Tải bản đầy đủ (.docx) (26 trang)

Quan điểm hồ chí minh về các lĩnh vực chính của văn hóa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (144.91 KB, 26 trang )

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU...............................................................................................................1
1.Lý do chọn đề tài................................................................................................1
2.Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu.....................................................................1
2.1. Mục đích.....................................................................................................1
2.2. Nhiệm vụ.....................................................................................................1
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.....................................................................2
3.1. Đối tượng nghiên cứu.................................................................................2
3.2. Phạm vi nghiên cứu....................................................................................2
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu........................................................2
4.1. Cơ sở lý luận...............................................................................................2
4.2. Phương pháp nghiên cứu............................................................................2
5. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn..............................................................................2
6. Kết cấu của tiểu luận.........................................................................................3
CHƯƠNG 1.CƠ SỞ LÝ LUẬN QUAN ĐIỂM HỒ CHÍ MINH VỀ CÁC LĨNH
VỰC CHÍNH CỦA VĂN HĨA............................................................................4
1.1. Những quan điểm cơ bản của Hồ Chí Minh về văn hóa................................4
1.1.1. Định nghĩa về văn hóa và quan điểm xây dựng nền văn hóa mới...........4
1.1.2. Vị trí, vai trị của văn hóa trong đời sống xã hội......................................7
1.1.3. Tính chất của nền văn hóa mới................................................................8
1.1.4. Chức năng của văn hóa............................................................................8
1.2. Quan điểm Hồ Chí Minh về các lĩnh vực chính của văn hóa.........................9
1.2.1. Văn hoá giáo dục....................................................................................10
1.2.2. Văn hoá văn nghệ...................................................................................11
1.2.3. Văn hoá đời sống...................................................................................12
CHƯƠNG 2. VẬN DỤNG QUAN ĐIỂM HỒ CHÍ MINH TRONG VIỆC XÂY
DỰNG NỀN VĂN HÓA VIỆT NAM HIỆN NAY.............................................14
2.1. Bối cảnh thế giới và trong nước...................................................................14



2.1.1. Tình hình thế giới...................................................................................14
2.1.2. Tình hình trong nước.............................................................................15
2.2. Đảng lãnh đạo trên lĩnh vực phát huy vai trò của văn hoá trong phát triển đất
nước.....................................................................................................................16
2.3. Thực trạng....................................................................................................17
2.4. Thành tựu......................................................................................................18
2.5. Hạn chế.........................................................................................................19
CHƯƠNG 3. PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP...........................................21
3.1. Phương hướng..............................................................................................21
3.2. Một số giải pháp...........................................................................................21
KẾT LUẬN.........................................................................................................22
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO............................................................23


MỞ ĐẦU
1.Lý do chọn đề tài
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, vấn đề về văn hóa ln có một vị trí quan
trọng. Những quan điểm của Người về văn hóa là kim chỉ nam để Đảng ta hoạch
định chính sách, sách lược phát triển văn hóa qua các giai đoạn xây dựng đất
nước. Những quan điểm và hoạt động văn hóa của Người đã góp phần vào sự
tiến bộ và phát triển nền văn minh của nhân loại. Việc tìm hiểu những quan điểm
về văn hóa giúp chúng ta có cơ sở lý luận và kinh nghiệm thực tiễn để thực hiện
chủ trương của Đảng về xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản
săc dân tộc.
Nhận thấy được tính cấp thiết trong tư tưởng của Hồ Chí Minh về văn
hóa, em xin được chọn đề tài nghiên cứu là: “Quan điểm Hồ Chí Minh về các
lĩnh vực chính của văn hóa”
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục đích
Đề tài nghiên cứu, làm rõ nội dung quan điểm Hồ Chí Minh về quan điểm

Hồ Chí Minh về các lĩnh vực chính của văn hóa, từ đó đề xuất phương hướng,
giải pháp vận dụng vào phát triển đất nước hiện nay.
2.2. Nhiệm vụ
- Hệ thống nội dung quan điểm Hồ Chí Minh về vai trị của văn hóa đối với sự
phát triển đất nước
- Tổng kết q trình phát huy vai trị của văn hố đối với sự phát triển đất nước,
vận dụng những giá trị đó vào việc giải quyết một số vấn đề phát triển đất nước
hài hoà, bền vững.

1


3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Quan điểm Hồ Chí Minh về các lĩnh vực chính của văn hóa đối với sự
phát triển và hệ giá trị của nó đối với sự phát triển đất nước trong bối cảnh hiện
nay.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
* Phạm vi nghiên cứu:
- Về mặt lý thuyết: Đề tài xoay quanh các quan niệm về văn hóa, quan điểm Hồ
Chí Minh về vai trị của văn hóa trong sự phát triển của đất nước.
- Giới hạn thời gian nghiên cứu: Qúa trình Đảng lãnh đạo trên lĩnh vực văn
hố, tổng kết thành tựu, hạn chế, từ đó tìm ra phương hướng, giải pháp phát huy
vai trị của văn hố đối với sự phát triển đất nước từ sau 1986 đến nay.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
4.1. Cơ sở lý luận
+ Quan niệm về văn hóa, vai trị của văn hóa đối với sự phát triển lịch sử trong
lý luận Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh.
+ Tổng kết tình hình Đảng lãnh đạo trên lĩnh vực văn hố, từ đó đánh giá giá trị
quan niệm của Hồ Chí Minh về vai trị của văn hố.

4.2. Phương pháp nghiên cứu
- Tuân thủ nguyên tắc thống nhất tính đảng với tính khoa học.
- Kết hợp chặt chẽ phương pháp lơ gích với phương pháp lịch sử.
- Bên cạnh việc tuân thủ các phương pháp mang tính chuyên ngành nói trên, thì
việc vận dụng các phương pháp liên ngành khác như: phân tích tổng hợp, thống
kê, so sánh, điều tra xã hội học,...
5. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
- Tiểu luận góp phần cung cấp luận chứng về cơ sở lý luận và thực tiễn quan
điểm Hồ Chí Minh về lĩnh vực chính của văn hóa. Từ đó, kiên định, bảo vệ và
2


phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; nêu cao tinh thần độc
lập, tự chủ, đổi mới và sáng tạo trong tiếp thu, kế thừa tư tưởng của Người.
6. Kết cấu của tiểu luận
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo, tiểu luận
được chia thành 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận quan điểm Hồ Chí Minh về các lĩnh vực chính
của văn hóa
Chương 2: Vận dụng quan điểm Hồ Chí Minh trong việc xây dựng nền
văn hóa Việt Nam hiện nay.
Chương 3: Phương hướng và giải pháp

3


CHƯƠNG 1.CƠ SỞ LÝ LUẬN QUAN ĐIỂM HỒ CHÍ MINH VỀ CÁC
LĨNH VỰC CHÍNH CỦA VĂN HĨA
1.1. Những quan điểm cơ bản của Hồ Chí Minh về văn hóa
1.1.1. Định nghĩa về văn hóa và quan điểm xây dựng nền văn hóa mới

a, Định ngĩa về văn hóa:

 Văn hố theo quan niệm truyền thống phương Đơng
Khơng phải “Văn hố” mới được đề cập trong một vài thế kỷ gần đây mà
nó xuất hiện lâu hơn thế với những cách hiểu xuất phát từ hoạt động sản xuất
nông nghiệp, việc hình thành những nhóm cộng đồng dân cư trên thế giới. Cách
đây hàng chục thế kỷ, ở phương Đông đã hình thành một cách hiểu “văn hố”
mà cách dùng văn hố ngày nay vẫn cịn bị ảnh hưởng khơng ít.
Từ “Văn” trong ngôn ngữ Trung Hoa được hiểu là vẻ bề ngồi, hơn thế nó
cịn là nội dung được thể hiện ra như các hiện tượng tự nhiên: mây, mưa, gió,
bão …. Nó chính là văn của trời. Theo cách hiểu này, con người cũng có cái
“văn” riêng, đó là: thẩm mĩ, phong tục, đạo đức được biểu hiện trong mối quan
hệ giữa người với người, con người với tự nhiên mà cụ thể đó là sự trật tự trong
các mối quan hệ đó. “Văn” là cái bên ngồi và được thể hiện ra bên ngồi, có
nghĩa nó chứa cả yếu tố nội dung và hình thức. Con người có thể làm cho con
người “thiện”, “mĩ” hơn. Đó cũng chính là tác dụng giáo dục đạo đức của văn
chương.
Người Trung Quốc thường quan niệm văn hoá là chế độ, văn trị, giáo hoá,
lễ nhạc, điển chương. Trong lịch sử lâu dài, Trung Quốc đạt được nhiều thành
tựu trên lĩnh vực, nhưng khoa học về văn hoá chưa phát triển, nên cách hiểu trên
duy trì mãi đến thời cận đại khi tiếp nhân nghĩa của khái niệm văn hoá phương
Tây du nhập sang.

 Văn hoá theo quan niệm truyền thống phương Tây
Ở phương Tây, từ “văn hoá” (culture) với tư cách là một từ đã được xuất
hiện trước công nguyên trong hệ ngôn ngữ La tinh nghĩa cấy cày, gieo trồng,
chăm sóc…. từ “văn hố” trong ngơn ngữ Hi Lạp – La Mã cổ đại mang hai nội
dung lớn: sự gieo trồng, chăm sóc cây cối, hoa màu (hoạt động sản xuất vật 7
chất) và sự phát triển năng lực tinh thần. Các nhà Khai sáng trong thế kỷ Ánh
sáng - thế kỷ XVIII cũng đã quan tâm đến vấn đề văn hố và kết quả là đưa ra

khơng ít những phát kiến sáng tạo. Nhìn chung, văn hố trong thời kỳ này mang
nhiều âm hưởng của chính trị và kinh tế, “văn hoá” trở thành một khái niệm
được nhiều nhà nghiên cứu quan tâm, phân tích, đề cập trong các nghành khoa
4


học xă hội và nhân văn đặc biệt là về vấn đề con người, sức mạnh của con
người. Cũng chính vì thế mà “văn hố” trở nên đa nghĩa, phong phú hơn.
Đầu những năm 90 của thế kỷ XX, một nhà nghiên cứu người Mỹ đã dẫn ra
khoảng 400 định nghĩa về văn hố, nhưng có thể chắc rằng, đây khơng phải là
con số cuối cùng. Tuy nhiên, tính phiến diện là đặc điểm chung của các định
nghĩa và các nhóm định nghĩa về văn hố.

 Văn hố theo quan niệm mác - xít
C.Mác và Ph.Ăngghen cho rằng văn hố là toàn bộ những giá trị được tạo
ra nhờ hoạt động sáng tạo và lao động của con người. Nó bao gồm toàn bộ giá
trị vật chất, tinh thần và bản thân sự phát triển của con người. Văn hoá không chỉ
là nền tảng tinh thần của xã hội, của lịch sử nhân loại mà còn tác động mạnh mẽ
đến sự phát triển của xã hội lồi người. Do đó, hai ông đã đi đến khẳng định
phải tiến hành cuộc cách mạng giải phóng xã hội, giải phóng con người, giải
phóng văn hố.
Các quan niệm của C.Mác và Ph.Ăngghen sau này được V.I.Lênin phát
triển đầy đủ, cụ thể khi bàn về cách mạng văn hoá. Theo V.I.Lênin, văn hoá phải
là một bộ phận hữu cơ của cách mạng, văn hoá khơng phải vấn đề ngồi lề,
khơng thể đứng trên xã hội, đứng ngoài cách mạng như một vài quan điểm trước
đó cũng như cùng thời.

 Cách nhìn nhận của thế giới về văn hố
Trên thế giới có rất nhiều định nghĩa khác nhau về văn hoá theo những lát
cắt cũng như phạm vi rộng hẹp khác nhau nhưng tựu chung lại đều thừa nhận

văn hoá là những giá trị to lớn do con người sáng tạo ra. Năm 1982, Tổ chức
UNESCO đã thống kê (chưa đầy đủ) có khoảng 200 định nghĩa về văn hoá trên
thế giới. Cùng với sự phát triển mạnh mẽ của xã hội trong vài thập kỷ gần đây, 8
con số này chắc chắn nhiều hơn thế. Cũng trong năm này, trong Tuyên bố về
Những chính sách văn hoá, Tổ chức UNESCO đã thống nhất định nghĩa “văn
hoá” như sau: “Trên ý nghĩa rộng nhất, văn hố có thể coi là tổng thể những nét
riêng biệt, tinh thần và vật chất, trí tuệ và xúc cảm quyết định tính cách của xã
hội hay một nhóm người trong xã hội. Văn hoá bao gồm nghệ thuật hay văn
chương, những lối sống, những quyền cơ bản của con người, những hệ thống giá
trị, những tập tục, những tín ngưỡng. Văn hoá đem lại cho con người khả năng
suy xét về bản thân. Chính văn hố làm cho chúng ta trở thành những sinh vật
đặc biệt nhân bản, có lý tính, có óc phê phán và dấn thân một cách đạo lý. Chính
nhờ văn hố mà chúng ta xét đoán được những giá trị và thực thi sự lựa chọn.
Chính nhờ văn hố mà con người tự thể hiện, tự ý thức được bản thân, tự biết
mình là một phương án chưa hoàn thành đặt ra để xem xét những thành tựu của
5


bản th ân, tìm tịi khơng biết mệt những ý nghĩa mới mẻ và sáng tạo nên những
cơng trình vượt trội lên bản thân”.
Như vậy, văn hoá là cái được tích luỹ, lựa chọn của con người bằng một
q trình nhận thức, lựa chọn phương thức thích ứng với hồn cảnh, sáng tạo để
lao động sản xuất, cải thiện hoàn cảnh, cải thiện cuộc sống, khẳng định sức
mạnh của con người đối với thế giới bên ngoài. Đồng thời, con người tự hồn
thiện, làm mới hoạt động của mình, đem lại hiệu quả nhiều hơn, chất lượng hơn
cả về vật chất và tinh thần.
 Văn hóa theo quan niệm của Hồ Chí Minh
Tháng 8/1943, khi cịn trong nhà tù của Tưởng Giới Thạch, Hồ Chí Minh
đã đưa ra định nghĩa của mình về văn hóa.
"Vì lẽ sinh tồn cũng như vì mục đích của cuộc sống, lồi người mới sáng tạo

