Tải bản đầy đủ (.docx) (76 trang)

LUẬN VĂN ĐẠI HỌC HOÀN CHỈNH (NGÀNH Y) đánh GIÁ hàm LƯỢNG AXIT FOLIC TRONG KHẨU PHẦN của PHỤ nữ TUỔI SINH đẻ ở một HUYỆN NGOẠI THÀNH hà nội năm 2012

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.08 MB, 76 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ Y TẾ

TRƯỜNG ĐẠI HỌC Y HÀ NỘI
……..***……..

ĐÁNH GIÁ HÀM LƯỢNG AXIT FOLIC TRONG
KHẨU PHẦN CỦA PHỤ NỮ TUỔI SINH ĐẺ Ở
MỘT HUYỆN NGOẠI THÀNH HÀ NỘI NĂM 2012

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP Y KHOA
KHÓA

HÀ NỘI


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ Y TẾ

TRƯỜNG ĐẠI HỌC Y HÀ NỘI
……..***……..

ĐÁNH GIÁ HÀM LƯỢNG AXIT FOLIC TRONG
KHẨU PHẦN CỦA PHỤ NỮ TUỔI SINH ĐẺ Ở
MỘT HUYỆN NGOẠI THÀNH HÀ NỘI NĂM 2012

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP Y KHOA
KHÓA


Người hướng dẫn:

HÀ NỘI


LỜI CẢM ƠN
Trong q trình học tập và hồn thành luận văn tốt nghiệp em đã
nhận được sự hướng dẫn, giúp đỡ, chỉ bảo tận tình từ các thầy cơ và s ự
động viên rất lớn từ gia đình, bạn bè.
Trước hết, em xin trân trọng cảm ơn Ban giám hiệu nhà tr ường,
Phòng Đào tạo đại học – Trường Đại học Y Hà Nội, Viện Đào t ạo Y h ọc
dự phịng và Y tế cơng cộng đã đào tạo nâng cao chuyên môn, nghi ệp v ụ
và tạo điều kiện cho em học tập và rèn luyện tại trường.
Với tất cả tấm lịng kính trọng em xin bày tỏ sự biết ơn sâu sắc tới
PGS.TS.Lê Danh Tuyên, BS.TS Bùi Thị Mai Hương– người đã trực tiếp, tận
tình giúp đỡ, hướng dẫn và tạo mọi điều kiện thuận lợi cho em trong
q trình học tập cũng như hồn thành luận văn này.
Xin trân trọng cảm ơn Viện dinh dưỡng, Khoa th ực phẩmVSATTP- VDD, Trạm y tế xã Đường Lâm- Sơn Tây- Hà Nội và các th ầy cô
tại Khoa thực phẩm- VSATTP đã tạo mọi điều kiện thuận lợi cho em
trong q trình học tập cũng như hồn thành luận văn này.
Cuối cùng xin chân thành cảm ơn tới các bạn bè đã động viên, giúp
đỡ tôi trong q trình học tập và hồn thành luận văn này; đặc biệt xin
bày tỏ lịng biết ơn tới gia đình, nơi đã cho tơi thêm sức mạnh trong q
trình học tập.


LỜI CAM ĐOAN

Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu c ủa riêng tôi d ưới s ự
hướng dẫn của; không trùng lặp với bất kỳ một công trình nghiên c ứu

khoa học nào khác. Các số liệu, kết quả nghiên cứu là trung th ực và ch ưa
được công bố.Tôi xin chịu trách nhiệm về lời cam đoan này.
Hà Nội, ngày 30 tháng 10 năm
Tác giả luận văn


CÁC CHỮ VIẾT TẮT

FAD:

Cơ quan quản lý An toàn th ực ph ẩm Hoa Kỳ

HPLC:

Phương pháp sắc ký lỏng hiệu năng cao

NCKN:

Nhu cầu khuyến nghị

NIESH:

Viện khoa học Sức khỏe và Mơi tr ường

NTD:

Khiếm khuyết ống thần kinh

PN:


Phụ nữ

SSBA:

Hiệp hội tình trạng n ứt cột sống Scottish

TLAV:

Tỷ lệ ăn vào

UNICEF:

Quỹ Nhi đồng Liên Hợp Quốc

PHSCC:

Y tế công cộng Hoa Kỳ

WHO:

Tổ chức Y tế thế gi ới


MỤC LỤC
ĐẶT VẤN ĐỀ
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. Tình hình nghiên cứu trên thế giới
1.1.1. Tính chất lý hóa
1.1.2. Vai trò sinh học
1.1.3. Vai trò dinh dưỡng

1.1.4. Thiếu axit folic gây thiếu máu hồng cầu to
1.1.5. Axit folic đặc biệt cần thiết cho phụ nữ mang thai
1.1.6. Axit folic phịng tránh dị tật thai nhi, ngừa sứt mơi và hở hàm
ếch
1.1.7. Axit folic giúp giảm nguy cơ bị khuyết tật ống thần kinh ở
thai nhi
1.1.8. Vitamin B và axit folic giúp ngăn ngừa bệnh tim
1.1.9. Axit folic giúp ngăn chặn chứng mất trí
1.1.10.Axit folic giúp ngăn ngừa bệnh ung thư dạ dày và ung th ư
máu
1.1.11.Không mang thai cũng cần bổ sung axit folic
1.2. Tình hình nghiên cứu trong nước
CHƯƠNG 2: ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Đối tượng nghiên cứu
2.2. Phương pháp nghiên cứu
2.3. Phân tích mẫu trong phịng thí nghiệm
2.4. Sai số và cách khống chế sai số
2.5. Xử lý số liệu, đánh giá, nhận định kết quả
2.7. Thời gian nghiên cứu
2.8. Đạo đức nghiên cứu
CHƯƠNG 3: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
3.1. Khảo sát kiến thức về sử dụng axit folic
3.2. Đánh giá hàm lượng axit folic trong khẩu phần 24h
CHƯƠNG 4: BÀN LUẬN
4.1. Kiến thức về sử dụng axit folic
4.2. Đánh giá hàm lượng axit folic trong khẩu phần 24h
KẾT LUẬN
5.1. Kiến thức về sử dụng axit folic
5.2. Đánh giá hàm lượng axit folic trong khẩu phần 24h



KIẾN NGHỊ
TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC
Phụ lục 1: Bộ câu hỏi 1
Phụ lục 2: Bộ câu hỏi 2
Phụ lục 3: Bảng quy đổi một số th ực phẩm Việt Nam
Phụ lục 4: Quy trình phân tích mẫu trong phịng thí nghiệm


DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 3.1.2. Phân bố dân cư
Bảng 3.1.6. Tình trạng hơn nhân
Bảng 3.1.7. Kế hoạch sinh đẻ
Bảng 3.1.8. Kiến thức về thực phẩm và dinh dưỡng
Bảng 3.1.10. Kiến thức về axit folic trong thực phẩm
Bảng 3.1.16. Mối tương quan giữa HV và HB
Bảng 3.1.17. Mối tương quan giữa KT và SD
Bảng 3.1.18. Mối tương quan giữa KH và HB
Bảng 3.2.1. Tỷ lệ ăn vào trong 24h
Bảng 3.2.2. Hàm lượng axit folic trong khẩu phần 24h

DANH MỤC BIỂU ĐỒ
Biểu đồ 3.1.1. Phân bố độ tuổi
Biểu đồ 3.1.3. Trình độ học vấn
Biểu đồ 3.1.4. Phân bố nghề nghiệp
Biểu đồ 3.1.5. Phân loại kinh tế
Biểu đồ 3.1.9. Phương tiện tìm hiểu về thực phẩm và dinh d ưỡng
Biểu đồ 3.1.11. Phương tiện tìm hiểu về axit folic trong th ực phẩm
và dinh dưỡng



Biểu đồ 3.1.12. Sử dụng thực phẩm bổ sung chứa axit folic
Biểu đồ 3.1.13. Kiến thức về tác dụng của axit folic
Biểu đồ 3.1.14. Giai đoạn cần bổ sung axit folic
Biểu đồ 3.1.15. Kiến thức về thực phẩm giàu axit folic
Biểu đồ 3.2.3. Khả năng đáp ứng về axit folic trong kh ẩu phần 24h


ĐẶT VẤN ĐỀ
Sắt đóng vai trị rất quan trọng đối với cơ thể con người, nhất
là đối với phụ nữ trong thời kỳ mang thai. Phụ nữ khi mang thai
nếu thiếu Sắt có thể gây ra: sảy thai liên tục, đẻ non, thai ch ết l ưu
hoặc trẻ sinh ra có cân nặng thấp, nguy cơ băng huyết sau khi sinh,
nguy cơ tử vong ở mẹ và trẻ, trẻ nhẹ cân thiếu máu dễ nhi ễm
trùng. Nếu như vai trò của Sắt đối với con người đã dược biết đến
một cách rộng rãi thì vai trị của axit folic lên cơ thể con người, đặc
biệt là đối với phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ lại chưa được quan
tâm một cách đúng mức.
Axit folic hay folate thực sự đóng vai trò trong thành phần dinh
dưỡng của thức ăn. Tuy nhiên trong q trình nghiên cứu vai trị của axit
folic vẫn chưa được chú trọng hơn so với các sinh tố khác . Trong những
thập niên gần đây, vai trò của sinh tố này mới bắt đầu được đánh giá
một cách đúng mức, vì hiện nay chế độ dinh dưỡng thiếu rau t ươi t ại
các quốc gia công nghệ tiên tiến đang dẫn đến tình trạng thiếu h ụt axit
folic và vì ảnh hưởng quan trọng của sinh tố này trên thai kỳ và tr ẻ s ơ
sinh. Trong khoảng thời gian ngay trước và ngay sau khi th ụ thai c ần ăn
đủ axit folic để bào thai được phát triển khỏe mạnh, tránh được các biến
cố bào thai hay bệnh tật bẩm sinh nguy hiểm cho thai nhi [11]. Và theo
các điều tra ở Hoa Kỳ thì đa số mọi người không ăn đủ axit folic hàng

ngày [20].
Đời sống kinh tế xã hội ngày càng phát triển, cùng với s ự hiểu bi ết
ngày càng cao về vai trò dinh dưỡng đối với bà m ẹ và thai nhi nói riêng
và đời sống sức khoẻ nói chung. Địi hỏi các cơ quan ch ức năng, các Vi ện


nghiên cứu, cần đưa ra những số liệu về dinh dưỡng vi chất, nhằm đáp
ứng hơn nhu cầu của người dân. Ảnh hưởng của sắt và folic đ ối v ới ph ụ
nữ đã có nhiều cơng trình được nghiên cứu và công bố. Hậu quả c ủa vi ệc
thiếu hụt folic đối với bà mẹ và thai nhi thì đã rõ ràng, nh ưng các nghiên
cứu về axit folic trong khẩu phần ăn của phụ nữ tuổi sinh đ ẻ hiện nay
thì vẫn cịn rất ít.
Các nghiên cứu về thực phẩm, về các nguyên tố vi lượng, trong đó
có axit folic và folic với phụ nữ tuổi sinh đẻ là một địi h ỏi c ấp bách. Nó
có ý nghĩa quan trọng không chỉ trong lĩnh v ực khoa h ọc th ực ph ẩm mà
còn làm cơ sở cho các nghiên cứu về khoa học dự phòng, dinh d ưỡng
cộng đồng, dinh dưỡng lâm sàng và xây dựng các lời khuyên dinh d ưỡng
hợp lý và các can thiệp phù hợp nhằm đảm bảo m ức đáp ứng folic v ới
nhu cầu hàng ngày của phụ nữ tuổi sinh đẻ.
Vì vậy, chúng tơi đã tiến hành nghiên cứu đề tài: “Đánh giá hàm
lượng axit folic trong khẩu phần của phụ nữ tuổi sinh đẻ ở một huyện
ngoạ ithành Hà Nội”, nhằm các mục tiêu sau:
1. Khảo sát kiến thức về axit folic của phụ nữ tuổi sinh đẻ ở
phường Yên Thịnh và xã Đường Lâm, Sơn Tây, ngoại thành Hà
Nội năm 2012.
2. Đánh giá hàm lượng axit folic trong khẩu phần của phụ nữ
sinh đẻ ở phường Yên Thịnh và xã Đường Lâm, ngoại thành
Hà Nội năm 2012.



CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU TRÊN THẾ GIỚI
Axit folic hay Vitamin B9 (folate) lần đầu tiên được phát hiện bởi
nhà sinh vật học William khi ông nghiên cứu về sự sinh tr ưởng của vi
sinh vật năm 1941. Do tính chất phổ biến của h ợp ch ất này trong lá
(folium) nên nó được đặt tên là axit folic. Folate là dạng tồn tại trong t ự
nhiên của vitamin B9, còn axit folic là dạng tổng hợp.
Dạng cơng thức hóa học của axit folic:

Cấu trúc phân tử của Axit folic:


1.1.1. Tính chất lý hóa
Tên hóa học
Tên khác:
Cơng

N-[4(2- Amino-4hydroxy-pteridin-6- ylmethylamino)benzoyl]-L(+)-glutamic acid.
Axit pteroyl-L-glutamic, Vitamin B9, VitaminM, Folacin

thức

hóa C19 H19 N7 O6

học
Phân tử gam

441,40g/mol.


Tính chất:

Bột tinh thể vàng cam

Độ hịa tan trong 8,5g/100ml (200C).
nước
Trong

ethanol, khơng tan

ete, axeton
Điểm nóng chảy

2500C

Độ nguy hiểm

khơng độc, khơng cháy

Phổ UV/VIS

259 nm

1.1.2. Vai trị sinh học


Axit folic có ảnh hưởng quan trọng trên thai kỳ và trẻ sơ sinh. Nó
giữ vai trị tối cần thiết cho hiện tượng phân chia tế bào đ ặc bi ệt trong
quá trình sản xuất hồng cầu và tổng hợp gene của tế bào.
Axit folic có vai trị sinh học trong việc tạo ra tế bào m ới và duy trì

chúng [14]. Nó đặc biệt quan trọng trong giai đoạn phân chia và l ớn lên
của tế bào ở trẻ sơ sinh và phụ nữ mang thai. Chất này cần thiết trong
việc nhân đôi ADN và giúp tránh đột biến ADN, là một yếu tố có kh ả
năng gây ung thư.
Việc thiếu axit folic làm chậm quá trình tổng h ợp ADN và phân
chia tế bào, ảnh hưởng tới các khu vực có sự tái tạo tế bào nhanh nh ư ở
tủy xương. Sự thiếu hụt axit folic làm chậm sự tổng hợp ADN, trong khi
đó khơng ảnh hưởng đến quá trình tổng hợp protein, khiến tạo ra nhiều
tế bào hồng cầu lớn trong máu gọi là nguyên hồng cầu to, gây ra s ự thiếu
hồng cầu bình thường và chứng bệnh thiếu máu nguyên hồng cầu to
[12],[24].
1.1.3. Vai trò dinh dưỡng
Theo các điều tra ở Hoa Kỳ (năm 1988, 1998) đa số mọi ng ười
không ăn đủ axit folic hằng ngày [20]. T ại Hoa Kỳ có chiến d ịch tăng
cường axit folic trong khẩu phần ăn, trong ngũ cốc và th ức ăn sống bằng
ngũ cốc và bước đầu đó cho kết quả khả quan [16]. Tuy nhiên cũng
chương trình tương tự ở Châu Âu có ít hiệu quả hơn [19]. Bác sỹ David A
S. Schwartz giám đốc của NIEHS cho biết: “Chế độ dinh dưỡng của bà mẹ
trong suốt thời kỳ là một nhân tố bên ngoài có thể gây ảnh h ưởng đ ến
sức khỏe của bào thai” .
Con nhẹ cân vì mẹ thiếu axit folic, người mẹ mang thai b ị thiếu vi
chất này trong máu rất dễ sinh con nhẹ cân. Axit folic là một d ạng t ổng


hợp của folate, đặc biệt quan trọng đối với sự phát triển của tế bào thai
và hoạt động của gene, giúp sản sinh và duy trì tế bào m ới. Ph ụ n ữ
thường được khuyến cáo bổ xung axit folic, tr ước khi thụ thai và trong
những tháng đầu của thai kỳ. Mục tiêu là giảm nguy c ơ khuy ết t ật b ẩm
sinh. Các nhà khoa học của đại học Newcatstle (Anh) đã kiểm tra hàm
lượng folate trong các tế bào huyết ở gần 1000 thai phụ và phân tích d ữ

liệu về lối sống của họ. Kết quả cho thấy hàm lượng folate cao có liên
quan đến sự gia tăng trọng lượng của trẻ. Tăng cân là dấu hiệu cho th ấy
thai nhi có sức khỏe tốt. Ít folate trong những tuần thai đầu có th ể khi ến
cho trọng lượng thai nhi thấp. Những bà mẹ thiếu folate th ường sinh con
nhẹ cân. Trưởng nhóm Caroline Relton kết luận: Trẻ nhẹ cân (dưới 2,5
kg) dễ có chỉ số thơng minh thấp và gặp nhiều sự cố về sức khoẻ sau này .
Phụ nữ hút thuốc lá thường bị thiếu folate và đây chính là nguyên nhân vì
sao họ hay sinh ra những đứa trẻ nhẹ cân. Nghiên cứu của Relton [11] đã
cho thấy tầm quan trọng của các loại thực phẩm bổ xung vi chất nh ư
bánh mì, ngũ cốc có axit folic. Mỹ là nước tiên phong đưa axit folic vào
bột mì vài năm trước sau khi phát hiện ra vai trò của vi ch ất này đối v ới
rối loạn ống thần kinh, thường xảy ra trong th ời kỳ đ ầu phát tri ển c ủa
bào thai [15].
1.1.4. Thiếu axit folic gây thiếu máu hồng cầu to
Sự tổng hợp nên globin trong huyết cầu tố cần phải có protein,
vitamin B12 và axit folic. Axit folic, nằm trong 13 vitamin cần được cung
cấp hằng ngày (gồm 4 vitamin tan trong dầu A, D, E, K, vitamin C và 8
vitamin nhóm B tan trong nước, axit folic thuộc nhóm B tan trong n ước).
Axit folic là chất cần thiết góp phần tạo hồng cầu bình th ường và
có ảnh hưởng đến sự tổng hợp ADN và ARN, liên quan m ật thiết đến quá


trình phân chia tế bào. Dấu hiệu bệnh lý do thiếu sinh tố axit folic bi ểu
lộ với triệu chứng thiếu máu, thiếu máu hồng cầu khổng lồ
(megaloblastic anemia) [24].
1.1.5. Axít folic đặc biệt cần thiết cho phụ nữ mang thai .
Nghiên cứu thực hiện trên 24.000 thai phụ Trung Quốc do các nhà
khoa học Mỹ và Trung Quốc (2004) cho thấy: “Axit folic không làm tăng
nguy cơ sảy thai như một số nghiên cứu đã đưa mà ngược lại nó cịn rất
tốt cho việc bảo vệ thai nhi khỏi bị khuyết tật cột sống”. Trong khoảng

thời gian ngay trước và ngay sau khi thụ thai, cần ăn đủ axit folic, đ ể bào
thai được phát triển khỏe mạnh, tránh được các biến cố bào thai hay
bệnh tật bẩm sinh nguy hiểm cho thai nhi. Một trong các nguy cơ cho
bào thai nếu thiếu axit folic là bệnh khuyết tật ống th ần kinh [17],[11],
bệnh này có thể gây ra hở xương sống, hở hộp sọ thậm chí vỡ não. Nguy
cơ này có thể giảm nếu uống thêm axit folic ngồi chế độ dinh dưỡng có
axit folic bình thường [17],[11]. Nhu cầu hằng ngày về axit folic là 200
microgam. Thai phụ cần gấp đơi hàm lượng bình thường, người đang
cho con bú cần thêm 50% hàm lượng axit folic. Theo một số nghiên c ứu
cho rằng phụ nữ mang thai uống thêm khoảng 400 microgam axit folic
hàng ngày cùng với bữa ăn đầy đủ chất dinh dưỡng sẽ giúp cho nhu c ầu
dinh dưỡng về axit folic của phụ nữ có thai đạt 600 microgam/ngày.
Hơn thế nữa, axit folic cịn có khả năng làm giảm nguy cơ sinh non,
sinh thiếu tháng. Nhiều nghiên cứu đã chỉ ra nếu trước khi có ý định
mang thai, người phụ nữ nên bổ sung axit folic tr ước một năm thì sẽ
giảm được 50% nguy cơ sