MỤC LỤC
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Giữ gìn đạo đức trong tình hình mới trước hết phải quán triệt tư tưởng và
tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh. Phải thấy được mối quan hệ giữa đạo đức với
kinh tế, trong đó có quan điểm phát triển kinh tế là điều kiện thiết yếu, là cơ sở để
xây dựng một xã hội văn minh, phát triển văn hóa, đạo đức. Con người có đạo đức,
có văn hóa lại là động lực để phát triển kinh tế. Phải thấy được đặc điểm của nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay vừa có hội nhập,
hợp tác vừa có đấu tranh. Biết phát huy, vận dụng mặt tích cực và đề phịng, hạn
chế mặt tiêu cực của kinh tế thị trường. Xây dựng đạo đức mới trong tình hình hiện
nay là biết khai thác mặt tích cực, đấu tranh kiên quyết loại bỏ mặt tiêu cực; phải
chống khát vọng làm giàu bằng mọi cách, tâm lý chạy theo đồng tiền, lấy đồng tiền
làm giá trị cao nhất; chạy theo quyền lực với thói ích kỷ, dối trá, lừa lọc, xu nịnh...
Chính vì vậy đề tài” thực trạng xây dựng đạo đức, văn hóa và con người Việt
Nam hiện nay “ luôn là đề tài nhức nhối. Đó cũng chính là lý do em chọn đề tài
này làm đề tài tiểu luận.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Nhiệm vụ của đề tài là nghiên cứu nhằm tìm hiểu thực trạng xây dựng đạo
đức, văn hóa và con người Việt Nam hiện nay. Từ đó, tìm ra những thành tựu để
phát huy và những hạn chế cần phải khắc phục. Rút ra bài học kinh nghiệm nhằm
mục đích đảm bảo cho cuộc sống ấm no, n bình của người dân. Xây dựng một
Đảng trong sạch và vững mạnh.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
2
Là những nguyên tắc mang tính quy luật về sự vận dụng, phát triển sáng tạo
tư tưởng của Người vào thực tiễn cách mạng nước ta hiện nay. Những nguyên tắc
này phản ánh sự tác động, ảnh hưởng lẫn nhau giữa sự vận dụng, phát triển tư
tưởng Hồ Chí Minh với các điều kiện, yếu tố (nhân tố) cơ bản trong hoàn cảnh
mới. Sự vận dụng, phát triển sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh vào thực tiễn cách
mạng Việt Nam hiện nay, trước hết phụ thuộc vào sự tác động, ảnh hưởng của một
số nhân tố cơ bản như: Nhận thức của chúng ta về tư tưởng Hồ Chí Minh; khả
năng vận dụng lập trường, quan điểm, phương pháp Mác - Lênin của chúng ta vào
việc áp dụng, phát triển sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh; thực trạng vận động, phát
triển của nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa; thực trạng hệ
thống tổ chức chính trị - xã hội, đặc biệt là năng lực lãnh đạo của Đảng, hiệu lực
quản lý của Nhà nước và sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân; thành tựu phát
triển khoa học - công nghệ, phát triển lý luận nền kinh tế thị trường nhiều cạnh
tranh.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Là đạo đức, là văn hóa và là con người trong xã hội hiện đại.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
4.1. Cơ sở lý luận
Dựa trên quá trình nghiên cứu, học tập tư tưởng Hồ Chí Minh, cũng chính là
q trình người học nhận thức ngày càng sâu sắc bản chất cách mạng, khoa học và
sức sống mãnh liệt của tư tưởng Hồ Chí Minh; đồng thời, góp phần xây dựng, củng
cố, phát triển những nhận thức đúng đắn của họ về chủ nghĩa Mác - Lênin.
Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng ta đã khẳng
định lấy chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng và
kim chỉ nam cho hành động của Đảng. Vì vậy, phải coi trọng việc bảo vệ và phát
3
triển chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, kiên định nền tảng tư tưởng
của Đảng ta.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Muốn hiểu biết đạo đức, văn hóa, con người trong tư tưởng Hồ Chí Minh,
thì phải hiểu lịch sử phát sinh, phát triển của tư tưởng đó; ngược lại có nắm được
bản chất, quy luật trong tư tưởng Hồ Chí Minh, thì mới nhận thức được lịch sử của
tư tưởng đó một cách đúng đắn và sâu sắc. Phương pháp lơ gích phải dựa trên các
tài liệu lịch sử để khái quát và chứng minh bản chất, quy luật của sự vật hiện
tượng; còn phương pháp lịch sử muốn đạt kết quả đúng đắn, sâu sắc thì cần phải
nắm vững cái lơ gích của sự vật. Vì vậy q trình nghiên cứu, học tập tư tưởng Hồ
Chí Minh phải kết hợp chặt chẽ cả hai phương pháp đó. Đồng thời vận dụng tổng
hợp phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch
sử.
Bên cạnh việc tuân thủ các phương pháp mang tính chun ngành nói trên,
thì việc vận dụng các phương pháp liên ngành khác như: phân tích tổng hợp, thống
kê, so sánh, điều tra xã hội học, tiếp xúc với các nhân chứng lịch sử... cũng là
những phương pháp cần thiết trong nghiên cứu, học tập tư tưởng Hồ Chí Minh.
5. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
Quá trình nghiên cứu, học tập tư tưởng Hồ Chí Minh, cũng chính là quá
trình người học nhận thức ngày càng sâu sắc bản chất cách mạng, khoa học và sức
sống mãnh liệt của tư tưởng Hồ Chí Minh; đồng thời, góp phần xây dựng, củng cố,
phát triển những nhận thức đúng đắn của họ về chủ nghĩa Mác - Lênin.
Theo Hồ Chí Minh, học tập chủ nghĩa Mác - Lênin là học tập tinh thần cách
mạng, khoa học, phương pháp biện chứng duy vật để giải quyết những vấn đề
trong thực tiễn đặt ra; đồng thời phải từ tổng kết thực tiễn mà bổ sung, phát triển lý
luận. “Có như thế, chúng ta mới có thể dần dần hiểu được quy luật phát triển của
4
cách mạng Việt Nam, định ra được những đường lối, phương châm, bước đi cụ thể
trong việc xây dựng đạo đức, văn hóa con người trong xã hội mới.
Hồ Chí Minh cịn căn dặn: “Lý luận khơng phải là một cái gì cứng nhắc, nó
đầy tính chất sáng tạo; lý luận luôn luôn cần được bổ sung bằng những kết luận
mới rút ra từ trong thực tiễn sinh động” Vì vậy, ngay trong quá trình học tập, lao
động chúng ta phải luôn luôn so sánh, đối chiếu và tập vận dụng sáng tạo những tri
thức, lý luận đang học vào thực tiễn, cần phát huy tinh thần độc lập, tự chủ, vận
dụng và phát triển sáng tạo những điều đã học từ tư tưởng Hồ Chí Minh để vận
dụng xây dựng một nền văn hóa văn minh, đạo đức con người “ càn, kiệm, liêm,
chính, trí, cơng vơ tư “ để xã hội Việt Nam ngày càng giàu đẹp hơn, văn minh hơn.
6. Kết cấu của bài tiểu luận
Bài tiểu luận ngồi phần mục lục cịn 3 phần chính bao gồm:
-
-
Mở đầu
Nội dung
Chương 1: Hồ Chí Minh về đạo đức, văn hóa, con người
Chương 2: Thành tựu và hạn chế trong q trình xây dựng đạo đức,
văn hóa, con người.
Kết luận
5
CHƯƠNG 1
HỒ CHÍ MINH VỀ ĐẠO ĐỨC, VĂN HĨA, CON NGƯỜI VIỆT NAM
1.1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về các vấn đề chung của văn hóa.
1.1.1 Quan điểm về vị trí và vai trị của văn hóa trong đời sống xã hội.
Một là, văn hóa là đời sống tinh thần của xã hội, thuộc kiến trúc thượng
tầng.Ngay sau thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám Hồ Chí Minh đã đưa ra quan
điểm này. Ở đây, Hồ Chí Minh đặt văn hóa ngang hàng với chính trị. kinh tế, xã
hội, tạo thành bốn vấn đề chủ yếu của đời sống xã bội và các vấn đề này có quan
hệ với nhau rất mật thiết. Cho nên trong công cuộc xây dựng đất nước, cả bốn vấn
đề này phải được coi trọng như nhau.
Trong quan hệ với chính trị xã hội: Hồ Chi Minh cho rằng, chính trị, xã hội
có được giải phóng thì văn hóa mới được giải phóng. Chính trị giải phóng sẽ mở
đường cho văn hóa phát triển. Người nói: "Xã hội thế nào, văn nghệ thế ấy... Dưới
chế độ thực dân và phong kiến, nhân dân ta bị nơ lệ, thì văn nghệ cũng bị nơ lệ, bị
tồi tàn, khơng thể phát triển được". Để văn hóa phát triển tự do, phải làm cách
mạng chính trị trước, ở Việt Nam, tiến hành cách mạng chính trị thực chất là tiến
hành cuộc cách mạng giải phóng dân tộc để giành chính quyền, giải phóng chính
trị, giải phóng xã hội, từ đó giải phóng văn hóa, mở đường cho văn hóa phát triển.
Trong quan hệ với kinh tế, Hồ Chí Minh chỉ rõ kinh tế là thuộc về cơ sở hạ
tầng, là nền tảng của việc xây dựng văn hóa. Từ đó Người đưa ra luận điểm: Phải
chú trọng xây dựng kinh tế, xây dựng cơ sở hạ tầng để có điều kiện xây dựng và
phát triển văn hóa. Người viết: Văn hóa là một kiến trúc thượng tầng: nhưng cơ sở
hạ tầng của xã hội có kiến thiết rồi, văn hóa mới kiến thiết được và có đủ điêu kiện
phát triển được.
6
Như vậy, vấn đề đặt ra ở đây là kinh tế phải đi trước một bước. Người viết:
"Muốn tiến lên chủ nghĩa xã hội thì phải phát triển kinh tế và văn hóa. Vì sao
khơng nói phát triển văn hóa và kinh tế. Tục ngữ ta có câu: có thực mới vực được
đạo, vì thế kinh tế phải đi trước".
Hai là, văn hóa khơng thể đứng ngồi mà phải ở trong kinh tế và chính trị,
phải phục vụ nhiệm vụ chính trị và thúc đẩy sự phát triển của kinh tế.
Đứng trên lập trường của chủ nghĩa Mác-Lênin,Hồ Chí Minh không nhấn
mạnh một chiều về sự phụ thuộc "thụ động” của văn hóa vào kinh tế, chờ cho kinh
tế phát triển xong rồi mới phát triển văn hóa. Người cho rằng, văn hóa có tính tích
cực, chủ động, đóng vai trò to lớn như một động lực thúc đẩy sự phát triển của
kinh tế và chính trị. Người nói: "Trình độ văn hóa của nhân dân nâng cao sẽ giúp
cho chúng ta đẩy mạnh công cuộc khôi phục kinh tế, phát triển dân chủ. Nâng cao
trình độ văn hóa của nhân dân cũng là một việc cần thiết để xây dựng nước ta
thành một nước hịa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh".
Văn hóa phải ở trong kinh tế và chính trị, có nghĩa là văn hóa phải tham gia
thực hiện những nhiệm vụ chính trị. thúc đẩy xây dựng và phát triển kinh tế. Quan
điểm này không chỉ định hướng cho việc xây dựng một nền văn hóa mới ở Việt
Nam mà cịn định hướng cho mọi hoạt động văn hóa. Trong kháng chiến chống
thực dân Pháp, quan điểm 'Văn hóa cũng là một mặt trận", ''Kháng chiến hóa văn
hóa, văn hóa hóa kháng chiến"... mà Người đưa ra đã tạo nên một phong trào văn
hóa văn nghệ sơi động chưa từng thấy. Văn hóa khơng đứng ngoài mà ở trong cuộc
kháng chiến thần thánh của dân tộc. Và cuộc kháng chiến trở thành cuộc kháng
chiến có tính văn hóa. Chính điều này đã đem lại sức mạnh vượt trội cho nhân dân
Việt Nam đánh thắng: cuộc chiến tranh xâm lược của thực dân Pháp và đế quốc
Mỹ.
7
Văn hóa phải ở trong kinh tế và chính trị, điều đó cũng có nghĩa là kinh tế và
chính trị cũng phải có tính văn hóa, điều mà chủ nghĩa xã hội và thời đại đang đòi
hỏi. Ngày nay, trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội, dưới ánh sáng tư tưởng
Hồ Chí Minh, Đảng ta chủ trương gắn văn hóa với phát triển, chủ trương đưa các
giá trị văn hóa thấm sâu vào kinh tế và chính trị, làm cho văn hóa thực sự vừa là
mục tiêu, vừa là động lực của công cuộc xây dựng và phát triển đất nước.
Ngay sau khi nước Việt Nam Dân chủ Cộng hịa ra đời, Hồ Chí Minh đã bắt
tay ngay vào việc xây dựng một nền văn hóa mới. Nhiều vấn đề về văn hóa đã
được đặt ra và giải quyết ngay trong những ngày đầu của chính quyền cách mạng,
như: giải quyết nạn dốt, giáo dục nhân dân tinh thần cần, kiệm, liêm, chính: cấm
hút thuốc phiện, lương giáo đồn kết và tự do tín ngưỡng... Như vậy nền văn hóa
mới ra đời đã gắn liền với nước Việt Nam mới. Nền văn hóa Việt Nam trong thời
kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp là nền văn hóa kháng chiến, kiến quốc, nền
văn hóa dân chủ mới. Khi miền Bắc bước vào thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
nền văn hóa được xây dựng là nền văn hóa xã hội chủ nghĩa.
1.1.2 Chức năng của văn hóa
Chức năng của văn hóa rất phong phú, đa dạng. Hồ Chí Minh cho rằng, văn
hóa có ba chức năng chủ yếu sau đây:
Một là, bồi dưỡng tư tưởng đúng đắn và những tình cảm cao đẹp.
Tư tưởng và tình cảm là hai vấn đề chủ yếu nhất của đời sống tinh thần của
con người. Tư tưởng có thể đúng đắn hoặc sai lầm, tình cảm có thể thấp hèn hoặc
cao đẹp. Chức năng cao quý nhất của văn hóa là phải bồi dưỡng, nêu cao tư tưởng
đúng đắn và tình cảm cao đẹp cho nhân dân, loại bỏ được những sai lầm và thấp
hèn có thể có trong tư tưởng, tình cảm mỗi con người. Tư tưởng và tình cảm rất
8
phong phú, văn hóa phải đặc biệt quan tâm đến những tư tưởng và tình cảm lớn,
chi phối đời sống tinh thần của mỗi con người và cả dân tộc.
Lý tưởng là điểm hội tụ của những tư tưởng lớn của một Đảng, một dân tộc.
Đối với nhân dân Việt Nam đó là lý tưởng độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa
xã hội. Một khi lý tưởng này phai nhạt thì khơng thể nói đến thắng lợi của sự
nghiệp cách mạng. Chính vì vậy Hồ Chí Minh đã chỉ ra chức năng hàng đầu của
văn hóa là phải làm thế nào cho ai cũng có lý tưởng tự chủ độc lập, tự do; phải làm
thế nào cho ai cũng "có tinh thần vì nước qn mình, vì lợi ích chung và quên lợi
ích riêng". Tình cảm lớn, theo Hồ Chí Minh là lịng u nước, thương dân, thương
u con người yêu tính trung thực, chân thành, thủy chung, ghét những thói hư tật
xấu, sự sa đọa..
Hai là, mở rộng hiểu biết, nâng cao dân trí.
Nói đến văn hóa là phải nói đến dân trí. Đó là trình độ hiểu biết, là vốn kiến
thức của người dân. Nâng cao dân trí phải bắt đầu từ chỗ biết đọc, biết viết để có
thể hiểu biết các lĩnh vực khác của đời sống xã hội, như: Kinh tế, chính trị, lịch sử,
khoa học — kỹ thuật, thực tiễn Việt Nam và thế giới... Vấn đề nâng cao dân trí
thực sự chỉ có thể thực hiện sau khi chính trị đã được giải phóng, tồn bộ chính
quyền đã về tay nhân dân.
Mục tiêu nâng cao dân trí của văn hóa trong từng giai đoạn cách mạng có
thể có những điểm chung và riêng. Song, tất cả đều hướng vào mục tiêu chung là
độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Nâng cao dân trí là để nhân dân có thể tham
gia sáng tạo và hưởng thụ văn hóa, góp phần cùng Đảng "biến một nước dốt nát,
cực khổ thành một nước văn hóa cao và đời sống tươi vui hạnh phúc"1. Đó cùng là
mục tiêu "dân giàu, nước mạnh, dân chủ công bằng, văn minh" mà Đảng ta đã vạch
ra trong công cuộc đổi mới.
9
Ba là, bồi dưỡng những phẩm chất, phong cách và lối sống đẹp, lành mạnh;
hướng con người đến chân, thiện, mỹ để hoàn thiện bản thân.
Phẩm chất và phong cách được hình thành từ đạo đức, lối sống, từ thói quen
của cá nhân và phong tục tập quán của cả cộng đồng. Phẩm chất và phong cách
thường có mối quan hệ gắn bó với nhau. Mỗi người thường có nhiều phẩm chất,
trong đó có phẩm chất chung và phẩm chất riêng, tùy theo nghề nghiệp, vị trí cơng
tác. Các phẩm chất thường được thể hiện qua phong cách, tức là lối sinh hoạt, làm
việc, lối ứng xử trong đời sống. Căn cứ vào yêu cầu của nhiệm vụ cách mạng, Hồ
Chí Minh đã đề ra những phẩm chất và phong cách cần thiết để mỗi người tự tu
dưỡng. Đối với cán bộ, đảng viên, Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm đến phẩm chất
đạo đức - chính trị. Bởi vì, nếu khơng có những phẩm chất này thì họ khơng thể
hồn thành được những nhiệm vụ cách mạng, khơng thể biến lý tưởng thành hiện
thực.
Những phẩm chất và phong cách tốt đẹp làm nên giá trị của con người. Văn
hóa giúp con người hình thành những phẩm chất phong cách và lối sống tốt đẹp,
lành mạnh thông qua phân biệt cái đẹp, lành mạnh với cái xấu xa. hư hòng, cái tiến
bộ với cải lạc hậu, bảo thủ. Từ đó giúp con người phấn đâu lảm cho cái tốt đẹp,
lành mạnh ngày càng tăng, càng nhiều, càng lạc hậu, bảo thủ, ngày càng giảm,
vươn tới cái chân, cái thiện, cái mỹ để hồn thiện bản thân. Với ý nghĩa đó Hồ Chí
Minh đã chỉ rõ: Phải làm thế nào cho văn hóa thấm sâu vào tâm lý quốc dân, nghĩa
là văn hóa phải sửa đổi được những tham nhũng, lười biếng, phù hoa xa xỉ văn hóa
phải soi đường cho quốc dân đi.
1.2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về vai trị và sức mạnh của đạo đức.
Trong tồn bộ cuộc đời, HCM luôn luôn quan tâm đến vấn đề đạo đức và
giáo dục đạo đức cách mạng cho cán bộ, đảng viên và thực sự Người đã làm 1
10
cuộc cách mạng trên lĩnh vực đạo đức ở Việt Nam với việc xây dựng một nền đạo
đức mới, đạo đức cách mạng.
Khi đánh giá vai trò của đạo đức CM, HCM coi đạo đức là nền tảng của
người Cm, cũng như gốc của cây, ngọn nguồn của sông suối. Việc chăm lo gốc,
nguồn của công việc là của Đảng, tồn dân, gia đình, con người trong xã hội.
Nhận thức sâu sắc vai trò của đạo đức cách mạng trong sự nghiệp giải phóng
dân tộc, trang đầu của tác phẩm Đường cách mạng viết năm 1927 Hồ Chí Minh đã
dành để viết về Tư cách người cách mạng. Người yêu cầu người cách mạng phải
biết hy sinh ít lịng ham muốn về vật chất, khơng ngại gian khổ khó khăn, thậm chí
có thể phải hy sinh tính mạng của mình cho sự nghiệp chung. Người cách mạng
phải rất khiêm tốn, không hiếu danh, không kiêu ngạo, cả quyết sửa lỗi mình, cẩn
thận mà khơng nhút nhát, nếu thấy việc đúng thì phải quyết tâm làm và phải chịu
trách nhiệm trước việc mình làm. Quần chúng tin và theo cách mạng trước hết họ
tâm phục đạo đức, gương hy sinh của người cách mạng. Họ thống nhất trong ý
thức đạo đức sẽ tạo sức mạnh vô địch trong hành vi đạo đức, có thể lấy nhân nghĩa
mà thắng hung tàn, đem trí nhân mà chế ước cường bạo.
Hồ Chí Minh coi đạo đức là gốc, là nền tảng của người cách mạng. Theo Hồ
Chí Minh thì đối với con người, sức có mạnh mới gánh được nặng và đi được xa,
người cách mạng phải có đạo đức cách mạng mới hồn thành nhiệm vụ cách mạng.
Người từng viết: “Cũng như sông thì có nguồn mới có nước, khơng có nguồn thì
sơng cạn. Cây phải có gốc, khơng có gốc thì cây héo. Người cách mạng phải có
đạo đức, khơng có đạo đức thì dù tài giỏi mấy cũng khơng lãnh đạo được nhân dân.
Vì sao đạo đức cách mạng lại là gốc, nền tảng và ngọn nguồn sức mạnh của
người cách mạng? Có nhiều lý do, song Hồ Chí Minh thường nhắc tới ba lý do cơ
bản sau:
11
- Sự nghiệp độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là sự nghiệp
cách mạng to lớn, rất khó khăn, chưa từng có trong lịch sử, hồn thành nó địi hỏi
khơng phải một mà nhiều thế hệ tận trung với nước tận hiếu với dân.
- Kẻ thù của cách mạng Việt Nam luôn là những tên phong kiến thực dân đế
quốc gian ác mất nhân tính, chúng ta khơng hy vọng vào lịng tốt, “sự rủ lịng
thương” của chúng để có độc lập cho Tổ quốc và tự do, hạnh phúc cho con người.
Để đạt được mục tiêu ấy, chi bằng con đường đấu tranh kiên cường, bằng chiến
đấu giành lấy, bằng sự hy sinh tất cả chứ nhất định không chịu làm nô lệ, khi đó
mỗi người phải nêu cao đạo đức cách mạng.
- Chủ nghĩa Mác - Lênin là cách mạng và khoa học. Đến với nó địi hỏi mỗi
người phải có quyết tâm cách mạng và tri thức khoa học, có cái tâm trong sáng và
cái đức cao đẹp. Đặc biệt, để hiện thực nó trong cuộc sống càng địi hỏi người cách
mạng khơng những có tâm sáng, đức cao thượng mà cịn cần có cái trí mẫn tuệ và
chỉ khi có cái đức thì mới đi đến được cái trí. Cái đức là cái bảo đảm cho người
cách mạng giữ vững được chủ nghĩa mà mình đã tin, đã hiểu và đang theo. Hồ Chí
Minh khơng chỉ địi hỏi mỗi người vừa hồng vừa chuyên mà cả Đảng phải “ là đạo
đức, là văn minh’'.
Nhờ những người cách mạng có và giữ vững đạo đức cách mạng, chèo lái
con thuyền cách mạng Việt Nam, đã đưa dân tộc ta thoát khỏi ách áp bức ngoại
bang, đang thốt đói giảm nghèo vươn lên tiến kịp các nước để sánh vai với các
cường quốc năm châu như Hồ Chí Minh mong đợi.
- Vai trị của đạo đức CM cịn thể hiện ở chỗ đó là thước đo lòng cao thượng
của con người.
- Là 1 hình thái ý thức xã hội, giá trị đạo đức tinh thần một khi được con
người tiếp nhận sẽ biến thành 1 sức mạnh vật chất.
12
- Có đạo đức CM thì khi gặp khó khăn, gian khổ, thất bại cũng k lùi bước,
chán nản,…; khi gặp thuận lợi và thành công cũng vẫn giữ tinh thần khiêm tốn, “
lo trước thiên hạ, vui sau thiên hạ”, không kèn cựa về mặt hưởng thụ, không công
thần, không quan liêu, không kiêu ngại,.. Trong điều kiện Đảng cầm quyền, Người
trăn trở với nguy cơ Đảng xa rời cuộc sống, xa rời quần chúng, rơi vào thối hóa,
biến chất. Vì vậy, Hồ Chí Minh u cầu Đảng phải "là đạo,đức, là văn minh".
Người thường nhắc lại ý của V.I.Lênin: đảng cộng sản phải tiêu biểu cho trí tuệ,
danh dự, lương tâm của dân tộc và thời đại. Trong Di chúc, người căn dặn: "Mỗi
đảng viên và cán bộ phải thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần kiệm
liêm chính, chí cơng vơ tư. Phải giữ gìn Đảng ta thật trong sạch, phải xứng đáng là
người lãnh đạo, là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân"
- Đạo đức là cái gốc của ng CM, khơng có nghĩa là tuyệt đối hóa mặt đạo
đức, coi nhẹ mặt tài, mà phải nhận thức đức và tài có mối quan hệ biện chứng với
nhau.
Hồ Chí Minh ln đặt đạo đức bên cạnh tài năng, gắn đức với tài, lời nói đi
đơi với hành động và hiệu quả trên thực tế Người nói: "Phải lấy kết quả thiết thực
đã góp sức bao nhiêu cho sản xuất và lãnh đạo sản xuất mà do ý chí cách mạng của
mình. Hãy kiên quyết chống bệnh nói sng, thói phơ trương hình thức, lối làm
việc khơng nhằm mục đích nâng cao sản xuất".
Như vậy, trong tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh, đức và tài, hồng và chuyên,
phẩm chất và năng lực thống nhất làm một. Trong đó: đức là gốc của tài; hồng là
gốc của chuyên; phẩm chất là gốc của năng lực. Tài thể hiện cụ thể của đức trong
hiệu quả hành động.
Như vậy, trong tư tưởng HCM, đạo đức CM là vũ khí mạnh mẽ, góp phần
quyết định và thắng lợi của sự nghiệp đấu tranh vì độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã
hội.
13
1.3. Tư tưởng Hồ Chí Minh trong xây dựng đạo đức văn hóa và con người mới
trong xã hội Việt Nam
Xây dựng con người là chiến lược hàng đầu của Cách mạng
Con người phải được đặt vào vị trí trung tâm của sự phát triển. Nó vừa nằm
trong chiến lược phát triển kinh tế- xã hội của đất nước với nghĩa rộng, vừa nằm
trong chiến lược giáo dục – đào tạo theo nghĩa hẹp. Người khẳng định :Muốn xây
dựng CNXH, trước hết cần có những con người XHCN. Hồ Chí Minh quan niệm
“Vì lợi ích mười năm thì phải trồng cây, vì lợi ích trăm năm thì phải trồng người.”
Để “trồng người”, có nhiều biện pháp, nhưng giáo dục – đào tạo là biện pháp quan
trọng bậc nhất. Bởi vì giáo dục tốt sẽ tạo ra tính thiện, đem lại tương lai tươi sáng
cho thế hệ trẻ. Ngược lại giáo dục tồi sẽ ảnh hưởng xấu đến thế hệ trẻ. Hồ Chí
Minh nói vai trị của giáo dục: Một dân tộc dốt là một dân tộc yếu:dốt thì dại,dại
thì hèn….Cho nên phải chống giặc dốt cũng như chống giặc đói, giặc ngoại xâm,
giặc nội xâm. Muốn có cán bộ tốt, công dân tốt, phải “trồng” và dĩ nhiên là rất
công phu. Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ cho chúng ta thấy mối quan hệ biện chứng
giữa giáo dục với cách mạng giữa giáo dục với sự nghiệp giải phóng dân tộc và
kiến thiết đất nước: “muốn giữ vững nền độc lập, muốn làm cho dân mạnh, nước
giàu mọi người Việt Nam đều phải hiểu biết quyền lợi của mình, bổn phận của
mình, phải có kiến thức mới để có thể tham gia vào cơng cuộc xây dựng đất nước.
Vì thế, giáo dục có tầm quan trọng hàng đầu trogn chiến lược con người, bởi
giáo dục đào tạo nên chất người, nên nhân tài. Trong Nhật ký trong tù, Bác viết:
“Hiền dữ phải đâu là tính sẵn. Phần nhiều do giáo dục mà nên”. Chiến lược giáo
dục là hạt nhân trong chiến lược con người, cung cấp trí thức mới, đào tạo nên
nhân tài cho cho đất nước. Gửi thư cho học sinh nhân ngày khai trương đầu tiên
của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, tháng 9/1945, Bác viết:”Ngày nay, các cháu
được cái may mắn hơn cha anh là được hưởng một nền giáo dục của một nước độc
14
lập, một nền giáo dục nó sẽ đào tạo các cháu nên những người cơng dân có ích cho
nước Việt Nam, một nền giáo dục làm phát triển hoàn toàn năng lực sẵn có của các
cháu…Đó là một nền giáo dục “vì lợi ích trăm năm” của đất nước.
Trong những năm vừa qua, một bộ ph ận không nhỏ cán bộ, đảng viên, kể cả
một số cán bộ chủ chốt các cấp, yếu kém cả về phẩm chất và năng lực… thối hóa,
biến chất về chính trị, tư tưởng, về đạo đức, lối sống, tệ quan liêu, tham nhũ ng,
lãng phí, có tư duy đổi mới, sáng tạo, có kiến thức chuyên môn, nghiệp vụ đ áp
ứng yêu cầu của thời kỳ đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa… Đại hội X đã
đề ra mục tiêu những năm tới của giáo dục và đào tạo là: Nâng cao chất lượng giáo
dục toàn diện, đổi mới cơ cấu tổ chức, nội dung, phương pháp d ạy và học, thực
hiện “chuẩn hóa, hiện đại hóa, xã hội hóa” chấn hưng nền giáo dục Việt Nam.
Nội dung và phương pháp giáo dục phải tồn diện, cả đức, trí, thể, mỹ, phải
đạo đức, lý tưởng và tình cảm cách mạng, lối sống xã hội chủ nghĩa lên hàng đầu.
Hai mặt đức, tài thống nhất với nhau, khơng tách rời nhau, trong đó “đức” là gốc,
là nền tảng cho tài năng phát triển. Phải kết hợp giữa nhận th ức và hành động, lời
nói với việc làm… Có như vậy mới có thể “học để làm người”. “Trồng người” là
công việc “trăm năm”, không th ể nóng vội “một sớm một chiều”, khơng thể làm
một lúc là xong, cũng không phải tùy tiện, đến đâu hay đến đó. Nhận thức và giải
quyết vấn đề này có ý nghĩa thường trực, bền bỉ trong suố t cuộc đời mỗi con
người, trong suốt thời kì quá độ lên CNXH. Vì vậy khơng được coi nhẹ, sao nhãng
sự nghiệp giáo dục. Theo tinh thần V.I Lênin: “ Học học nữa, học mãi” và của
Khổng Tử: “Học không biết chán, dạy khơng biết mỏi”, Hồ Chí Minh cho rằng:
“việc học khơng bao giờ cùng, cịn sống cịn phải học”. Cả cuộc đời của chủ tịch
Hồ Chí Minh là một hình mẫu con người nhân văn của thời đại mới. Trong con
người Hồ Chủ tịch là sự thống nhất giữa lòng yêu thương con người với lòng tin,
15
sự tơn trọng và ý chí cùng hành động triệt để giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội,
giải phóng con người.
16
CHƯƠNG 2
NHỮNG THÀNH TỰU VÀ HẠN CHẾ TRONG XÂY DỰNG ĐẠO ĐỨC ,
VĂN HÓA CON NGƯỜI
2.1. Những thành tựu đã đạt được trong quá trình xây dựng
2.1.1. Thành tựu trong công tác Đảng
Trong những năm qua, công tác tuyên truyền, giáo dục chính trị, tư tưởng có
đổi mới như coi trọng hơn nhiệm vụ xây dựng đạo đức trong cán bộ, đảng viên và
nhân dân; tập trung chỉ đạo có kết quả bước đầu Cuộc vận động "Học tập và làm
theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh", gắn với nhiệm vụ xây dựng, chỉnh đốn
Đảng; chủ động hơn trong đấu tranh chống "diễn biến hịa bình", bác bỏ các quan
điểm sai trái, luận điệu tuyên truyền của các thế lực thù địch.
Đa số cán bộ, đảng viên và nhân dân phấn khởi, tin tưởng vào Đảng, Nhà
nước, vào công cuộc đổi mới và triển vọng phát triển của đất nước; có ý thức rèn
luyện, nâng cao phẩm chất đạo đức, lối sống; có ý thức phục vụ nhân dân, được
nhân dân tin tưởng.
Thành tựu của 25 năm đổi mới là thành quả của toàn Đảng, toàn dân, toàn
quân, nhưng trước tiên là sự tập trung trí tuệ của Đảng, đã tập hợp sáng kiến, kinh
nghiệm thực tiễn từ cơ sở. Những chủ trương, quyết sách quan trọng về đổi mới
kinh tế, đổi mới chính trị, về mở cửa, hội nhập quốc tế,... có đóng góp rất quan
trọng của đội ngũ cán bộ lãnh đạo quản lý các cấp, nhất là cấp trung ương, có tác
dụng nêu gương rất lớn, tạo dựng niềm tin, đồng lịng nhất trí của tồn dân.
Tinh thần u nước, lịng tự hào dân tộc, tính tích cực xã hội của nhân dân
được phát huy. Dân chủ xã hội được mở rộng cùng với quá trình hội nhập quốc tế
sâu rộng và tiếp cận với các phương tiện truyền thông mới đã làm cho con người
Việt Nam luôn đổi mới tư duy, năng động, sáng tạo hơn, có nhiều cơ hội tiếp thu
17
tinh hoa văn hóa nhân loại. Các giá trị đạo đức truyền thống được giữ gìn, phát huy
và thay đổi theo hướng phù hợp với nền kinh tế thị trường, hội nhập quốc tế. Hình
thành nếp sống văn minh, tác phong cơng nghiệp, tính chun nghiệp, thiết thực,
hiệu quả, đề cao, tơn trọng con người; quan tâm nâng cao trí tuệ, cải thiện chất
lượng sức khỏe, tầm vóc con người Việt Nam. Theo Tổng điều tra Dân số và Nhà ở
năm 2019, tuổi thọ trung bình con người Việt Nam năm 2019 là 73,6 tuổi. Từ 1990
đến 2018, tổng thu nhập bình quân đầu người đã tăng lên 354,5%. Năm 2019, tổng
thu nhập bình quân đầu người gần 2.800 USD. Việt Nam nằm trong nhóm các
nước có tốc độ tăng trưởng chỉ số phát triển con người (HDI) cao nhất trên thế
giới, với tăng trưởng trung bình HDI ở mức 1,36% trong suốt giai đoạn 1990 2018. Đây là thành tựu rất đáng để Việt Nam tự hào về xây dựng con người.
HDI của Việt Nam năm 2019 là 0,63, xếp thứ 118/189 quốc gia và vùng lãnh
thổ về chỉ số này và chỉ cần thêm 0,007 điểm để vào được nhóm các nước có HDI
ở mức cao.
Phong trào “Tồn dân rèn luyện thân thể theo gương Bác Hồ vĩ đại” được
triển khai thực hiện rộng khắp trên các địa bàn từ thành thị đến nông thôn. Năm
2018, số người tập luyện thể dục thể thao thường xuyên trên toàn quốc đạt 32,35%;
số gia đình tập luyện thể thao thường xuyên đạt 23,41% tổng số hộ. Thể lực, tầm
vóc con người Việt Nam được cải thiện, ý thức bảo vệ mơi trường sống được nâng
lên.
Cơng tác phịng, chống tham nhũng, quan liêu, lãng phí, suy thối tư tưởng
chính trị, đạo đức, lối sống trong nội bộ cán bộ, đảng viên, nhân dân có chuyển
biến, góp phần xây dựng hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh, tạo mơi trường
văn hóa, xã hội lành mạnh, nâng cao bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức, trình
độ chun mơn của cán bộ, đảng viên, nhân dân; tạo niềm tin của nhân dân đối với
chế độ.
18
2.2. Những hạn chế
2.2.1. Những hạn chế, yếu kém nổi lên trong công tác xây dựng Đảng
+ Công tác xây dựng Đảng còn nhiều hạn chế, yếu kém chậm đựơc khắc phục.
Một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, trong đó có những đảng viên giữ
vị trí lãnh đạo, quản lý, kể cả một số cán bộ cao cấp, suy thối về tư tưởng chính trị
đạo đức, lối sống với những biểu hiện khác nhau về sự phai nhạt lý tưởng, sa vào
chủ nghĩa cá nhân ích kỷ, cơ hội, thực dụng, chạy theo danh lợi, tiền tài, kèn cựa
địa vị cục bộ, tham nhũng, lãng phí, tùy tiện, vơ ngun tắc...
Tuy nhiên, đến nay tình trạng suy thối về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối
sống và tình trạng tham nhũng, lãng phí, quan liêu, xa dân,... của một bộ phận
không nhỏ cán bộ, đảng viên vẫn chưa được ngăn chặn, đẩy lùi mà còn tiếp tục
diễn biến phức tạp hơn. Biểu hiện cụ thể là phai nhạt lý tưởng cách mạng, con
đường xã hội chủ nghĩa, thiếu niềm tin, khơng có hồi bão, khơng cịn ý thức vì
nước, vì dân, khơng làm trịn bổn phận, chức trách được giao, không thực hiện
đúng các nguyên tắc tổ chức, sinh hoạt của Đảng; không báo cáo đúng sự thật,
không trung thực, thẳng thắn trong tự phê bình và phê bình, thiếu dân chủ hoặc dân
chủ hình thức; sa sút ý chí chiến đấu, thấy đúng khơng bảo vệ, thấy sai không đấu
tranh, phụ họa theo những nhận thức, quan điểm lệch lạc, sai trái.
Do suy thối về chính trị, tư tưởng dẫn đến suy thoái về phẩm chất đạo đức,
lối sống, rơi vào chủ nghĩa cá nhân ích kỷ, cực đoan, cơ hội, vụ lợi, thực dụng; dĩ
hòa, vi q, nói dựa, lấy lịng nhau; tư duy nhiệm kỳ, bệnh thành tích; bè phái, cục
bộ, lợi ích nhóm, mất đồn kết; tham nhũng, lãng phí; phong cách quan liêu, lối
sống xa hoa, hưởng lạc; có hiện tượng chạy chức, chạy quyền, chạy chỗ, chạy tội,
chạy tuổi, chạy bằng cấp, chạy khen thưởng; tùy tiện vô nguyên tắc, vô kỷ luật; xa
dân, vơ cảm trước sự khó khăn, bức xúc của dân,...; thiếu gương mẫu trong việc
19
chấp hành chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, quy định của
cơ quan, đơn vị và đời sống sinh hoạt hằng ngày.
Những suy thối đó ảnh hưởng lớn đến sức chiến đấu, vai trò lãnh đạo của
Đảng; làm cho nhiều giá trị đạo đức truyền thống tốt đẹp bị biến đổi; hình thành
những tập quán xấu, nếu khơng ngăn chặn thì rất nguy hiểm, khó khắc phục. Đây
thực sự là những cảnh báo không thể xem thường.
Trong những biểu hiện nêu trên, cán bộ, đảng viên, nhân dân và dư luận xã
hội quan tâm nhiều nhất, bức xúc nhất là tình trạng suy thối về đạo đức, lối sống,
tình trạng tham nhũng, bè phái, cục bộ, lợi ích nhóm,... của một bộ phận cán bộ,
đảng viên có chức, có quyền, cả trong một số cán bộ cao cấp của Đảng, Nhà nước.
Vấn đề này đang làm tổn hại tới uy tín, thanh danh của Đảng, làm suy yếu Đảng,
Nhà nước và các đoàn thể nhân dân.
+ Cịn tình trạng suy thối về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong một bộ
phận không nhỏ cán bộ, đảng viên.
Đội ngũ cán bộ cấp trung ương, cấp chiến lược rất quan trọng nhưng chưa
được xây dựng một cách cơ bản. Công tác quy hoạch cán bộ mới tập trung thực
hiện ở địa phương, chưa thực hiện được ở cấp Trung ương, dẫn đến sự hẫng hụt,
chắp vá, không đồng bộ và thiếu chủ động trong công tác bố trí, phân cơng cán bộ.
Một số trường hợp đánh giá, bố trí cán bộ chưa thật cơng tâm, khách quan, khơng
vì u cầu cơng việc, bố trí khơng đúng sở trường, năng lực, ảnh hưởng đến uy tín
cơ quan lãnh đạo, sự phát triển của ngành, địa phương và cả nước.
Tuy nhiên, nhìn nhận một cách nghiêm túc, thẳng thắn, sự nghiệp đổi mới có
thể tiến xa hơn, đạt được thành tựu to lớn hơn, nếu những quyết sách lớn của Trung
ương kịp thời, đúng đắn hơn. Nhiều ý kiến nêu tên khuyết điểm của các chủ trương
lớn về đầu tư xây dựng và phát triển kinh tế - xã hội, dẫn đến các "hội chứng" như:
20
xây dựng xi măng lò đứng, nhà máy đường, nhà máy thủy điện, cảng biển, sân gôn,
lập ngân hàng, trường đại học, tập đoàn kinh tế - doanh nghiệp nhà nước, khai thác
tài nguyên, khoáng sản và gần đây là sân bay... làm cho nền kinh tế phát triển chưa
bền vững, chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh thấp. Thể chế kinh tế thị trường,
chất lượng nguồn nhân lực, kết cấu hạ tầng vẫn là những điểm yếu cản trở sự phát
triển. Những hạn chế, khuyết điểm đó có yếu tố khách quan tác động, nhưng chủ
yếu vẫn là do chủ quan sự lãnh đạo, quản lý điều hành của các cấp, nhất là cấp
trung ương.
Đội ngũ cán bộ cấp trung ương, cấp chiến lược, tác động đến tầm vĩ mơ rất
quan trọng, nhưng chưa có sự chuẩn bị xây dựng một cách căn cơ. Quy hoạch cán
bộ mới thực hiện được ở cấp dưới, chưa thực hiện được ở cấp trung ương. Cố Tổng
Bí thư Nguyễn Văn Linh đã từng nêu hình ảnh về cơng tác nhân sự: "đến Đại hội
phải đốt đuốc đi tìm cán bộ...", tình trạng đó dẫn đến sự hẫng hụt, chắp vá trong
cơng tác bố trí, phân cơng cán bộ. Một số trường hợp đánh giá và bố trí cán bộ
khơng đúng chỗ, khơng đúng sở trường, năng lực, ảnh hưởng đến sự phát triển của
ngành, địa phương và cả nước. Cán bộ chủ chốt của Đảng, Nhà nước cũng chưa
được chuẩn bị, quy hoạch, đào tạo một cách chặt chẽ nên còn thiếu tính chủ động,
thiếu vững chắc.
Những vấn đề nêu trên thật sự là yêu cầu bức thiết cho sự phát triển đất nước
trước mắt và lâu dài; là khát khao, mong mỏi của cán bộ, đảng viên và nhân dân.
Thực tế lịch sử của Đảng đã minh chứng về vị trí, vai trò của đội ngũ cán bộ lãnh
đạo cấp Trung ương, tầm chiến lược, gắn với thành công, chưa thành cơng trong
q trình lãnh đạo cách mạng. Sự tan rã của Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa
ở Đơng Âu, cũng như sự biến động chính trị - xã hội của nhiều quốc gia, nguyên
nhân trước tiên từ suy thoái của lãnh đạo, nơi hoạch định những chủ trương, đường
lối phát triển của đất nước.
21
+ Tình trạng tham nhũng, lãng phí, quan liêu, những tiêu cực và tệ nạn xã
hội chưa được ngăn chặn, đẩy lùi mà còn tiếp tục diễn biến phức tạp, cùng với sự
phân hoá giàu nghèo và sự yếu kém trong quản lý điều hành của nhiều cấp, nhiều
ngành làm giảm lòng tin của nhân dân đối với Đảng và Nhà nước, đe dọa sự ổn
định, phát triển của đất nước.
Nguyên tắc "tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách" trên thực tế ở nhiều nơi rơi
vào hình thức, do không xác định rõ cơ chế trách nhiệm, mối quan hệ giữa tập thể
và cá nhân, khi sai sót, khuyết điểm khơng ai chịu trách nhiệm. Do vậy, vừa có
hiện tượng dựa dẫm vào tập thể, không rõ trách nhiệm cá nhân, vừa khơng khuyến
khích người đứng đầu có nhiệt tình, tâm huyết, dám nghĩ dám làm, tạo kẽ hở cho
cách làm việc tắc trách, trì trệ, hoặc lạm dụng quyền lực một cách tinh vi để mưu
cầu lợi ích cá nhân.
2.2.2. Những hạn chế khác
Quá trình thực hiện các nghị quyết của Đảng cho thấy, một trong những
điểm nút để nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức đảng, hiệu lực,
hiệu quả quản lý nhà nước là phải xác định rõ thẩm quyền và trách nhiệm cá nhân
của người đứng đầu và trách nhiệm của tập thể. Tình trạng phổ biến ở các cấp hiện
nay là không rõ trách nhiệm cá nhân, thường dựa dẫm vào tập thể, thực chất là
không ai chịu trách nhiệm. Nguyên tắc "tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách" trên
thực tế ở nhiều nơi chỉ chung chung, hình thức; khi sai sót khuyết điểm khơng ai
chịu trách nhiệm. Tình trạng đó khơng khuyến khích cá nhân người đứng đầu có
nhiệt tình, tâm huyết, dám nghĩ, dám làm; tạo kẽ hở cho cách làm việc tắc trách, trì
trệ, được đâu hay đó, hoặc lợi dụng quyền lực một cách tinh vi. Đây là mảnh đất
tốt cho sự nể nang, né tránh, co cụm, thỏa hiệp vì lợi ích nhóm, thu vén cá nhân.
Thực tế một số vụ việc vi phạm xảy ra vừa qua là do không rõ thẩm quyền,
trách nhiệm cá nhân người đứng đầu, dẫn đến một số trường hợp thiếu trách
22
nhiệm, ỷ lại vào tập thể, hoặc lạm quyền, vượt quyền; mặt khác, một số quy định
không rõ, làm cho người lãnh đạo không đủ quyền năng để hành động, làm cho cơ
quan, đơn vị trì trệ kéo dài, bè cánh, mất đoàn kết nội bộ. Những nơi người đứng
đầu dám nghĩ, dám làm, hành động quyết liệt, dám chịu trách nhiệm, với tấm lịng
trong sáng, vì dân, vì Đảng, tạo ra chuyển biến, kết quả rõ nét, nhưng khi có sai
sót, lại chưa được đánh giá đầy đủ và sử dụng đúng. Ngược lại, một số người đứng
đầu "giữ gìn", ngại va chạm, theo cách "giữ mình, thủ thế", "chủ nghĩa tập thể"
hình thức, dựa dẫm, mọi việc bình thường, khơng "sai phạm lớn", có khi lại được
trọng dụng. Nhiều vụ việc vi phạm pháp luật và kỷ luật của Đảng nhưng giải quyết
chậm, dư luận phản ứng; một số vụ việc sai phạm về kinh tế lớn xảy ra vừa qua,
nhưng xác định trách nhiệm chưa thật rõ ràng, nên xử lý khơng nghiêm, khơng triệt
để.
Có thể thẳng thắn nhìn nhận, cơng tác tổ chức thực hiện nhiệm vụ phát triển
con người theo tinh thần Nghị quyết 33 chưa đều khắp các lĩnh vực, vùng miền.
Nhận thức chung của xã hội về vai trị, vị trí của con người theo tinh thần Nghị
quyết số 33 còn chung chung. Trong tổ chức thực hiện Nghị quyết, quan điểm xây
dựng văn hóa, trọng tâm là chăm lo xây dựng con người có nhân cách, lối sống tốt
đẹp chưa được triển khai mạnh mẽ.
Tình trạng suy thối về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong một bộ
phận cán bộ, đảng viên, chưa thực sự được đẩy lùi. Một số mặt đạo đức xã hội có
biểu hiện xuống cấp nghiêm trọng. Ở một số nơi, vẫn cịn tình trạng kẻ xấu lợi
dụng sự ngộ nhận về lòng yêu nước của một bộ phận người dân phục vụ mục đích
chống phá chế độ.
Hệ giá trị chuẩn mực văn hóa và con người Việt Nam làm cơ sở triển khai
trong thực tiễn chưa được ban hành. Một bộ phận cán bộ, nhân dân có tâm lý sính
ngoại, tiêu dùng sản phẩm văn hóa cũng như tiếp nhận lối sống thiếu chọn lọc, ảnh
23
hưởng đến giữ gìn truyền thống văn hóa dân tộc và xây dựng con người trước
thách thức tồn cầu hóa. Chất lượng nguồn nhân lực của Việt Nam còn ở mức thấp
so với khu vực Đông Nam Á.
Sự phối hợp giữa gia đình - nhà trường - xã hội trong giáo dục con người
chưa thường xuyên. Công tác giáo dục nghệ thuật, nâng cao năng lực thẩm mỹ
trong các tầng lớp nhân dân chưa được coi trọng. Nhiều hoạt động văn hóa và dịch
vụ văn hóa cơng cộng bị “thương mại hóa”, hạ thấp tính giáo dục, chiều theo thị
hiếu tầm thường của một bộ phận người dân, gây hậu quả xấu trong xây dựng con
người. Công tác xã hội hóa xây dựng con người chưa động viên tối đa. Một số
phong trào biểu dương, tôn vinh gương người tốt việc tốt, điển hình tiên tiến, danh
hiệu thi đua chưa đi vào thực chất, chạy theo số lượng và hình thức.
Cuộc đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, tiêu cực xã hội chưa thường
xuyên, liên tục. Một số nơi còn coi nhẹ việc đấu tranh, phòng chống các biểu hiện
suy thối về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”
trên lĩnh vực văn hóa, ảnh hưởng đến nhiệm vụ xây dựng con người. Những giải
pháp mang tính đột phá khắc phục những mặt hạn chế của con người Việt Nam
chưa được đề xuất.
2.3. Biện pháp khắc phục
2.3.1. Xây phải đi đôi với chống
Những vấn đề nêu trên chưa được ngăn chặn, đẩy lùi, không chỉ cản trở sự
phát triển đất nước, mà còn đe dọa đến vai trò lãnh đạo của Đảng, sự tồn vong của
chế độ. Cán bộ, đảng viên tâm huyết và nhân dân lo lắng, trở thành tâm trạng xã
hội, nóng lịng mong mỏi Đảng có biện phá1.3.2. Xây đi đôi với chống, phải tạo
thành phong trào quần chúng rộng rãi:
- Tại sao làm CM là quá trình kết hợp chặt chẽ giữa xây và chống?
24
+ Bên cạnh việc xây dựng những phẩm chất tốt đẹp thì HCM chỉ rõ: “ Mỗi
con người đều có cái thiện và cái ác ở trong lòng. Ta phải biết làm cho phần tố ở
trong mỗi con người này nở hoa mùa xuân và phần xấu bị mất dần đi, đó là thái độ
của người cách mạng.
+ Mặt khác, con đường tiến lên chủ nghĩa xã hội là cuộc đấu tranh lâu dài,
gian khổ, cuộc chiến đấu khổng lồ. Trong cuộc chiến đấu đó, có nhiều kẻ địch
nguy hiểm.Vì vậy mà xây phải đi đôi với chống
- Theo HCM, chống và xây có mối quan hệ biện chứng, Chống và xử lý nghiêm là
nhằm xây, đi liền với xây và muốn xây thì phải chống, Mục đích cuối cùng là xây
dựng con người có đạo đức và nền đạo đức mới Việt Nam, vì vậy phải xác định
đây là nhiệm vụ chủ yếu và lâu dài
- Sau khi giành được chính quyền, HCM chỉ ra những tệ nạn, suy thối trong cán
bộ, Người cho rằng có 3 loại chính là tham ơ, lãng phí, quan liêu và nguồn gốc là
chủ nghĩa cá nhân. Người coi đây là “ những kẻ thù nguy hiểm”; “ giặc trong
lòng”, “ giặc nội xâm”, “đồng minh của thực dân phong kiến”, “là tội ác”. Vì vậy
để xây dựng đạo đức mới, chống đạo đức giả tao cần phải tạo thành phong trào
quần chúng rộng rãi cho toàn dân, toàn ngành..
2.3.2 Phải tu dưỡng đạo đức suốt đời:
Hồ Chí Minh chỉ rõ: mỗi người phải thường xuyên chăm lo tu dưỡng đạo
đức như rửa mặt hàng ngày, phải “chính tâm, tu thân”, phải kiên trì, bền bỉ suốt
đời, khơng người nào có thể chủ quan, tự mãn.
Theo người, là người ai cũng có chỗ hay chỗ dở, chỗ tốt, chỗ xấu, ai cũng có
thiện ác trong bản thân, vấn đề là dám nhìn thẳng vào bản thân mình, khơng tự lừa
dối, huyễn hoặc; thấy rõ cái hay, cái tốt, cái thiện để phát huy, thấy rõ cái dỡ, cái
25