Tải bản đầy đủ (.docx) (60 trang)

Đề tài : Điều tra, thu thập, đánh giá nguồn gen cây ngải cứu ở một số vùng tỉnh Hà Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.02 MB, 60 trang )

Đề tài : Điều tra, thu thập, đánh giá nguồn gen cây ngải cứu ở một số vùng
tỉnh Hà Nam
LỜI CẢM ƠN
Trong thời gian thực tập tốt nghiệp cho đến khi hồn thành bài khóa luận
này, được sự giúp đỡ nhiệt tình của các cấp lãnh đạo, tập thể, cá nhân và gia
đình ,bên cạnh sự nỗ lực cố gắng của bản thân, tơi đã hồn thành bài khóa luận
tốt nghiệp này.
Đầu tiên, tơi xin chân thành bày tỏ lịng biết ơn sâu sắc đến TS . Ninh Thị
Phíp đã chỉ bảo , hướng dẫn tận tình trong suốt thời gian tơi thực hiện đề tài
cũng như trong việc hồn chỉnh bài khóa luận.
Và tơi cũng xin gửi lời cảm ơn đến các lãnh đạo của trường Học Viện
Nông Nghiệp Việt Nam, ban chủ nghiệm khoa Nông Học, các cán bộ giảng dạy
thuộc bộ môn cây Công Nghiệp và Cây Thuốc đã tạo mọi điều kiện để cho tôi
thực hiện đề tài tốt nghiệp.
Trong quá trình thực hiện đề tài, tôi đã tiến hành điều tra ở các xã, huyện
trong tỉnh Hà Nam, tơi đã có dịp tiếp xúc với bà con nông dân, các cán bộ xã và
nhận được sự tương trợ quý giá của họ trong giai đoạn đi điều tra, cùng với sự
giúp đỡ của các cô, chú đang làm việc tại khu thí nghiệm thuộc bộ Mơn Cây
cơng nghiệp và cây thuốc thì tơi xin chân thành biết ơn họ đã hỗ trợ tơi hồn
thành khóa luận.
Và cuối cùng, tôi xin giành lời cảm ơn đến gia đình, bạn bè, những người
ln sát cánh bên cạnh tơi trong thời gian làm khóa luận này.
Tơi xin chân thành cảm ơn !
Hà Nội, Ngày Tháng Năm
Sinh viên thực hiện đề tài
Đào Thành Luân


Phụ lục
Lời cảm ơn
Mục lục


Danh mục bảng
Danh mục hình
Danh mục từ viết tắt
Phần 1 : Mở đầu
I.

Đặt vấn đề

II.

Mục đích và yêu cầu đề tài
II.1 Mục đích
II.2 Yêu cầu

Phần 2 : Tổng quan tài liệu
I.

Nguồn gốc và phân loại
1.1 Nguồn gốc
1.2 Phân loại
1.3 Đặc điểm thực vật học
1.4 Đặc điểm sinh trưởng trong năm của cây
1.4.1 Đặc điểm sinh trưởng của thân ngầm
1.4.2 Sự sinh sản của cây
1.4.3 Khả năng sống và nảy mầm của hạt
1.4.4 Khả năng lưu trữ hạt giống
1.5 Thành phần hóa học
1.6 Tác dụng của ngải cứu
1.6.1 Sử dụng trong trị liệu
1.6.2 Các món ăn và bài thuốc

1.6.3 Trong lĩnh vực phòng trừ sâu bệnh
1.7 Yêu cầu sinh trưởng cây ngải cứu
1.7.1 Yêu cầu về độ cao
1.7.2 Yêu cầu về đất đai


1.7.3 Yêu cầu về khí hậu
II.

Những kết quả nghiên cứu về cây ngải cứu

Phần 3 : Nội dung và phương pháp nghiên cứu
I.

Đối tượng nghiên cứu và vật liệu nghiên cứu

II.

Địa điểm thực hiện đề tài
II.1 Địa điểm điều tra
II.2 Địa điểm nghiên cứu
II.3 Thời gian nghiên cứu
II.4 Nội dung nghiên cứu

III.

Phương pháp nghiên cứu
III.1 Phương pháp điều tra và lấy mẫu
III.2 Bố trí thí nghiệm


IV.

Kỹ thuật trồng

V.

Các chỉ tiêu theo dõi
V.1 Đặc điểm hình thái các mẫu giống ngải cứu
V.2 Đặc điểm sinh trưởng và phát triển của cây
V.3 Khả năng sinh trưởng của cây

Phần 4 : Kết quả và thảo luận
4.1

Kết quả điều tra
4.1.1 Điều kiện tự nhiên ở khu vực tỉnh Hà Nam
4.1.1.1 Vị trí địa lý
4.1.1.2 Điều kiện tự nhiên
4.1.2 Tình hình sử dụng cây ngải cứu
4.1.3 Tình hình tiêu thụ cây ngải cứu
4.1.4 Các bài thuốc dân gian sử dụng cây ngải cứu
4.1.5 Nguồn gốc của các mẫu giống thu thập

4.2

Đặc điểm nông sinh học của các mẫu giống
4.2.1 Đặc điểm hình thái thân
4.2.2 Đặc điểm hình thái lá

4.3


Khả năng sinh trưởng của mẫu giống ngải cứu


4.3.1 Động thái tăng trưởng chiều cao của các mẫu giống ngải cứu
4.3.2 Động thái tăng trưởng đường kính của các mẫu giống ngải cứu
4.3.3 Động thái tăng trường số lá/thân chính của các mẫu giống ngải cứu
4.4

Chỉ số SPAD của các mẫu giống ngải cứu

4.5

Mức độ sâu bệnh hại trên các mẫu giống ngải cứu

4.6

Năng suất các mẫu giống ngải cứu

Phần 5 : Kết luận và đề nghị
5.1. Kết luận
5.2. Đề nghị
Tài liệu tham khảo


Danh mục bảng
Bảng 4.1 : Thời tiết khu vực Hà Nam
Bảng 4.2 : Điều tra sử dụng cây ngải cứu
Bảng 4.3 : Tình hình tiêu thụ cây ngải cứu
Bảng 4.4 : Các bài thuốc sử dụng cây ngải cứu