và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo,
văn học, nghệ thuật, những công cụ cho sinh hoạt hàng ngày về ăn, mặc, ở
và các phương thức sử dụng. Toàn bộ những sáng tạo và phát minh đó tức
là văn hố. Văn hố là sự tổng hợp của mọi phương thức sinh hoạt cùng với
biểu hiện của nó mà lồi người đã sản sinh ra nhằm thích ứng những nhu
cầu đời sống và địi hỏi của sự sinh tồn".
Hồ Chí Minh khắc phục quan niệm phiến diện về văn hóa trong lịch sử
và hiện tại.
 Quan điểm về xây dựng nền văn hóa mới:
- Xây dựng tâm lý: Tinh thần độc lập tự cường. Trong lời kêu gọi toàn quốc
kháng chiến: “ Chúng ta thà hi sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước,
nhất định không chịu làm nô lệ.”
- Xây dựng luân lý: Biết hi sinh mình, làm lợi cho quần chúng.
- Xây dựng chính trị: Dân quyền. Người đã làm một hành xử văn hóa mang đậm
tư tưởng chính trị chủ đạo “lấy dân làm gốc”.
- Xây dựng xã hội: Mọ sự nghiệp có liên quan đến phúc lợi của nhân dân trong
xã hội
6


- Xây dựng kinh tế.
Như vậy, ngay từ rất sớm, Hồ Chí Minh đã quan tâm đến văn hóa, đã thấy
rõ vai trị, vị trí của văn hóa trong đời sống xã hội. Điều này đã chứng minh
được vì sao ngay sau khi giành được độc lập, Hồ Chí Minh đã bắt tay vào việc
xây dựng, kiến tạo một nền văn hóa mới ở Việt Nam trên tất cả mọi lĩnh vực, từ
kinh tế, chính trị, xã hội, đạo đức đến tâm lý con người, đã sớm đưa văn hóa vào
chiến lược phát triển đất nước.
1.1.2. Vị trí, vai trị của văn hóa trong đời sống xã hội
Hồ Chí Minh quan tâm tới việc xây dựng một xã hội mới vững chắc, lâu
dài trên tất cả các lĩnh vực, trong đó có cuộc cách mạng trên lĩnh vực văn hóa

Hồ Chí Minh đặt văn hóa nagng hàng với chính trị, kinh tế, xã hội tạo
thành 4 vấn đề chính của đời sống và chúng ta có mối quan hệ mật thiết với
nhau.
 Một là, văn hóa là đời sống tinh thần của xã hội, thuộc kiến trúc thượng
tầng
- Trong quan hệ với chính trị: chính trị xã hội có giải phóng thì văn hóa mới
được giải phóng. Ngược lại chính trị giải phóng sẽ mở đường cho văn hóa
phát triển.
Người nói: “Xã hội thế nào thì văn hóa thế ấy. Văn nghệ của ta rất phong
phú, nhưng dưới chế độ thực dân và phong kiến nhân dân ra bị nô lệ, thì văn
nghệ cũng bị nơ lệ, bị tồi tàn không thể phát triển được”. Phải tiến hành cách
mạng giải phóng dân tộc để giành chính quyền, từ đó giải phóng văn hóa
phát triển.
-

Trong quan hệ với kinh tế: Kinh tế thuộc về cơ sở hạ tầng, là nền tảng của
việc xây dựng văn hóa. Cho nên phải chú trọng xây dựng kinh tế, xây dựng
cơ sở hạ tầng để có điều kiện cho xây dựng và phát triển văn hóa. Kinh tế
phải đi trước một bước
 Hai là, văn hóa khơng thể đứng ngồi mà phải ở trong kinh tế và chính trị,
phải phục vụ nhiệm vụ chính trị và thúc đấy sự phát triển của kinh tế.

- Người khẳng định: “ Trình độ văn hóa của nhân dân lên cao sẽ giúp cho
chúng ta đẩy mạnh công cuộc khôi phục kinh tế, phát triển dân chủ, cần thiết
để xây dựng nước ta thành một nước hịa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ
và giàu mạnh.”
7


- Trong quan hệ với chính trị thì văn hóa phải tham gia nhiệm vụ cính trị,

tham giá cách mạng, khàng chiến và xây dựng chủ nghĩa xã hội
- Trong quan hệ với kinh tế: văn hóa phải phục vụ, thúc đẩy, xây dựng và phát
triển kinh tế.
Trong kháng chiến chống Pháp, quan điểm “ Văn hóa cũng là một mặt trận”;
“kháng chiến hóa văn hóa, văn hóa hóa khàng chiến” mà Người đưa ra đã tạo
nên một phong trào văn hóa, văn nghệ sơi động, đem lại sức mạnh vượt trội cho
nhân dân Việt Nam đánh bại cuộc xâm lược của thực dân Pháp và sau này là đế
quốc Mỹ.
1.1.3. Tính chất của nền văn hóa mới
Khi miền Bắc bước vào thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, nền văn hóa được
xây dựng là nền văn hóa xã hộ chủ nghĩa.
Trong báo các chính trị đọc tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ II của Đảng
(1951), Người khẳng định phải “xây dựng một nền văn hóa Việt Nam có tính
chất dân tộc, khoa học và đại chúng”.
- Tính dân tộc là cái tinh túy bên trong rất đặc trưng của nền văn hóa dân tộc. nó
phân biệt, khơng nhầm lẫn với văn hóa của các dân tộc khác.
- Tính dân tộc của văn hóa địi hỏi phải thể hiện được cốt cách và tâm hồn con
người Việt Nam, đó là truyền thống yêu nước, cần cù, dũng cảm, đoàn kết,
thương người…
- Muốn làm được như vậy ta phải: “trau dồi văn hóa, văn nghệ có tinh thần
thuần túy Việt Nam”. Người căn dặn văn nghệ sĩ: “ Nghệ thuận của cha ông hay
lắm, tốt lắm! Cố mà giữ gìn; làm cơng tác văn nghệ mà khơng tìm hiểu sâu thì
khơng làm được đâu.”
- Tính khoa học của văn hóa địi hỏi phải đấu tranh chống lại những gì trái với
khoa học, phải tiến bộ, phải truyền bá tư tưởng triết học Mác xít.
- Tính đại chúng: văn hóa phải phục vụ đại đa số nhân dân, phải hướng về đại
chúng, phải phản ánh được tâm tư nguyện vọng của nhân dân.
1.1.4. Chức năng của văn hóa
Theo Hồ Chí Minh văn hóa có 3 chức năng cơ bản sau:
Một là, Bồi dưỡng tư tưởng đúng đắn và tình cảm cao đẹp cho nhân dân, loại bỏ

những sai lầm và thấp hèn có thể có trong tư tưởng, tình cảm của mỗi người.

8


- Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm đến việc xây dựng những tư tưởng và tính
cảm lớn có ý nghĩa chi phối đời sống tinh thần của mỗi người và của cả
dân tộc.
- Tư tưởng lớn nhất mà Người yêu cầu đảng và nhân dân ta phải xây dựng
và lý tưởng độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội.
- Trong “bài nói tại buổi bế mạc lớp chỉnh huấn cán bộ Đảng, dân, chính
các cơ quan trung ương” Người đã phát biểu rằng: “ Mọi người nhận rõ
lợi ích riêng của cá nhân mới có thể phát triển và củng cố. Cho nên lợi ích
cá nhân ắt phải phục tùng lợi ích của dân tộc, chứ quyết khơng thể đặt lợi
ích cá nhân trên lợi ích dân tộc. Đó là tiến bộ.”
Hai là, nang cao dân trí, nâng cao hiểu biết, trình độ kiến thức của người dân
- Trình độ đó phải từ chỗ khơng biết đến chỗ biết, từ chỗ biết đến chỗ hiểu
biết các lĩnh vực khác cần thết cho hoạt động của mỗi người
- Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ trương mở chiến dịch chống nạn mù chữ, tiêu
diệt giặc dốt bằng cách mở các lớp Bình dân học vụ.
Ba là, bồi dưỡng những phẩm chất tốt đẹp, những phong cách lành mạnh tiên
tiến, luôn hướng tới con người vươn tới cái chân, thiện, mỹ để khơng ngừng
hồn thiện bản thân con người.
- Văn hóa giúp con người nhận biết và phân biệt cái tốt đẹp, lành mạnh với
cái xấu xa, hư hỏng giữa cái tiến bộ với cái lạc hậu cản trở con người và
dân tộc tiến lên phía trước. Hồ Chí Minh từng nhấn mạnh: “ Văn háo phải
sửa đổi được những tham nhũng, lười biễng, phù hoa, xa xỉ, sửa cái xã hội
cũ và xây xã hội mới.
- Sự nghiệp xây dựng nền văn hóa mới cũng là sự nghiệp xây dựng con
người, dó cũng la sự nghiệp của mỗi con người, của tồn dân tộc. Nhưng

lực lượng nịng cốt lại là những nhà văn hóa, những người làm cơng tác
văn hóa, giáo dục.. mà Hồ Chí Minh gọi là các chiến sĩ trên mặt trận văn
hóa “phải biết xung phong”.
1.2. Quan điểm Hồ Chí Minh về các lĩnh vực chính của văn hóa
Văn hố là một lĩnh vực rộng lớn, phong phú, nên ở đâu có con người, có
hoạt động của con người thì ở đó có văn hố. Văn hoá thâm nhập vào mọi lĩnh
vực của đời sống con người, từ sản xuất vật chất đến đời sống tinh thần. Từ sự
am hiểu sâu sắc, toàn diện bản chất xã hội và đặc trưng của văn hoá, Hồ Chí
Minh đã chỉ ra rõ ràng, sinh động đặc thù và sức mạnh của từng lĩnh vực của
9


văn hoá. Ở đây tập trung làm rõ tư tưởng Hồ Chí Minh về ba lĩnh vực chính
như sau:
1.2.1. Văn hố giáo dục.
Hồ Chí Minh phê phán nền giáo dục phong kiến là từ chương, kinh viện
xa rời thực tế và coi trọng mẫu người theo quan niệm của Nho giáo, phụ nữ bị
tước mất quyền học vấn,… Người cũng đã tố cáo nền giáo dục thực dân là nền
giáo dục ngu dân, nhồi sọ và giả dối.
Sau khi cách mạng Tháng Tám thành công, việc xây dựng một nền giáo
dục mới được đặt ra như một nhiệm vụ vừa lâu dài vừa cấp bách của chúng ta,
không thể chậm trễ. Hồ Chí Minh đã viết: “Chúng ta có nhiệm vụ cấp bách là
phải giáo dục lại nhân dân chúng ta. Chúng ta phải làm cho dân tộc chúng ta trở
nên một dân tộc dũng cảm, yêu nước, yêu lao động, một dân tộc xứng đáng với
nước Việt Nam độc lập”.
Những quan điểm của Hồ Chí Minh về văn hóa giáo dục:
Quan điểm của Hồ Chí Minh về văn hóa giáo dục nhằm mục tiêu là thực
hiện cả ba chức năng của văn hóa trong giáo dục, nghĩa là trong quá trình dạy và
học. Vì theo Người, dạy và học để mở mang dân trí, nâng cao kiến thức, bồi
dưỡng tư tường đúng đắn và tình cảm cao đẹp, những phầm chất trong sáng và

phong cách lành mạnh cho nhân dân; để đào tạo những con người mới vừa có
đạo đức vừa có tài và học để làm việc, làm người, làm cán bộ, do vậy, phải có
thực học, học không phải để chạy theo bằng cấp; để thực hiện cải tạo trí thức cũ,
đào tạo trí thức mới và đào tạo những lớp người kể tục sự nghiệp cách mạng,
xây dựng đất nước.
Phương pháp giáo dục: Phải tiến hành cải cách giáo dục để xây dựng
một hệ thống trường lớp với chương trình, nội dung dạy và học thật khoa học,
thật hợp lý, phù hợp với những bước phát triển của nước ta, bao gồm cà văn hóa,
chính trị, khoa học- kỹ thuật, chuyên môn nghể nghiệp và lao động. Học phải
sáng tạo, học phải đi đôi với hành, lý luận phải liên hệ với thực tiễn, học tập phải
10


kết hợp với lao động và phải tẩy sạch mọi tàn dư của nền giáo dục nô dịch. Để
đẩy mạnh sự nghiệp giáo dục cần phối hợp đồng bộ giữa gia đình, nhà trường và
xã hội. Sự lơi lỏng, yếu kém ở bất cứ khâu nào cũng đều hạn chế kết quả của
giáo dục.
Học ở mọi nơi, mọi lúc; học suốt đời; coi trọng việc tự học, tự đào tạo và
đào tạo lại. Học ở trường lớp chỉ là một phần, còn phần chủ yếu là học trong lao
động, trong cơng tác, trong thực tiễn. Khơng chỉ có những người thầy ở trường
mà cịn có những người thầy ở xung quanh mình. Nếu bản thân mình là thầy thì
càng phải học nhiều hơn. Học không bao giờ đủ. Học tập là một q trình kao
động gian khổ, phải có quyết tâm, có nghị lực và phải say mê. Hơn nữa, học
phải có phương pháp đúng mới có hiệu quả cao. Người nào tự cho mình là đã
biết đủ rồi thì người đó là dốt nhất.
Phải giáo dục để khơng ngừng nâng cao trình độ của cán bộ, đảng viên
và nhân dân, nghĩa là vừa nâng cao dân trí vừa nâng cao đảng trí. Vì, có trình độ
mới có khả năng tổng kết kinh nghiệm, hiểu rõ quy luật và làm theo đúng quy
luật, từ đó thúc đẩy sự phát triển, cịn nếu khơng hiểu quy luật mà làm trái quy
luật sẽ phải trả giá. Đối với cán bộ, đảng viên, Hồ Chí Minh địi hỏi: một là, phải

nâng cao sự tu dưỡng về chủ nghĩa Mác- Lenin để vận dụng vào tổng kết những
kinh nghiệm hoạt động của Đảng ta; hai là, phải học tập văn hóa, khoa học, ký
thuật, kinh tế và quản lý, cán bộ ngành nào thì phải biết rõ chun mơn ngành
ấy. Có như vậy mới khơng rơi vào tình trạng lãnh đạo chung chung, giáo điều.
1.2.2. Văn hoá văn nghệ.
Văn nghệ là biểu hiện tập trung nhất của nền văn hóa, là đỉnh cao của
đời sống tinh thần, là hình ảnh của tâm hồn dân tộc. Nền văn nghệ cách mạng do
Hồ Chí Minh khai sinh có những đặc điểm chủ yếu sau:
Một là, văn nghệ là mặt trân, nghệ sĩ là chiến sĩ, tác phẩm văn nghệ là vũ
khí sắc bén trong đấu tranh cách mạng, trong xây dựng xã hội mới, con người
mới. Từ bản Yêu sách của nhân dân An Nam đến Bản án chế độ thực dân Pháp
và những tác phẩm khác viết vào những năm 1920 – 1930, Hồ Chí Minh đã vạch
11


trần bộ mặt tàn ác, âm mưu thâm độc của chủ nghĩa thực dân, đồng thời thức
tỉnh nhân dân Việt Nam và nhân dân các nước thuộc địa đứng lên tự giải phóng;
với tinh thần “Nay ở trong thơ nên có chép; nhà thơ cũng phải biết xung phong”.
Người chỉ rõ ngòi bút của các văn nghệ sĩ cũng là những vũ khí sắc bén trong sự
nghiệp phị chính trừ tà.
Hai là, văn nghệ phải gắn liền với thực tiễn của đời sống nhân dân – đó
là đời sống lao động sản xuất, chiến đấu, sinh hoạt và xây dựng xã hội mới.
Theo Hồ Chí Minh, văn nghệ vừa phản ánh thực tiễn vừa thúc đẩy sự phát triển
của thực tiễn hay theo quy luật của cái đẹp, và chỉ có thực tiễn đời sống của
nhân dân mới đem lại nguồn sinh khí vơ tận cho sáng tác và sáng tạo văn hóa,
nghệ thuật. Do vậy, người chiến sĩ văn nghệ phải hịa mình với quần chúng và
khơng được qn rằng chỉ có nhân dân mới ni dưỡng cho sáng tác của mình.
Ba là, phải có những tác phẩm văn nghệ xứng đáng với thời đại mới của
đất nước và dân tộc, phải phản ánh cho hay, cho chân thật sự nghiệp cách mạng
của nhân dân, được quẩn chúng yêu thích. Muốn vậy, phải có những tác phẩm

mang tính nghệ thuật cao, nghĩa là những tác phẩm hay- những tác phẩm diễn
đạt đầy đủ những điều đang nói, trình bày sao cho mọi người ai đọc cũng hiểu
được và sau khi đọc xong, độc giả phải suy ngẫm; văn phong phải trong sáng,
vui tươi, nội dung phải chân thực, phong phú tạo nên sự hấp dẫn, sự bổ ích của
nó đối với quần chúng. Phản ánh chân thực còn là sự phản ánh có tính định
hướng, nghĩa là vừa phản ánh đúng vừa hướng nhân loại bỏ cái giả, cái sai, cái
xấu để vươn tới những giá trị thật, đúng và đẹp.
1.2.3. Văn hoá đời sống
Tư tưởng về xây dựng đời sống mới lần đầu tiên được phát động vào
tháng 1 năm 1946 và đến tháng 3 năm 1947 Hồ Chí Minh viết cuốn sách Đời
sống mới để hướng dẫn nhân dân cách làm.
Khái niệm Đời sống mới của Hồ Chí Minh bao gồm cả đạo đức mới, lối
sống mới và nếp sống mới. Đạo đức gắn liền với nếp sống và lối sống, được thể
hiện qua lối sống và nếp sống. Vì vậy, xây dựng đạo đức phải được tiến hành
12


đồng thời với lối sống và nếp sống.Đạo đức mới là cần, kiệm, liêm, chính, chí
cơng vơ tư.
Lối sống mới là lối sống có lý tưởng, có đạo đức, phong cách sống và
phong cách làm việc. Theo Hồ Chí Minh có năm cách phải sửa đổi là “cách ăn,
cách mặc, cách ở, cách đi lại, cách làm việc”. Nếu C.Mác nói đến ăn, mặc, ở, …
để tồn tại thì Hồ Chí Minh nói đến mặt văn hóa của ăn, mặc, ở… và phải xây
dựng một phong cách sống giản dị, khiêm tốn, ngăn nắp, một phong cách làm
việc dân chủ, tập thể, khoa học.
Nếp sống mới là quá trình xây dựng thói quen của lối sống mới, từ bỏ
dần thói quen của lối sống cũ và xây dựng phong tục tập quán mới thay cho
phong tục tập quán cũ cổ hủ. Dĩ nhiên khơng phải cái gì cũ cũng là xấu, phải bỏ
đi. Cái cũ mà xấu thì phải bỏ đi, cái cũ mà khơng xấu nhưng phiền hà thì phải
sửa đổi lại cho hợp lý, cái cũ mà tốt thì phải phát triển thêm, cái mới mà hay thì

phải làm. Như vậy, nếp sống mới là nếp sống văn minh, lịch sự.
Tóm lại, tư tưởng văn hóa Hồ Chí Minh đã hội tụ đủ các yếu tố truyền
thống và hiện đại, dân tộc và nhân loại, kế thừa và đổi mới. Từ Người tỏa ra một
nền văn hóa khơng phải của quá khứ và hiện tại mà là một nền văn hóa của
tương lai.

13


CHƯƠNG 2. VẬN DỤNG QUAN ĐIỂM HỒ CHÍ MINH TRONG VIỆC
XÂY DỰNG NỀN VĂN HÓA VIỆT NAM HIỆN NAY
Xây dựng văn hóa phải bắt đầu từ mỗi con người với tư cách là chủ thể
văn hóa. cần làm cho những con người đó có thói quen tự học, vươn lên chiếm
lĩnh những thành tựu hiện đại về văn hóa, khoa học… của thế giới và giữ gìn
bản sắc văn hóa dân tộc trong quá trình giao lưu hội nhập với thế giới và ngăn
chặn âm mưu lợi dụng văn hóa để thực hiện “diễn biến hịa bình” của các thế lực
thù địch. Phương pháp mà Hồ Chí Minh đưa ra để xây dựng nền văn hóa mới là
phải xây dựng và bồi dưỡng những điển hình tích cực về văn hóa, biểu dương cổ
vũ, tạo thành phong trào quần chúng ngày càng sâu rộng, làm cho văn hóa mới
ngày càng thấm sâu vào đời sống nhân dân, làm cho đời sống trở thành đời sống
có văn hóa. Các phong trào “Người tốt việc tốt”, “ xây dựng nếp sống văn minh,
gia đình văn hóa”,…phải được đẩy mạnh và làm cho phong trào ấy thực sự trở
thành động lực thúc đẩy việc xây dựng đời sống văn hóa trong xã hội.
2.1. Bối cảnh thế giới và trong nước
2.1.1. Tình hình thế giới
Đi vào thế kỉ XXI, cùng với vấn đề giáo dục, vấn đề con người, nổi lên trên
đó là vấn đề văn hoá, vấn đề phát triển xã hội bền vững trong đó mục tiêu đào
tạo nguồn nhân lực cho phát triển xã hội trở thành cốt lõi. Cũng có thể nói
ngược lại, cùng với văn hố, vấn đề con người cũng được nổi lên và thu hút
nhiều sự quan tâm đặc biệt.


 Những xu thế văn hoá trong thời đại ngày nay:
- Một là, xu hướng đầu tư cho văn hoá để quảng bá con người
- Hai là, xu hướng tôn trọng sự đa dạng, đối thoại và cùng chung sống giữa
các nền văn hoá
- Ba là, xu hướng văn hoá đề cao giá trị đạo đức xã hội và gia đình
- Bốn là, xu hướng văn hố đề cao lối sống chậm
14


- Năm là, xu hướng văn hoá đề cao lối sống quan tâm tới thân phận yếu thế
trong xã hội
- Sáu là, xu hướng văn hoá đề cao lối sống thân thiện với thiên nhiên, mơi
trường.
Việt Nam là nước có bề dày lịch sử, văn hố độc đáo có nhiều nét riêng
hấp dẫn. Để hình thành nên cốt cách văn hoá mới cho dân tộc chúng ta phải tiếp
nhận, chọn lọc ra sao ảnh hưởng không nhỏ đến sự phát triển đất nước mà hẹp
tận cùng là tư duy con người hơm nay và tương lai.
2.1.2. Tình hình trong nước
Bối cảnh lịch sử trong nước vào những năm đầu thế kỷ XXI, sau gần ba
mươi năm đổi mới nổi lên một số đặc điểm lớn tác động trực tiếp tới việc phát
huy vai trị của văn hố trong sự phát triển.
Trong quá trình đổi mới, đất nước đã thu được những thành tựu quan trọng
trên tất cả các mặt: kinh tế, chính trị, văn hố, xã hội, an ninh, quốc phòng, quan
hệ quốc tế, tạo cho nước ta những tiềm năng, thế mạnh, vị thế mới để bước vào
thời kì đẩy mạnh cơng nghiệp hố, hiện đại hố. Điều dễ nhận thấy nhất là cơ sở
vật chất - kỹ thuật của nền kinh tế được tăng cường. Đất nước ta còn nhiều tiềm
năng lớn về tài nguyên, nguồn lực lao động. Tình hình chính trị, xã hội cơ bản
ổn định. Mơi trường hồ bình, sự hợp tác, liên kết quốc tế và những xu thế tích
cực trên thế giới tạo điều kiện cho chúng ta tiếp tục phát huy nội lực và lợi thế

so sánh, tranh thủ ngoại lực - nguồn vốn, công nghệ mới, kinh nghiệm quản lý,
mở rộng thị trường, phân công lao động, phục vụ sự nghiệp cơng nghiệp hố,
hiện đại hố gắn liền với phát triển kinh tế tri thức nhằm không ngừng cải thiện
và nâng cao đời sống của nhân dân.
Tuy nhiên, đất nước đang phải đối đầu với nhiều khó khăn, thách thức, thể
hiện rõ nhất, tập trung nhất ở bốn nguy cơ: Nguy cơ tụt hậu về kinh tế so với các
nước trong khu vực và trên thế giới; nguy cơ chệch hướng xã hội chủ nghĩa;
nguy cơ “diễn biến hồ bình”; nguy cơ tham nhũng, quan liêu.
15


Cách mạng trên lĩnh vực văn hoá là một quá trình đổi mới sâu sắc bao gồm
bảo vệ, chấn hưng, kế thừa và phát huy những truyền thống văn hoá tốt 14 đẹp
của dân tộc, tiếp thu những cái hay, cái tốt, cái đẹp của văn hoá nhân loại, xây
dựng một xã hội cơng bằng dân chủ, văn minh, vì lợi ích chân chính và phẩm
giá con người cách mạng trên lĩnh vực văn hố trong bối cảnh tồn cầu hoá là
phải chống lại tư tưởng, văn hoá phản tiến bộ, lai căng trái với truyền thống văn
hoá tốt đẹp của dân tộc và những giá trị cao quý của loài người, trái với tư tưởng
độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Nghĩa là làm cho văn hoá phát huy được vai
trò nền tảng tinh thần xã hội của mình. Để làm được những điều đó, sự lãnh đạo
của Đảng ta đóng vai trị cực kỳ quan trọng.
2.2. Đảng lãnh đạo trên lĩnh vực phát huy vai trò của văn hoá trong phát
triển đất nước
Ngay từ khi mới ra đời, Đảng ta đã xác định mục đích của cuộc cách
mạng là giải phóng dân tộc, giải phóng gia cấp, giải phóng con người gắn với
xây dựng một nền văn hố của dân tộc. Cách mạng giải phóng dân tộc làm hồi
sinh các giá trị văn hoá, thúc đẩy văn hố dân tộc phát triển. Đó là văn hố yêu
nước, một nền văn hoá tiến bộ và giàu giá trị nhân văn, văn hố vì con người. Sự
nghiệp giải phóng dân tộc gắn liền với sự nghiệp xây dựng và phát triển văn
hoá.

Bước đột phá trong quan điểm của Đảng về lĩnh vực văn hoá gắn liền
với Đại hội VI (1986) - Đại hội mở đầu thời kỳ đổi mới. Đảng đã khẳng định vị
trí quan trọng của văn hoá trong việc xây dựng nhân cách, xây dựng lối sống cho
con người. Yếu tố tinh thần của văn hoá một lần nữa được nhấn mạnh, hạt nhân
của văn hoá tinh thần chính là rèn luyện đạo đức cách mạng, Đảng đã cụ thể hoá
quan điểm ấy bằng hàng loạt Nghị quyết và chỉ thị mang tính định hướng cho
quá trình phát huy hơn nữa vai trị của văn hố đối với sự phát triển đất nước.
Hội nghị lần thứ 5 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá VIII diễn ra từ
ngày 6-7 đến 16-7- 1998, đã ra Nghị quyết xây dựng và phát triển nền văn hoá
Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Nghị quyết ra đời trở thành văn bản
16


