộ tốt của nước nhà”.
Người cịn nói: “Các thầy giáo có nhiệm vụ nặng nề và vẻ vang là đào tạo cán
bộ cho dân tộc. Vậy giáo dục cần nhằm vào mục đích là thật thà phụng sự nhân

dân. Các cháu thì học tập cần gắn liền với thực hành để mai sau thực hiện mục
đích cao quý: thật thà phụng sự nhân dân”. Phải xây dựng đội ngũ giáo viên có
phẩm chất yêu nghề; phải có đạo đức có đạo đức cách mạng; phải n tâm cơng
tác, đồn kết; phải giỏi về chuyên môn, thuần thục về phương pháp. Người đi
giáo dục cũng phải được giáo dục, phải học thêm mãi, học khơng bao giờ đủ,
cịn sống cịn phải học.
Ngồi ra việc giáo dục cán bộ, đảng viên là vấn đề đã được Hồ Chí minh
đặc biệt quan tâm trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng của người. Nếu
nâng cao dân trí là mục tiêu của giáo dục với các tầng lớp nhân dân thì nâng cao
đảng trí phải là mục tiêu giáo dục đối với cán bộ đảng viên. Người đỏi hỏi cán
bộ, đảng viên phải nâng cao sự tu dưỡng về chủ nghĩa Mác –Lênin để giữ vững

14


lập trường, quan niệm, phương pháp chủ nghĩa Mác – Lênin và tổng hợp những
kinh nghiệm của Đảng ta, phân tích một cách đúng đắn về đặc điểm của nước ta.

CHƯƠNG 2. VẬN DỤNG QUAN ĐIỂM HỒ CHÍ MINH VỀ VĂN HĨA
GIÁO DỤC VÀO CƠNG CUỘC ĐỔI MỚI CĂN BẢN VÀ TOÀN DIỆN NỀN
GIÁO DỤC Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
2.1. Thực trạng nền giáo dục Việt Nam hiện nay
2.1.1. Thành tựu
Thứ nhất, nhu cầu học tập của nhân dân được đáp ứng tốt hơn, điều này
thể hiện ở những con số thống kê trong những năm vừa qua.
Hiện nay, hệ thống giáo dục ở nước ta đã khá hoàn chỉnh từ bậc mầm non
đến sau đại học; hầu hết các bản, làng, xã, phường đều có trường lớp tiểu học;
trường trung học cơ sở được xây dựng ở các xã hoặc cụm liên xã; trường trung
học phổ thông được xây ở các huyện, một số huyện có 2 - 3 trường. Hệ thống
giáo dục ở nước ta về cơ bản đã đáp ứng được như cầu học tập của nhân dân.

Đến nay, hầu hết người dân trong độ tuổi đi học đều được đến trường.
Các trường Trung cấp chuyên nghiệp được củng cố và phát triển, mở rộng
quymô đào tạo, cơ cấu ngành nghề đào tạo đang từng bước đáp ứng nhu cầu
phát triển kinh tế - xã hội. Công tác dạy nghề phát triển mạnh mẽ. Năm 2015, cả
nước có khoảng 2300 cơ sở dạy nghề (kể cả các trường trung cấp nghề và cao

15


đẳng nghề). Quy mô đào tạo nghề dưới một năm vào khoảng 1.268.150 người, ở
bậc trung cấp nghề, cao đẳng nghề là 394.350.
Thứ hai, Nhà nước đặc biệt quan tâm đến vấn đề giáo dục, thường xuyên
cải cách giáo dục về cả chương trình học và phương pháp học.
Kiên trì đường lối phát triển giáo dục như là một bộ phận quan trọng của
công cuộc đổi mới, Trung ương đã ra Nghị quyết 29 đổi mới căn bản toàn diện
nền giáo dục với tinh thần chủ đạo là chuyển từ phát triển số lượng sang phát
triển chất lượng, với khẩu hiệu thực học, thực nghiệp để giáo dục con người Việt
Nam, thế hệ trẻ Việt Nam và nguồn nhân lực chất lượng cao theo Nghị quyết
Đại hội XI đề ra.
Công tác quản lý giáo dục có bước chuyển biến tích cực theo hướng khắc
phục các tiêu cực trong ngành, chuẩn hóa đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lý
giáo dục, đổi mới cơ chế tài chính trong ngành giáo dục; tăng cường phân cấp
quản lý giáo dục nhằm tăng quyền tự chủ và tự chịu trách nhiệm cho các địa
phương và cơ sở giáo dục; ứng dụng rộng rãi cơng nghệ thơng tin truyền thơng
hình thành giám sát xã hội đối với chất lượng giáo dục; đẩy mạnh cải cách hành
chính trong tồn ngành; mở rộng mơi trường giáo dục thân thiện.
Đề án đổi mới chương trình, sách giáo khoa giáo dục phổ thông, đồng
thời chỉ đạo đổi mới đồng bộ cách tiếp cận và thực hiện chương trình giáo dục
phổ thông hiện hành theo hướng chuyển mạnh từ phương thức giáo dục nặng về
trang bị kiến thức một chiều sang chú trọng phát triển phẩm chất, năng lực