Bảng 4.5 : Nguồn gốc của các mẫu thu thập
Bảng 4.6 : Đặc điểm hình thái thân các mẫu giống ngải cứu
Bảng 4.7 : Đặc điểm hình thái lá các mẫu giống ngải cứu
Bảng 4.8: Động thái tăng trưởng chiều cao của các mẫu giống ngải cứu
Bảng 4.9 : Động thái tăng trưởng đường kính của các mẫu giống ngải cứu
Bảng 4.10: Động thái tăng trưởng số lá/thân chính của các mẫu giống ngải cứu
Bảng 4.11 : Chỉ số SPAD của các mẫu giống ngải cứu
Bảng 4.12 : Mức độ sâu bệnh hại trên các mẫu giống ngải cứu
Bảng 4.13 : Năng suất các mẫu giống ngải cứu


Danh mục hình
Hình 1.3 : Cấu tạo bơng hoa ngải cứu
Hình 1.4 : Hạt ngải cứu
Hình 4.1 : Biểu đồ thời tiết khu vực Hà Nam
Hình 4.2 : Hình thái rễ của các mẫu giống ngải cứu
Hình 4.3 : Hình thái lá của các mẫu giống ngải cứu
Hình 4.4 : Động thái tăng trưởng chiều cao của các mẫu giống ngải cứu
Hình 4.5 : Động thái tăng trưởng đường kính của các mẫu giống ngải cứu
Hình 4.6 : Động thái tăng trưởng số lá/thân chính của các mẫu giống ngải cứu


Danh mục từ viết tắt


PHẦN 1: Mở đầu
I.

Đặt vấn đề:
Ngải cứu (Artemisia vulgaris) còn có nhiều tên gọi khác như: thuốc cứu,


ngải diệp, nhả ngải (tiếng Tày), quá sú (Hmong), co linh li(Thái).
Từ xưa đến nay, Ngải cứu đã được biết đến, sử dụng phổ biến trong các bài
thuốc dân gian , các món ăn quen thuộc.
Ngải cứu được sử dụng trong châm cứu hoặc xơng khói, chữa viêm xoang
mũi, họng, trị nhức đầu rất tốt. Mặt khác, lá thuốc cứu cịn có tinh dầu tanin với
các hoạt chất như: methatuyon, cyneolamin. Thuốc cứu vị đắng, thơm nồng
hăng hắc, tính ấm, có thể dùng lá tươi giã nát, đắp lên vết thương, cầm máu
nhanh, giảm đau nhức… Một số bài thuốc được sủ dụng phổ biến hiện nay như:
Chứng đau đầu, đau bụng do lạnh, tác dụng an thai, hay tăng cường sức khỏe
cho phụ nữ sau khi sinh.
Trong văn hóa ẩm thực Ngải cứu cũng được sử dụng như một món ăn đặc
trưng cho một số vùng quê. Một số món ăn ngày nay được nhiều nới biết đến và ưu
chuộng như: Trứng gà tráng ngải cứu, gà tần ngải cứu, hay canh ngải cứu nấu thịt
nạc..v.v. Tất cả các món ăn đều có những tác dụng riêng tốt cho sức khỏe.
Ngày nay, cây Ngải cứu đã được người dân đưa vào sản xuất như một loại
rau thực phẩm hàng ngày ở các vùng. Đó là một dấu hiệu lạc quan cho thấy xu
hướng nhu cầu của thị trường đối với giống rau-thuốc này. Theo các tài liệu báo
cáo khoa học, trong cây ngải cứu có chứa một số hoạt chất có tác dụng chữa
bệnh hiệu quả cho con người. Và trong thực tế cuộc sống với những bài thuốc
mà con người dùng ngải cứu để chữa bệnh đã chứng minh được tính hiệu quả
trong việc chữa bệnh của cây ngải cứu. Nguồn gen ngải cứu rất đa dạng, phân
bố ở nhiều nơi. Vì vậy cần nắm bắt được tình hình phân bố, cách thức sử dụng
cây ngải cứu để có định hướng trong việc mở rộng quy mô trồng cây ngải cứu
phục vụ cho cuộc sống và nghiên cứu khoa học , đặc biệt là nguồn nguyên liệu
quan trọng trong lĩnh vực y học.
Nhận thức được tính cấp thiết của vấn đề này chúng tôi thực hiện đề tài “


“Điều tra, thu thập và đánh giá mẫu giống ngải cứu ở một số vùng Tỉnh Hà

Nam ”
II.

Mục đích và yêu cầu của đề tài:

2.1.

Mục đích của đề tài:
Điều tra tình hình sử dụng, mức độ tiêu thụ, thu thập và đánh giá các mẫu

giống cây ngải cứu trên địa bàn một số vùng thuộc tỉnh Hà Nam (Lý Nhân , Kim
Bảng và thành phố Phủ Lý) từ đó góp phần định hướng trong chọn giống và sản
xuất ngải cứu phù hợp nhu cầu người tiêu dùng.
2.2.

Yêu cầu của đề tài:



Điều tra điều kiện tự nhiên (nhiệt độ, độ ẩm, ánh sáng, lượng mưa)

tại Hà Nam.


Điều tra tình hình sử dụng cây ngải cứu tại Hà Nam.



Điều tra tình hình tiêu thụ và sơ chế biến cây ngải cứu tại Hà Nam.




Điều tra các bài thuốc có cây ngải cứu tại Hà Nam.



Thu thập và đánh giá các mẫu giống ngải cứu thu thập tại Hà Nam


PHẦN 2: TỔNG QUAN TÀI LIỆU
I.

Nguồn gốc và phân loại:

I.1.

Nguồn gốc:

Ngải cứu được biết đến từ thời cổ đại và đã từng được xem như một lồi cỏ dại.
Nó có nguồn gốc từ các vùng ôn đới ấm ở Bắc Mỹ, châu Âu, châu Á;
vùng nhiệt đới Bắc Phi và vùng hàn đới Alaska.
Tên khoa học hiện nay Artemisia Vulgaris L. xuất phát từ tên Latin, tên của nữ
thần Artémis, người hiện diện để bảo vệ người phụ nữ khỏi bệnh tật.
I.2.

Phân loại:
Ngải cứu (Artemisia vulgaris L.) thuộc: Họ Cúc (Asteracae), Bộ Cúc

(Asterale), Chi Artermisia, Loài A.vulgaris
Atermisia là một loài có số lượng lớn nhất trong họ Ateraceae. Có khoảng trên

800 giống phổ biến trên toàn Thế Giới. Nhiều giống Atermisia mọc ở Châu Âu,
Châu Mỹ và Châu Á.
Chi Artermisia L. có khoảng 300 lồi phân bố ở ơn đới Bắc Mỹ, Tây Nam Mỹ,
Nam Phi, Châu Á. Nước ta có khoảng 15 lồi
Tuỳ vào đặc điểm sinh học và đặc điểm thực vật học mà có thể phân
thành một số loại Ngải cứu sau :
(1) Artemisia absinthium L( Ngải đắng, ngải áp xanh)
Cây thân thảo, cao từ 0,4- 1m, màu trắng, phân cành nhiều, rất thơm. Lá
dạng trứng, phân thùy lơng chim hai đến 3 lần, có cuống và có lơng mềm, mặt
trên lá màu xanh lục, mặt dưới màu trăng trắng. Hoa màu vàng, xếp thành cụm nhỏ
hình cầu, đế hoa có lơng, lá bắc của bao hoa mài lục, dạng vảy, hoa hình ống. Cây ra
hoa từ tháng 1- tháng 7. Quả bế, nhỏ, nhẵn và không có mào lơng.
(2) Artermisia annua L.( Ngải hoa vàng, Hồng hao hao, Thanh hao hoa vàng)
Cây thảo hàng năm, cao đến 1m. Thân có rãnh, gần như khơng có lơng.
Lá có phiến xoăn, 2-3 lần kép tạo thành đoạn hẹp nhọn, khơng có lơng. Chùy
cao ở ngọn mang chùm dài và hẹp, hoa đầu cao, lá bắc ngồi hẹp có lơng xanh.
Hoa tồn hình ống, phía ngồi cụm hoa là hoa cái,phía trong là hoa lưỡng tính.
Ra hoa từ tháng 6-11, quả bế nhẵn, khơng có mào lơng.


(3) Artemisia apiacea Hanceex Wall( Thanh hao, Hương hao, Thanh cao ngị)
Cây thảo, mọc hàng năm, thân khơng có lơng, cao 0,5 – 1,5m, phân cành
nhiều, lá mọc so le, phiến bầu dục, dài 7 – 9cm, lá phân thùy 2 đến 3 lần. Cụm
hoa ở ngọn và nách lá, nhánh dài 5 – 7cm. Hoa nhiều, sít nhau, hoa tồn hình
ống. Cây ra hoa vào tháng 2 – tháng 6.
(4) Artermisia capillaris Thumb ( Nhân trần Trung Quốc, Nhân trần hao,
Ngải lá kim, Thanh hao chỉ)
Cây thân thảo, cao 0,5 – 1,5m, nhánh khơng có lơng, lá ở thân xẻ thùy 1
lần, lá dài 10 – 25cm, đoạn hẹp nhọn, không lông. Lá ở nhánh nhỏ hơn, phần
cuối lá chỉ còn là một đoạn hẹp. Chùm hoa ngắn, mọc ở nách lá hoặc ở đỉnh.

Hoa đầu cao 1,5 – 2mm, lá bắc khơng có lơng, gân ở giữa màu nâu, hoa hình
ống, cao bằng bao hoa. Hoa cái ở ngồi, ở giữa là hoa lưỡng tính. Cây ra hoa
vào tháng 9 – 10. Quả bế nhẵn.
(5) Artermisia dracunculus L. (Ngải thơm, Thanh hao lá hẹp, Thanh cao rồng).
Cây thảo sống nhiều năm, cao 90cm ; thân mọc thẳng đứng, phân nhánh.
Lá khơng cuống, nhẵn , ngun hay hơi có răng, hình giáo nhọn, dài 2 – 8cm,
rộng 3 – 4mm. Cụm hoa ở đầu nách lá, cuống dài đến 1,5cm: mảnh, bao chung
cao 2mm, lá bắc dày, hoa hình ống, màu lục hay trắng, có lơng. Quả bế, nhẵn,
dài 0,6mm.
(6) Artermisia dulbia Wall ( Ngải đen, Thanh hao Bắc Bộ)
Cây thảo sống nhiều năm, cao cỡ 1m. Thân đứng hình trụ, có lơng mịn, lá
có phiến xoan tam giác, dài 5 – 10cm, rộng 9cm, các lá chét thon, xẻ thành đoạn
nhọn,có lơng mịn, mặt trên nâu sẫm, mặt dưới nâu. Cụm hoa chùy, nhánh hoa cao 5
– 7cm, có lơng mịn, hoa đầu mà vàng nhạt, cao 3 -4mm, lá bắc có lưng đậm đen, ra
hoa tháng 12. Quả bế hình trụ hơi dẹt, khơng có mào lơng, cao 0,5mm.
(7) Artermisia japonica Thunb ( Ngải nhật, Ngải cứu rừng, Mẫu hao)
Cây thơm, mọc nhiều năm, thân đứng, cao 50 – 150cm, lá không cuống,
phiến thon ngược, dài 2 – 4cm, từ từ hẹp lên ngọn và nhánh, không có lơng.
Chùy hoa mang chùm dài và hẹp, nhánh mang nhiều hoa đầu gắn một bên, hoa
đầu có cuống cao 2mm, lá bắc có mép trong, khơng có lơng, tất cả đều là hoa


hình ống, hoa ngồi là hoa cái, hoa trong lưỡng tính. Ra hoa tháng 9 - 12. Quả
bế, khơng có mào lông.
(8) Artermisia lactiflora Wall ( Ngải chân vịt, Ngải trắng, Tan qui, Tăng ki).
Cây thân thảo, thơm, cao 0,8 – 1,5m. Thân thẳng, có rãnh dọc, màu tía
tím. Lá có phiến một lần kép gồm 3 – 5 lá chét xoan, to đến 5 x 3,5cm, lúc khô
đen, không lơng, gân bên 2 – 3 đơi, mép có răng cưa tơm thưa. Nhánh khơng
dài, mang các hoa đầu nhóm thành chùy, không cuống, màu trăng trắng, cao 4 –
6mm. Hoa hồn tồn hình ống, hoa cái ngồi, hoa lưỡng tính trong. Ra hoa kết

quả vào mùa hè thu. Quả bế khơng có lơng.
(9) Artermisia maritina L. ( Ngải giun, Ngải biển, Thanh hao biển)
Cây thân thảo, có hương thơm đậm, cao từ 30 – 80cm, lá và hoa có nhiều
lơng nhung trắng. Lá có phiến trịn dài, hai lần xẻ thành đoạn hẹp đều., cuống
dài. Hoa đầu cao 4mm, lá bắc nhiều hàng, trịn dài, có mép mỏng, tồn hoa hình
ống, bên ngồi hoa cái, bên trong là hoa lưỡng tính. Ra hoa tháng 7 – 9. Quả bế
nhỏ, khơng có mào lơng.
(10) Artermisia scoparia Waldst ( Ngải lơng lợn, Ngải cứu chổi, Bắc nhân trần).
Cây thảo sống một đến hai năm. Thân cao từ 70 – 90cm, đường kính
khoảng 4mm, nhánh khơng có lơng. Lá xẻ thành đoạn dài hẹp dài đến 3cm, rộng
0,3 – 0,5mm, không lông. Hoa hình ống, hoa cái ở ngồi, trong là hoa lưỡng
tính. Quả bế nâu, hình bầu dục, dài 0.5 - 0.7mm, khơng có lơng.
(11) Atermisia vuglaris L. ( Ngải cứu, Thuốc cứu)
Ngải cứu là cây thân thảo, sống dai, thân có các rãnh dọc, cao khoảng 1m,
Lá mọc so le, xẻ thùy nhiều kiểu từ xẻ lông chim đến xẻ thùy theo đường gân,
mặt trên lá đậm hơn, mặt dưới lá trắng xanh, có lơng. Hoa đầu, màu lục nhạt,
xếp thành chùy như bông, mọc ở nách lá. Hoa đầu rộng 3 – 4mm, gồm 2 loại
hoa, hoa lưỡng tính hình ống và hoa cái hình sợi. Quả bế, khơng có mào lơng.
Cây mọc hoang dại hoặc được trồng ở những nơi râm mát để làm thuốc chữa
bệnh và rau ăn. Ra hoa vào vụ Hè – Thu.
I.3.

Đặc điểm thực vật học


Cây thảo cao khoảng 40 cm, có khi tới 1m. Thân có khía dọc, phần non
nhiều lơng tơ. Lá mọc so le, có cuống hoặc khơng. Mặt trên lá màu xám đến
xanh đen, nhẵn hay có ít lơng tơ. Lá trên ngọn có phiến ngun hình dải, lá phía
dưới xẻ lơng chim. Mặt dưới lá màu trắng, có rất nhiều lơng tơ trắng. Cụm hoa
hình đầu gồm nhiều hoa hình ống.

Thường thu hái vào tháng 5 - 6 (lúc chưa ra hoa), chặt lấy đoạn cành dài
không quá 40 cm, mang nhiều lá, loại bỏ tạp chất, phơi âm can hay sấy nhẹ tới
khô.
Thân mang ngọn dài không quá 30cm màu vàng nâu hoặc nâu xám, có
lơng tơ, phiến lá thường cong queo
Mẫu giống ngải cứu ở Bắc Mỹ là một lồi cây có thân ngầm, sống và phát triển
quanh năm. Thâm ngầm có đường kính từ một vài mili đến hơn 1cm. Thân ngầm
phân nhánh tại các đốt thân trong đất khi đạt chiều dài 7 – 18cm
Thân cây thẳng, có các cạnh nhỏ hơn 1mm. Thân đơn hay phân nhánh,
gốc thân có màu từ xanh đến tối nâu xám, đường kính thân từ 0,25 đến 1,5cm.
Phần thân phía trên có màu phớt tím và có lơng, 1/3 thân trên ngọn phân nhánh
nhiều với các cụm hoa dày hình chóp.
Hoa thuộc loại hoa đầu, đường kính từ 0,25 – 3mm. Hoa có thể có cuống
hoặc khơng cuống, dạng chuỗi hoặc dạng chùm. Thơng thường một hoa đầu có
từ 15 – 30 hoa đơn. Tồn bộ phần đế hoa có mùi thơm mạnh, màu xanh vàng.
Hoa nở trong khoảng thời gian từ tháng 7 – tháng 9.
Hạt màu nâu, dạng ơ van dài, kích thước dài 1 – 2mm, có lơng ở đỉnh. Lá
mầm nhỏ, có hình trứng, khơng có cuống lá. Lá trưởng thành có màu xanh đậm,
dài 1 – 10cm, rộng 3 – 7, 5cm. Mặt trên có ít lơng, mặt dưới có phủ một lớp lơng
màu trắng bạc, những sợi lơng có kích thước 1mm.


Các

lồi

A.

Vulgaris được tìm thấy
có đặc điểm hình thái

thay đổi nhiều. Một số
quần thể A. Vulgaris ở
phía đơng Mỹ, đó là
những cây cao khoảng
2m và không phân cành.
Trong khi một số quần
thể khác lại phân nhánh
khá nhiều.(Barney).
Hình 1.3 Cấu tạo bơng hoa Ngải cứu
1.Bông hoa, 2. Lá, 3. Cụm hoa đầu, 4.Cụm hoa đầu cắt dọc, 5. Hoa cái, 6.
Hoa lưỡng tính, 7. Hoa lưỡng tĩnh cắt ngang, 8. Bao phấn, 9. Hạt ngải cứu, 10.
Hạt phấn
Nguồn: />%C3%B6hler%E2%80%93s_Medizinal-Pflanzen-016.jpg
Sự thay đổi về đặc điểm hình thái cịn biểu hiện ở hệ thống thân ngầm
dưới đất. Một số quần thể có thân ngầm với đường kính từ 0,5 – 1cm, phân
nhánh ít, trong khi đó những quần thể khác lại có đường kính thân ngầm nhỏ
hơn 0,5cm và thân ngầm phân nhánh nhiều hơn.
Thông thường mức độ bội thể ở loài A.vuglaris ở Canada và Mỹ là 2n =
16 (Radfor,1968; Gleason và Cronquist, 1991). Kiểu gen của loài A.vulgaris ở
Châu Âu là n = 8 và 2n = 16. Trong khi đó lồi A.vuglaris tìm thấy tại vùng núi
cao Hymalaya, nơi tuyết bao phủ quanh năm có mức bội thể là 2n = 18
(Koul,1964). Tại một số vùng cao hơn Koul đã tìm thấy một số loài tam bội (2n
= 36) và lục bội (2n = 54). Những mẫu tìm thấy ở vùng khác có mức độ bội thể
là : 2n = 16, 18, 24, 36, 54…(Oliva và Valles,1997).


A.vuglaris có sự thay đổi nhiều về đặc điểm sinh lý và hình thái học giữa
các vùng sinh thái khác nhau ở phía bắc Mỹ (Holm,1997). Hwang (1985) cho
rằng một số loài A.vuglaris ở vùng cao tây Mỹ bao gồm: California, Montana,
Colorado.

Sự thay đổi về đặc điểm hình thái học của lồi A.vuglaris cịn thấy ở vùng
núi Hymalaya, đây là loài tam bội, dạng cây thân bụi nhỏ, được sử dụng làm
thảo dược, thể lục bội có dạng thân bụi lớn( Koul, 1964).
Có những tài liệu nói về sự khác biệt về hình dạng trong lồi ở vùng núi
phía bắc Hymalaya (có độ cao 3700m), một phần của Siberia và Liên Xô (cũ)
(Holm,1997). Sự thay đổi nhiều về đặc điểm hình thái của lồi cần có sự so
sánh. Những nghiên cứu ở Bắc Mỹ đã đưa ra được các chỉ tiêu để so sánh:
1. Đặc điểm phân cành, nhánh
2. Mức độ phân cành
3. Đặc điểm hình thái lá
4. Đường kính thân ngầm (Barney, 2002)
Mặc dù đặc điểm hình thái học của loài A.vuglaris là khá lớn, nhưng
chúng vẫn được đánh giá thuộc nhóm cây bụi.
I.4.

Đặc điểm sinh trưởng trong năm của cây
A.vuglaris sinh trưởng mạnh trong khoảng thời gian từ mùa xuân đến mùa

Hè. Vào cuối Hè và đầu Thu cây bắt đầu ra hoa hình thành hạt và phát tán. Mùa
Đông, phần thân trên mặt đất thường lụi đi, trong khi đó phần thân ngầm vẫn tồn
tại. Đến đầu vụ Xuân năm sau, các chồi trên thân ngầm sẽ mọc thành mầm cây
mới. Đồng thời hạt cũng bắt đầu nảy mầm.
I.4.1. Đặc điểm sinh trưởng của thân ngầm.
Rogerson và Bigham (1964) đã mô tả sự sinh trưởng của A.vuglaris trong suốt
một vụ và cho biết rằng, khi cây được 4 tuần thì bắt đầu hình thành thân ngầm, và
trung bình mỗi cây hình thành được 12 thân ngầm. Các thân ngầm sẽ bắt đầu phân
nhánh khi được 9 tuần. Sau 24 tuần sinh khối của thân lá sẽ đạt 3,535 – 5,275kg/ha.
Đặc biệt, tổng chiều dài thân ngầm có thể đạt 114km.
I.4.2. Sự sinh sản của cây.



Đặc điểm ra hoa: Ở Tây Mỹ, A.vuglaris hình thành hoa, trong một cụm
hoa đầu thì các hoa đơn chiếm 52% và đế hoa chiếm 48%. Mỗi hoa đều có thể
hình thành hạt. Granock và Jones (1986) cho biết, khoảng 25% hoa là hoa lưỡng
tính, cịn lại là hoa đực và hoa cái. Tác giả cũng cho biết rằng A.vuglaris là cây
có hoa lưỡng tính thụ phấn nhờ gió. Tuy nhiên cũng có một số loại ong và ruồi
tham gia thụ phấn cho hoa.
Sự hình thành và phát tán hạt: Trong mơi trường ổn định và thuận lợi
A.vuglaris sẽ hình thành nhiều hạt.
Hạt có kích thước rất nhỏ
(<1mm) do đó phát tán khá
rộng nhờ gió (Granock và
Jones, 1986). Barney cho biết
hạt của hai loài A.vulgaris ở
Bắc Mỹ và Châu Âu có khối
lượng 0,12 – 0,14 mg. Theo
Holm (1997), khối lượng 1000
hạt khoảng 100 mg.
Hình 1.4: Hạt Ngải cứu
Nguồn : />Chưa có tài liệu nào nói về sự hình thành và phát tán của hạt. Tuy nhiên
có ý kiến cho rằng mỗi cây A.vuglaris có thể hình thành 200.000 hạt, tùy thuộc
vào môi trường. Một số cây ở châu Âu được tìm thấy với khoảng 1000 hạt mỗi
nhánh, tương đương khoảng 450.000 hạt mỗi cây. Ngược lại, một số lồi khơng
hình thành hạt.
Ở Nam Mỹ, hạt A.vuglaris phát tán nhờ gió, dòng nước. Các đoạn thân
ngâm lẫn trong đất và phát tán nhờ hoạt động canh tác của con người.
A.vuglaris vừa sinh sản bằng hạt, vừa sinh sản bằng hệ thân ngầm trong
đất. Guncan (1982) cho rằng, 75% cây con mọc ra từ thân ngầm.



Rogeson (1964) cho biết, một đoạn thân ngầm dài 10cm có thế tăng đến
24cm sau 4 tháng. Đặc biệt, điều kiện nhiệt độ khoảng 16oC (trong mùa Đông),
đoạn thân ngầm vẫn có thể tăng kích thước từ 5 – 10cm.
Henderson và Weller dự đoán rằng, trong một năm đoạn thân ngầm dài 15cm sẽ
tăng được khối lượng khô từ 29 – 1490g (gấp 50 lần khối lượng ban đầu).
I.4.3. Khả năng sống và nảy mầm của hạt.
Khả năng sống và nảy mầm của hạt phụ thuộc nhiều vào điều kiện môi
trường. Handerson và Weller (1985) cho rằng: khả năng sống và nảy mầm của
hạt là 25%, trong khi một số nghiên cứu khác lại cho biết, khả năng sống và nảy
mầm của hạt khoảng 0 – 95%.
Crescini và Sperafico (1953) cho biết việc phơi hạt dưới nắng nhẹ có tác
dụng kích thích hạt nảy mầm, hạt có thể nảy mầm trong điều kiện ánh sáng yếu
và có thể cả trong tối. Hai tác giả cũng cho biết, những hạt tươi, được cung cấp
nhiệt độ 10C trong 10 – 40 ngày thì tỷ lệ nảy mầm cao nhất.
Lauer (1953) đưa ra nhiệt độ tối thấp và tối thích cho hạt nảy mầm lần
lượt là 7oC và 25oC. Handerson và Weller (1985) cho rằng, nhiệt độ thấp có tác
dụng kích thích hạt nảy mầm.
I.4.4. Khả năng lưu trữ hạt giống.
Hạt A.vuglaris có thể lưu trữ trong đất đến 200 năm mà vẫn giữ được khả
năng nảy mầm (Odum, 1965).
I.5.

Thành phần hóa học.
Trong cây có chứa tinh dầu với hàm lượng 0,20 – 0,34% mà thành phần chủ yếu

là “Cineol”, tập trung nhiều ở lá và chồi. Người ta dùng ngọn, cành mang hoa và lá để
làm thuốc. Có thể dùng tươi hay phơi khơ tán bột, hãm hoặc sắc uống.
Ngồi Cineol là thành phần chủ yếu trong tinh dầu ngải cứu còn có các
hợp chất α-thuyon, dehydro matricaria este, tetradecatrilin, tricosanol, arachyl
ancol, andenin, cholin.

Những thành phần chính trong tinh dầu của A.vuglaris được chiết xuất ở
Châu Á giàu monoterpene (Misra và Singh, 1986). Ngược lại trong thành phần


chính của tinh dầu A.vuglaris ở châu Mỹ lại giàu Carriophyllene oxyde,
Sequiterpenoid (Pino, 1999)
Trong ngải cứu Việt Nam có những chất màu indigo-base, gần 50 hợp
chất đã phân tích và xác định có trong lá, chủ yếu là β – caryophylen 24% và β–
cubedene 12% ( Prosia, 1992)
Macro J, Alberto, Samz, Juan F đã tìm thấy trong phần trên mặt đất của
ngải cứu các chất eudesman. Woerner, Martin, Schreier Peter, đã phân tích trong
nghiên cứu bằng sắc kí phối khổ và đã xác định được chất vulgarol.
Những năm gần đây, nhiều tác giả đã nghiên cứu các Glycoprotein
allergen trong ngải cứu. Valenta, Audolf, Du, Chena, Michel phát hiện được chất
profilin.
Một số chất Allergen quan trọng có trong ngải cứu có trọng lượng phân tử
12.000 – 100.000. Các allergen Ag7, Art VI, Art VII cũng đã được phân lập và
xác định cấu trúc phân tử.
Banthorpe. Derek, Brown Geoffey phát hiện hai dẫn chất coumarin,
scopoletin và iso fraxidin cùng với Stigmasterol và sitosteroltrong ở một số lồi
ngải cứu ni cấy mơ.
Subinedze. V.V, Bochzidze. L. D đã phân tích phần trên mặt đất của ngải
cứu có 13 loại axit amin tự do và 21 loại axit amin liên kết ( Đỗ Huy Bích và
cộng sự, 2004)
I.6.