mang tính pháp lý, việc thể chế hố Nghị quyết tạo điều kiện thuận lợi cho văn
hoá phát triển sâu rộng, hiệu quả trên các mặt của đời sống xã hội, đóng góp vai
15 trị nhiều hơn nữa cho sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước ổn định.
Văn hoá trở thành nhân tố quyết định để nâng cao chất lượng cuộc sống, để xây
dựng đất nước theo mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Hay nói cách
khác, văn hố trở thành nhân tố khơng thể thiếu trong mục tiêu phát triển đất
nước bền vững, tồn diện.
Trong Đại hội X, lần đầu tiên, vai trị của văn hoá - nền tảng tinh thần
của xã hội thành một mục tiêu riêng, “độc lập” với giáo dục, đào tạo, khoa học
cơng nghệ. Văn hố là nền tảng tinh thần của xã hội vì văn hố có chức năng
định hình các giá trị, chuẩn mực trong đời sống xã hội mà vai trò cốt tuỷ là hệ tư
tưởng. Vai trị này của văn hố dưới sự lãnh đạo của Đảng chắc chắn sẽ phát huy
hiệu quả hơn nữa trong nhận thức cũng như trong hành động của các tổ chức, cá
nhân vì mục tiêu tiến bộ xã hội.
Đại hội XI, nhận định về vai trị của văn hố được đúc kết cô đọng hơn,
cụ thể hơn, tập trung vào các nội dung cụ thể. Văn hố góp phần củng cố và tiếp
tục xây dựng mơi trường văn hố lành mạnh, phong phú, đa dạng; tiếp tục đinh

hướng việc đẩy mạnh xây dựng nếp sống văn minh trong cưới, việc tang, lễ
hội…; cổ vũ việc triển khai cuộc vận động xây dựng gia đình Việt Nam, ni
dưỡng giáo dục thế hệ trẻ.
2.3. Thực trạng
Hiện nay có rất nhiều quan điểm khác nhau về các yếu tố hợp thành văn
hoá và vai trị của văn hố với sự phát triển, tuy nhiên các quan điểm này đều có
tư tưởng chủ đạo là: Con người làm ra văn hoá và văn hố thúc đẩy sự phát
triển, tiến bộ xã hội vì sự phát triển và hoàn thiện của con người.
Thực trạng Đảng phát huy vai trị của văn hố trong phát triển đất nước
khơng thể nhìn nhận một cách chung chung mà phải được đánh giá qua việc
Đảng phát huy vai trị của các yếu tố hợp thành nền văn hố đối với sự phát
17


triển, tiến bộ xã hội và phát huy vai trò của văn hoá đối với các mặt của đời sống
xã hội. Cụ thể:
 Thành tựu Một là, văn hoá với sự phát triển kinh tế
 Hai là, văn hoá với sự phát triển con người và nguồn nhân lực
 Ba là, vai trị văn hố với giáo dục
 Bốn là, vai trị của văn hố với chính trị
 Năm là, văn hoá đạo đức
2.4. Thành tựu
- Trong sự hợp tác đa dạng, nước ta đã tổ chức thành công nhiều hoạt động văn
hóa, nghệ thuật ở nước ngồi, đã chủ động lựa chọn, xây dựng, tạo được một số
sản phẩm, ấn phẩm, cơng trình văn hóa, chương trình nghệ thuật có chất lượng
cao phục vụ cơng tác giao lưu và hợp tác, được trình diễn, triển lãm ở nước
ngồi. Thời gian qua, chúng ta đã nhận được nhiều giải thưởng quốc tế về văn
hóa, nghệ thuật tại các cuộc thi, triển lãm, liên hoan quốc tế. Cùng với lực lượng
hoạt động văn hóa, nghệ thuật chun nghiệp, lực lượng đơng đảo hoạt động
văn hóa, nghệ thuật quần chúng của các tổ chức và đồn thể cũng đã gópphần

làm phong phú, đa dạng sự giao lưu văn hóa của nước ta với cả ở trong và ngoài
nước
- Nhiều phong trào, cuộc vận động văn hóa được thực hiện và có những thành
tựu nhất định, góp phần tạo mơi trường văn hóa, bảo vệ và phát huy những giá
trị nhân văn truyền thống tốt đẹp của dân tộc. Nhiều giá trị văn hóa, đạo đức
truyền thống được tơn vinh, tính năng động sáng tạo, tự chủ và tính tích cực xã
hội của người dân được phát huy, mở rộng.
- Có thể thấy văn hóa Việt Nam có bề dày truyền thống mấy nghìn năm lịch sử,
trải qua nhiều cuộc chiến tranh, nhiều biến cố thăng trầm nên kết tinh và lắng
đọng được nhiều giá trị tích cực, như truyền thống yêu nước và lịng dũng cảm,
khả năng thích ứng cao với sự thay đổi của hoàn cảnh, sự khoan dung, tinh thần
18


cộng đồng, sự nhân ái, lạc quan và hồn hậu, trọng nghĩa tình, sự cần cù, siêng
năng.
- Trong điều kiện công nghệ thông tin, internet, mạng xã hội phát triển mạnh mẽ,
Việt Nam rất coi trọng bảo vệ, gìn giữ văn hóa truyền thống, đấu tranh chống lại
các sản phẩm phi văn hóa, các thơng tin sai trái, thù địch.
2.5. Hạn chế
Tuy nhiên, trong quá trình xây dựng nền văn hóa mới ở nước ta, bên cạnh
những thành tựu đạt được, trước tác động của mặt trái cơ chế thị trường, sự du
nhập lối sống thực dụng của nước ngoài nên vẫn cịn tồn đọng tình trạng:
- Do ảnh hưởng lâu dài của cơ chế tập trung quan liêu, bao cấp nên một bộ phận
cán bộ, đảng viên và nhân dân vẫn chưa thoát khỏi cách nghĩ, cách làm, lối sống
bảo thủ, ỷ lại trơng chờ… cùng với đó là sự trở lại của nhiều phong tục, tập quán
lạc hậu và nạn mê tín dị đoan ở các địa phương, nhất là vùng đồng bào dân tộc
thiểu số sau một thời gian được kìm chế lại bùng phát trở lại.
- Suy thoái về đạo đức, lối sống ở một bộ phận khơng nhỏ cán bộ, đảng viên,
trong đó có cả cán bộ có chức, có quyền. Nạn tham nhũng, dùng tiền của Nhà

nước tiêu xài phung phí, ăn chơi sa đọa khơng được ngăn chặn có hiệu quả. Hiện
tượng quan liêu, cửa quyền, sách nhiễu nhân dân, kèn cựa địa vị, cục bộ, địa
phương, bè phái, mất đoàn kết khá phổ biến. Những tệ nạn đó gây sự bất bình
của nhân dân, làm tổn thương uy tín của Đảng, của Nhà nước.
- Tồn cầu hóa đang đưa lối sống Phương Tây vào nước ta. Lối sống ấy, một
mặt, tác động tích cực đến việc làm thay đổi lối sống khép kín, cam chịu, phụ
thuộc, ỷ lại vốn có của người Việt Nam sang một lối sống cởi mở, năng động, tự
lập, dám chịu trách nhiệm, phù hợp với xu thế thời đại. Tuy nhiên, cũng chính
việc tiếp thu lối sống đó một cách thiếu định hướng mà dẫn đến việc xa rời lối
sống theo chuẩn mực đạo đức dân tộc. Các công nghệ thông tin hiện đại đang
truyền bá khắp thế giới lối sống sùng bái vật chất, cá nhân, vị kỷ, thực dụng, đua
đòi, ăn chơi xa hoa, lãng phí, sống trụy lạc, thác loạn, ưa dùng bạo lực…
19


- Đầu tư cho văn hóa chưa tương xứng với vai trị, vị trí của văn hóa trong phát
triển. Về tổng thể, mức đầu tư cho văn hóa trong tổng chi ngân sách tương đối
thấp so với các lĩnh vực khác, chưa tương xứng với thực tiễn, chưa đồng đều. Hệ
thống các thiết chế và cơ sở vật chất cho hoạt động văn hóa nhìn chung cịn kém
phát triển và trong tình trạng xuống cấp, chắp vá, thiếu đồng bộ, hiệu quả sử
dụng cịn thấp. Cơng tác quy hoạch, đầu tư phát triển thiết chế văn hóa trọng
điểm cịn chậm. Hệ thống thiết chế văn hóa vùng nơng thơn, nhất là vùng sâu,
vùng xa còn thiếu và chưa đồng bộ, chưa thực sự phù hợp với đặc điểm vùng,
miền, với nhu cầu và nguyện vọng của người dân; nội dung hoạt động còn
nghèo nàn, chưa thiết thực.
- Bản sắc văn hóa dân tộc có nguy cơ bị phai nhạt. Nhiều dân tộc thiểu số đã và
đang mất dần những nét văn hóa đặc sắc trong tiến trình phát triển, hội nhập, đời
sống văn hóa nghệ thuật nghèo nàn. Nhiều loại hình di sản văn hóa phi vật thể
của đồng bào các dân tộc thiểu số chưa được chú trọng kiểm kê và lập hồ sơ bảo
vệ. Nhiều loại hình văn hóa - nghệ thuật chưa được quan tâm phát triển, trong đó

có nhiều ngành nghệ thuật đỉnh cao và nghệ thuật truyền thống, nghệ thuật công
cộng, nghệ thuật mới.

20


CHƯƠNG 3. PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP
3.1. Phương hướng
- Củng cố và tiếp tục phát huy vai trị mơi trường văn hóa, xây dựng nếp
sống lành mạnh, phong phú, đa dạng
- Phát huy vai trò của văn học nghệ thuật trong việc bảo tồn, phát huy giá
trị các di sản văn hóa truyền thống, cách mạng.
- Phát huy vai trị của thông tin đại chúng nhằm nâng cao chất lượng đời
sống tinh thần cho nhân dân
- Nâng cao vai trò của văn hoá trong hợp tác quốc tế
3.2. Một số giải pháp
Sự phát triển đất nước đất nước hiện nay trên nền tảng tư tưởng Hồ Chí
Minh là sự phát triển được nhìn nhận và giải quyết đồng bộ trên tất cả các lĩnh
vực. Đó là sự phát triển kinh tế, chính trị, văn hố, xã hội, mơi trường, giáo dục
– đào tạo, khoa học – công nghệ, quan hệ đối ngoại và hội nhập kinh tế quốc tế,
lấy con người là mục tiêu động lực sự phát triển. Để thực hiện những quan điểm
chỉ đạo trên, Đảng ta cần thưcc̣ hiên c̣các giải pháp lớn:
-

Một là, thực hiện chiến lược con người

-

Hai là, tăng cường vai trò của văn hố trên lĩnh vực chính trị Tăng cường
trí tuệ, bản lĩnh, đạo đức, nhân văn trong Đảng Củng cố vai trị của văn

hố trong quản lý nhà nước

-

Ba là, phát triển kinh tế phải thống nhất với việc giải quyết tốt các vấn đề
xã hội

-

Bốn là, chính sách văn hố cần được ưu tiên trong hệ thống chính sách
kinh tế - xã hội.

-

Năm là, tích cực phịng ngừa và kiên quyết chống tham ô, tham nhũng,
21


KẾT LUẬN
Hồ Chí Minh là một trong những nhân vật tiêu biểu trong lịch sử nhận
loại có đóng góp lớn vào tiến trình phát huy vai trị của văn hố đối với phát
triển xã hội. Sự nghiệp của Người gắn liền với việc nền văn hố mà trong đó các
giá trị của nó được biểu đạt và tác động một cách mạnh mẽ đến những gì tốt đẹp
nhất mà con người toàn nhân loại và các dân tộc trên thế giới khát khao vươn
tới. Quá trình Đảng lãnh đạo xây dựng và phát triển văn hóa đã mang lại nhiều
thành tựu cho sự phát triển bền vững của đất nước. Đảng cũng thu nhận được
một số kinh nghiệm quý báu. Những thành tựu và kinh nghiệm trong quá phát
huy vai trị của văn hố đối với sự phát triển xã hội đã tạo tiền đề để chấn hưng
nền văn hóa dân tộc trong thế kỷ mới.
Để phát huy mạnh mẽ hơn nữa vai trị của văn hố đối với các mục tiêu

của Đảng đề ra cũng như đối với sự phát triển đất nước, đòi hỏi Đảng và Nhà
nước phải kiên trì chiến lược xây dựng và phát triển nền văn hóa theo triết lý
phát triển Hồ Chí Minh. Để thực hiện được những nhiệm vụ trên, trước hết
Đảng phải khơng ngừng nâng cao văn hố lãnh đạo, phải rèn luyện trí tuệ, bản
lĩnh, phẩm chất đạo đức của mình. Có như vậy, Đảng và Nhà nước ta mới thực
hiện mục tiêu: dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Bên cạnh đó, cần giữ gìn và phát huy bản sắc dân tộc lên một tầm cao
mới, khơng ngừng sáng tạo những giá trị văn hóa mới để văn hóa Việt Nam vẫn
giữ được “cốt cách” dân tộc, vừa theo kịp bước tiến chung của nhân loại. Xây
dựng mơi trường văn hố lành mạnh, xây dựng nếp sống văn hoá ở cơ sở, phát
huy chức năng giáo dục của văn hố gia đình, đầu tư thích đáng cho con người
cũng chính là xây dựng nguồn lực chủ yếu cho sự phát triển đất nước, không chỉ
giáo dục tri thức mà cịn phải rèn luyện văn hố đạo đức, chủ nghĩa yêu nước ….
22


để con người có đủ năng lực trí tuệ và bản lĩnh đưa đất nước ta thoát khỏi nghèo
nàn, lạc hậu, phát triển hài hồ, bền vững. Đảng cần có chiến lược đầu tư cơ sở
hạ tầng cho văn hoá giáo dục, văn hố truyền thơng, văn hố nghệ thuật, ….
nhằm đẩy mạnh hoạt động văn hoá trong cả nước, thơng qua đó, tạo ra sự
chuyển biến trong nhận thức về vai trị của văn hố. Để thực hiện được những
nhiệm vụ trên, trước hết Đảng phải không ngừng nâng cao văn hố lãnh đạo,
phải rèn luyện trí tuệ, bản lĩnh, phẩm chất đạo đức của mình. Có như vậy, Đảng
và Nhà nước ta mới thực hiện mục tiêu: dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng,
dân chủ, văn minh. Đất nước ta, dưới sự lãnh đạo của Đảng, Hồ Chí Minh theo
con đường ấy, chắc chắn sẽ ghi danh tên dân tộc Việt Nam trường tồn vĩnh cửu.

23



×