người học.
Mới đây nhất, Bộ giáo dục đào tạo đã quyết định đổi mới phương thức kì
thi tốt nghiệp trung học phổ thơng và kì thi đại học thành kì thi trung học phổ
16


thơng quốc gia. Bước đầu đã có những kết quả nhất định như tiết kiệm chi phí đi
lại cho gia đình thí sinh, đảm bảo tính liên kết chặt chẽ giữa đại học và trung học
phổ thơng… Kì thi trung học phổ thông tiếp theo, Bộ Giáo dục và đào tạo sẽ tiếp
tục có những đổi mới để nâng cao chất lượng đầu vào cho các trường đại học.
Thứ ba, chất lượng giáo dục đã có chuyển biến bước đầu, dân trí dần
được nâng cao, chất lượng giáo viên cũng tăng lên.
Chất lượng giáo dục ở các cấp học và trình độ đào tạo có tiến bộ, trình độ
hiểu biết, năng lực tiếp cận tri thức của học sinh, sinh viên bước đầu được nâng
cao một bước. Phát triển giáo dục và đào tạo đã chuyển theo hướng đáp ứng
ngày càng tốt hơn nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội, khoa học và công nghệ,
từng bước đáp ứng nhu cầu của thị trường lao động.
Hầu hết nhà giáo có trình độ đào tạo đạt chuẩn và trên chuẩn, cụ thể: giáo
viên mầm non đạt 90%; giáo viên tiểu học đạt 97,8%; giáo viên trung học cơ sở
đạt 98,6%; giáo viên trung học phổ thơng đạt 97,5%... Trình độ tin học và ngoại
ngữ của đội ngũ nhà giáo đã được nâng lên (đặc biệt ở các cấp học cao và đối
với giảng viên). Về cơ bản đội ngũ nhà giáo có ý thức chính trị, phẩm chất đạo
đức nghề nghiệp tốt; hầu hết đều tận tuỵ với nghề, cần cù chịu khó, có tinh thần
trách nhiệm cao, sáng tạo và quyết tâm tự bồi dưỡng nâng cao năng lực để đáp
ứng yêu cầu nhiệm vụ.
Thứ tư, giáo dục Việt Nam đạt được một số kết quả quan trọng trong nâng
cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài.
Thành tựu to lớn đó của ngành giáo dục 70 năm qua gắn liền với kết quả
của các phong trào thi đua yêu nước, như lời dạy của Bác Hồ trong bức thư
Người gửi ngành giáo dục năm 1968: “Dù khó khăn đến đâu cũng phải thi đua

17


dạy tốt, học tốt”. Chỉ tính riêng trong giai đoạn 5 năm từ 2010 đến 2015, toàn
ngành giáo dục đã có 11 tập thể được Chủ tịch nước phong tặng danh hiệu Anh
hùng Lao động, 110 cá nhân được nhận danh hiệu Chiến sĩ thi đua toàn quốc, 79
Nhà giáo Nhân dân và hơn 1.000 Nhà giáo Ưu tú. Cùng với đó là biết bao thầy
giáo, cơ giáo ở vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo đang miệt mài, âm thầm,
sáng tạo, lặng lẽ vượt lên mọi khó khăn, bám trường, bám lớp để chăm lo, nuôi,
dạy các em học sinh thành người.
Cũng chính nhờ sự tận tâm, hết lịng vì học sinh của các thầy, các cơ và sự
nỗlực mạnh mẽ của các em học sinh, 5 năm qua, Việt Nam đã có 166 học sinh
tham dự các kỳ thi học sinh giỏi khu vực và quốc tế. 36 em đã đoạt Huy chương
Vàng, 52 em đoạt Huy chương Bạc, 51 em đoạt huy chương Đồng…
Với hơn 94% người Việt Nam biết chữ, Liên hợp quốc đã công nhận chỉ
số phát triển con người của Việt Nam, đến năm 2013, là 0,638 đứng thứ 121/190
nước và vùng lãnh thổ. Riêng về chỉ số giáo dục qua tiêu chí về người biết chữ,
chúng ta, đứng ở khoảng trung bình (đứng thứ 70-80) trong các nước thành viên
của Liên hợp quốc.

2.1.2. Hạn chế
Tuy nhiên, nền giáp dục nước ta vẫn còn nhiều hạn chế.
Một là, chất lượng, hiệu quả giáo dục và đào tạo còn thấp so với yêu cầu
phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, nhất là giáo dục đại học và giáo dục
nghề nghiệp.

18


Hai là, chương trình giáo dục cịn coi nhẹ thực hành, vận dụng kiến thức;

phương pháp giáo dục, kiểm tra, thi và đánh giá lạc hậu, thiếu thực chất; thiếu
gắn kết giữa đào tạo với nghiên cứu khoa học, sảnxuất, kinh doanh và nhu cầu
của thị trường lao động; chưa chú trọng đúng mức việc giáo dục đạo đức, lối
sống và kĩ năng làm việc.
Ba là, hệ thống giáo dục thiếu tính liên thơng giữa các trình độ đào tạo và
các phương thức giáo dục, chưa phù hợp với yêu cầu phát triển đất nước và hội
nhập quốc tế. Quản lí giáo dục và đào tạo cịn nhiều yếu kém, là nguyên nhân
của nhiều yếu kém khác, nhiều hiện tượng tiêu cực kéo dài trong giáo dục, gây
bức xúc xã hội.
Bốn là, đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lí giáo dục cịn nhiều bất cập về
chất lượng, số lượng và cơ cấu; một bộ phận chưa theo kịp yêu cầu đổi mới và
phát triển giáo dục, thiếu tâm huyết, thậm chí vi phạm đạo đức nghề nghiệp.
Năm là, đầu tư cho giáo dục và đào tạo chưa hiệu quả. Chính sách, cơ chế
tài chính cho giáo dục và đào tạo chưa phù hợp. Cơ sở vật chất kĩ thuật còn thiếu
và lạc hậu, nhất là ở vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn.
Sáu là, Có thể thấy rằng, tình trạng giáo dục thiên về "dạy chữ" lơi lỏng
về "dạy người" vẫn còn phổ biến. Bàn về công tác đào tạo, gần đây, tại diễn đàn
Hội nghị giáo dục, Thủ tướng Phan Văn Khải nhận xét: chất lượng đào tạo của
ta cịn yếu, đào tạo ít gắn với sản xuất và đời sống, với nghiên cứu khoa học.
"Giáo dục lao động trong nhà trường là một khâu chủ yếu trong toàn bộ sự
nghiệp giáo dục xã hội chủ nghĩa…" như lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh giờ
đây đã trở thành xa vời đối với nhiều trường phổ thơng, thay vào đó là "dạy
chay", "học chay", dạy thêm, học thêm tràn lan, làm cho học sinh khơng cịn
thời gian để nghỉ ngơi, giải trí. Nhu cầu học thêm bị lợi dụng bởi một bộ phận
19


giáo viên với động cơ không trong sáng. Nhiều giáo viên dạy khơng sâu sát
chương trình, thậm chí theo như lời của một cán bộ lâu năm trong ngành Giáo
dục thì cách dạy quá hời hợt, cứ y như "chuồn chuồn đạp nước" nhằm ép học

sinh đi học thêm, bắt học sinh học thêm để thu tiền thông qua nhu cầu học thêm
giả tạo, dưới hình thức "tự nguyện".
2.2. Giải pháp nâng cao vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh cơng cuộc
đổi mới căn bản và tồn diện nền giáo dụcViệt Nam hiện nay
Thực hiện tốt chính sách cơng bằng, dân chủ trong giáo dục, theo như lời
Bác vẫn nói: “ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành”. Tức là bảo
đảm cho mọi công dân quyền bình đẳng về quyền lợi và nghĩa vụ trong học tập
để mọi người, dù giàu nghèo đều có cơ hội học tập và thành đạt ngang nhau.
Giáo dục phải tôn trọng, phát triển cá tính, phải mở ra nhiều con đường,
nhiều hướng, tạo nhiều cơ hội lựa chọn cho thế hệ trẻ phát triển tài năng, bồi
dưỡng nhân tài.
Đặc biệt chú ý đến giáo dục nhân cách và phương pháp tự học, phát huy
khả năng tư duy sáng tạo cho học sinh, sinh viên.
Các trường từ phổ thông đến đại học cần giáo dục cho học sinh, sinh viên
cólịng ham mê khoa học và rèn luyện thói quen tự học, tự đọc, tự tìm thơng tin
để nâng cao sự hiểu biết.
Tiếp tục đẩy mạnh việc đổi mới quản lý giáo dục, nhất là việc quản lý
chấtlượng đào tạo ở các cấp học, bậc học để khắc phục dần tình trạng "học giả,
bằng thật".

20


Chú trọng đổi mới giáo dục phù hợp với tình hình đất nước, đào tạo đội
ngũ giáo viên “vừa hồng vừa chuyên” để làm nền móng cho giáo dục.
KẾT LUẬN
Có thể nói, tư tưởng giáo dục Hồ Chí Minh là sự kế thừa, tiếp thu có chọn
lọc, sáng tạo và phê phán từ các tiền đề: Một là, chủ nghĩa yêu nước, truyền
thống văn hoá, giáo dục và tinh thần nhân ái Việt Nam, Hai là, triết lý giáo dục
phương Đông, đặc biệt là triết lý nhân sinh của Nho, Phật, Lão và Ba là, những

tư tưởng tiến bộ thời kỳ cận đại. Nhưng tiền đề quan trọng nhất, cái tạo nên sự
phát triển về chất trong tư tưởng giáo dục Hồ Chí Minh là chủ nghĩa Mác Lênin. Trên cơ sở đó và cùng với q trình hoạt động thực tiễn cách mạng sinh
động, phong phú của mình, Hồ Chí Minh đã đưa ra quan điểm hết sức sâu sắc và
mới mẻ về vai trị, mục đích, nội đung và phương pháp giáo dục.
Nhận thức sâu sắc về vai trị của giáo dục, Hồ Chí Minh đã gắn bó cả
cuộc đời mình với việc chăm lo, mở mang và xây dựng một nền giáo dục mới,
nền giáo dục xã hội chủ nghĩa - một nền giáo dục mà mọi người đều có cơ hội
phát huy khả năng sáng tạo, mọi người đều được học hành, không phân biệt giai
cấp, tuổi tác, trình độ, giới tính... Hơn 50 năm qua, tư tưởng Hồ Chí Minh về
phương châm, chiến lược,mục đích, nội dung, phương pháp giáo dục - đào tạo
con người luôn soi sáng sự nghiệp trồng người ở Việt Nam. Tư tưởng đó là
những bài học, những kinh nghiệm thực tiễn giáo dục hết sức sinh động, thiết
thực và hiệu quả đối với người làm cơng tác giáo dục nói riêng, ngành giáo dục
nói chung hiện nay.. Đúng như Nghị quyết UNESCO đánh giá: "Sự đóng góp
quan trọng về nhiều mặt của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong các lĩnh vực văn hoá,
giáo dục và nghệ thuật là kết tinh của truyền thống hàng ngàn năm của nhân dân
Việt Nam và những tư tưởng của Người là hiện thân của những khát vọng của
các dân tộc trong việc khẳng định bản sắc dân tộc của mình và tiêu biểu cho việc
thúc đẩy sự hiểu biết lẫn nhau”.
21


Chúng ta hồn tồn có thể tin tưởng tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa
giáo dục từng góp phần mang lại thắng lợi cho cách mạng Việt Nam trong lịch
sử, sẽ tiếp tục phát huy tác dụng trong bối cảnh đất nước đẩy mạnh cơng nghiệp
hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế.

22



DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ giáo dục và đào tạo, Giáo trình tư tưởng Hồ Chí Minh, nxb Chính Trị
Quốc Gia, 2016
2. Hồ Chí Minh, Tồn tập (2000), tập 10, Nxb CTQG, Hà Nội.
3. Hồ Chí Minh, Tồn tập (2000), tập 11, Nxb CTQG, Hà Nội.
4. Hồ Chí Minh, Toàn tập (2002), tập 4, Nxb CTQG, Hà Nội.

23



×