Tác dụng của ngải cứu.
Theo Đông y cho rằng, ngải cứu là vị thuốc có tính ơn, vị cay dùng để

điều hịa khí huyết, trục hàn thấp, an thai, cầm máu, thường dùng để chữa bệnh

ở phụ nữ, bệnh thổ huyết, chảy máu cam, nôn mửa, đau bụng, đau dây thần kinh,
thấp khớp, ghẻ lở…
Lượng dùng thường là từ 6 – 12g dưới dạng sắc hoặc dạng cao. Ngải
nhung dùng làm mồi châm cứu.
I.6.1. Sử dụng trong trị liệu.
Làm điếu ngải:


Lá ngải khơ vị nát, loại bỏ cành cuống, phần còn lại gọi là ngải nhung. Đem
ngải nhung cuốn thành điếu như thuốc lá. Điếu ngải được đốt mang tính ấm nóng
cao (thuần dương) nên khi dùng để làm nóng (cứu) các huyệt đạo sẽ làm khí huyết
lưu thơng, gây ấm nóng cơ thể, giảm đau, sưng, mỏi, làm tan máu tụ.
Cách sử dụng:
- Để điếu ngải hơ trên huyệt đến khi người bệnh có cảm giác ấm, nóng, để
trị một số bệnh suy, đau yếu.
- Đưa điếu ngải sát da, khi bệnh nhân cảm thấy nóng thì đưa ra, để chữa
bệnh mới phát.
Làm thuốc an thai.
Người mang thai nếu có hiện tượng đau bụng, dùng khoảng 16g ngải cứu,
16g tía tơ, sắc cùng 600ml nước đến khi nước cịn 100ml thì chia ra làm 3 lần
uống trong ngày.
Người làm việc kiệt sức, bà mẹ cho con bú.
Lấy 5 cành ngải cứu tươi hoặc khô, rửa sạch, băm nhỏ, pha với một cốc
nước sôi uống hàng ngày sẽ mau hồi phục sức khỏe.
Trị mẩn ngứa, rôm sẩy ở trẻ nhỏ.
Xay lá ngải cứu, lấy nước cốt rồi pha với nước tắm.
Bảo vệ gan.
Những nghiên cứu về A.vuglaris đã chỉ rõ, chúng có tác dụng bảo vệ gan,
chữa một số bệnh. Trong những bài thuốc của các nước phương đông, A.vuglaris
được dùng như một tác nhân giảm đau, và được sử dụng trong cách chữa bệnh

bằng thuật châm cứu.
Tạo hương vị cho bia rượu.
Trong lịch sử, loài A.vuglaris được dùng để làm thuốc, tạo hương vị cho
bia trước khi tìm thấy các cây hoa bia ( Philip và Foy, 1990). Lá của lồi
A.vuglaris có tinh dầu thơm, được thu hoạch vào cuối Xuân và đầu Hè. Tinh dầu
được chiết xuất từ lá được dùng để chữa một số bệnh cho phụ nữ. Người dân
Trung Quốc gọi những tinh dầu này là “ Ai Hao”. Chúng dùng để chữa một số
bệnh như tiêu chảy, thiếu máu.


I.6.2. Các món ăn và bài thuốc.
Trị đau đầu: Dùng món trứng gà ngải cứu ( giúp máu lưu thơng lên não
tốt hơn). Dùng một nắm ngải cứu, rửa sạch ,thái nhỏ, cỏ thể rán hoặc hấp với
trứng gà.
Món ăn cho phụ nữ sau sinh: Món gà tần ngải cứu có cơng dụng bồi bổ
sức khỏe. Dùng ngải cứu, táo đỏ, ý dĩ, tam thất và các gia vị, sau đó nhồi vào
con gà và khâu lại, hầm kĩ.
Canh ngải cứu thịt nạc: có cơng dụng trị bệnh đau bụng, mệt mỏi. Thịt
nạc băm nhỏ, đảo chín, thêm nước đun sơi rồi cho ngải cứu thái nhỏ vào. Canh
ăn nóng.
Kinh nghiệm dân gian: Dùng ngải cứu tươi, nấu thành cao để ăn, có tác
dụng cho sức khỏe của người già. Dùng thân, lá ngải cứu phơi khô làm chăn,
gối, đệm, có tác dụng tốt cho giấc ngủ, chữa đau đầu, mất ngủ. Dùng thân, lá
ngải cứu giã nát, hơ nóng rồi đắp lên các vết thương như bong gân có tác dụng
giảm đau rõ rệt.
I.6.3. Trong lĩnh vực phòng trừ sâu bệnh.
A.vuglaris được biết đến khơng chỉ là lồi thực vật ăn được mà đây còn là
nguồn dược liệu cổ truyền. Trong thân lá của lồi A.vuglaris có chứa estrogenic
flavonoid và ankaloid. Tinh dầu của A.vuglaris còn được dùng để làm thuốc trừ
sâu, vi khuẩn và các vi sinh vật kí sinh. Tinh dầu của A.vuglaris chứa các chất có

tác dụng xua đuổi một số lồi cơn trùng.Trong thành phần tinh dầu của
A.vuglaris còn thu được một số chất ức chế sinh trưởng, có tác dụng kìm hãm sự
nảy mầm của loài cỏ Linh Lăng ( Lefevre, 1964).
I.7.

Yêu cầu sinh thái cây ngải cứu.

I.7.1. Yêu cầu về độ cao.
Trên thế giới, loài A.vuglaris chịu được biên độ dao động về độ cao rất
lớn, chúng có thể sống được tại những vùng có khí hậu lạnh có độ cao trên
3700m ở phía Bắc Hymalaya cho đến các vùng ấm hơn phía Nam Mỹ
( Holm, 1997). Chỉ có hai nơi trên thế giới khơng xuất hiện lồi A.vuglaris là
Châu Phi và Antarica, điều đó cho thấy lồi A.vuglaris có khả năng thích nghi rộng.


I.7.2. u cầu về đất đai.
Lồi A.vuglaris có thể sinh trưởng và phát triển trên các loại đất thịt pha
cát, đất sét pha cát có pH từ 5,5 – 6,8, cho đến đất cát, đất thịt, đất sét…
I.7.3. Yêu cầu về khí hậu.
Ngải cứu là cây ưa khí hậu ơn hịa, có nắng ấm và mưa nhiều trong điều
kiện ánh sáng yếu (cây mọc dưới tán cây hoặc mọc lẫn với các cây bụi khác),
hay trong điều kiện khô hạn, cây vẫn sinh trưởng được.
II.

Những kết quả nghiên cứu về cây ngải cứu:
Những kết quả nghiên cứu về cây ngải cứu chủ yếu nói đến các đặc điểm

thực vật học, thành phần hóa học, tác dụng dược lý.
Cây ngải cứu là cây ưa ẩm, có thể hơi chịu bóng thường được trồng phân
tán trong các vườn gia đình, hay các vườn thuốc của các cơ sở y học dân tộc.

Cây mọc thành từng khóm, nếu khơng bị thu hái, tỉa thưa sẽ nhanh chóng bị lan
tạo thành các đám lớn khó phân biệt giữa các cá thể. Cây sinh trưởng mạnh
trong mùa xuân và mùa hè từ tháng 4- tháng 7 sau đó bắt đầu có hoa quả. Ở
những nơi đất màu mỡ, cây mọc dày, chiều cao có thể đến 1,5m .Nhiệt độ thích
hợp cho cây sinh trưởng tốt là 13ᴼC - 18ᴼC.Về mùa đông phần thân, cành trên
mặt đất có hiện tượng tàn lụi một phần, cây có thể chịu được nhiệt độ 0ᴼC ( ở
vùng đèo Hoàng Liên Sơn ). Ngải cứu ra hoa rất nhiều, tái sinh tự nhiên bằng
hạt hoặc chồi sau khi cây bị cắt.
Về công dụng, theo y học cổ truyền Trung Quốc, lá ngải cứu được dùng
làm thuốc cầm máu, hạ nhiệt, bổ toàn thân và trị tiêu chảy. Thuốc được chỉ định
trong nhiễm độc thai nghén, viêm mủ da, đau dây thần kinh. Thân và lá ngải cứu
khơ đốt và hít khói chữa hen phế quản. Phần trên mặt đất của cây là nguyên liệu
để làm mồi cứu, một phương pháp được dùng phổ biến ở Trung Quốc để chữa
nhiều bệnh.
Trong y học Ấn Độ, lá và ngọn mang hoa ngải cứu được dùng dưới dạng
nước hãm trong các bệnh thần kinh và co thắt. Còn được dùng làm thuốc sát
trùng, gây long đờm, trừ giun, chữa thấp khớp.


Ở Nepal, rễ ngải cứu được dùng làm thuốc bổ và chống co thắt. Cây được
dùng làm thuốc điều kinh, trị giun chống co thắt và làm dễ tiêu. Nước hãm lá và
ngọn mang hoa dùng trị các bệnh thần kinh, co thắt, hen và bệnh về não.
Nhân dân vùng trung tâm Haiti dùng lá ngải cứu làm thuốc chữa nôn dưới dạng
nước sắc uống.
Nhân dân Trung Quốc và Nhật Bản dùng chồi ngải cứu để điều trị viêm gan,
vàng da, viêm túi mật, làm thuốc thông mật, chống viêm, giảm đau, lợi tiểu.
Ở Malaysia, ngải cứu trị mụn lở.
Ở Thái Lan, rễ ngải cứu trị giun; lá chữa hen, làm thuốc hạ sốt, long đờm, điều
kinh và trị tiêu chảy; hoa dùng trị hen và ho có đờm.



PHẦN 3: NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
I.

Địa điểm thực hiện đề tài:

I.1.

Địa điểm điều tra:
Khảo sát trên 2 huyện Lý Nhân ,huyện Kim Bảng và Thành phố Phủ Lý.

I.2.

Địa điểm nghiên cứu:
Các mẫu giống ngải cứu thu thập được trồng trên đất phù sa sông hồng

không được bồi hàng năm, khu thí nghiệm Bộ mơn Cây cơng nghiệp và cây
thuốc, Khoa Nông học Trường Đại học Nông nghiệp – Gia Lâm – Hà Nội.
I.3.

Thời gian nghiên cứu:
Từ tháng 2 năm 2014 đến tháng 7 năm 2014.

I.4.


Nội dung nghiên cứu:
Điều tra điều kiện tự nhiên (nhiệt độ, độ ẩm, ánh sáng, lượng mưa)
tại Hà Nam.




Điều tra tình hình sử dụng cây ngải cứu tại Hà Nam.



Điều tra tình hình tiêu thụ và sơ chế biến cây ngải cứu tại Hà Nam.



Điều tra các bài thuốc có cây ngải cứu tại Hà Nam.



Thu thập và đánh giá các mẫu giống ngải cứu thu thập tại Hà Nam

II.

Phương pháp nghiên cứu:

II.1. Phương pháp điều tra và lấy mẫu.
3.1.1 Tại khu vực điều tra


Điều tra điều kiện tự nhiên.



Thu thập số liệu tại phịng thống kê của các huyện.




Điều tra tình hình tiêu thụ, sử dụng.



Phương pháp điều tra : Sử dụng phiếu điều tra.



Tại Hà Nam



Mỗi huyện điều tra, thu thập tại 3 xã.


Trong mỗi xã điều tra 10 hộ gia đình có trồng và sử dụng


cây ngải cứu.

3.1.2 Tại khu thí nghiệm
II.2. Bố trí thí nghiệm.
Các mẫu thu thập được bố trí theo kiểu tuần tự không nhắc lại, mỗi mẫu
được trồng trong các ơ thí nghiệm có diện tích 3 m² ở khu thí nghiệm thuộc Bộ
mơn cây cơng nghiệp và cây thuốc. Mỗi ô mẫu giống chọn ra 5 cây theo
phương pháp đường chéo 5 điểm chéo góc để tiến hành theo dõi các chỉ tiêu và
đánh giá.
Sơ đồ bố trí thí nghiệm :

Các mẫu giống : M1, M2, M3 , M4, M5 ,M6, M7, M8

*Sơ đồ bố trí thí nghiệm


Dải bảo vệ

M7

M9

M8

M4

M5

M1

M2
Dải bảo
vệ

M6


×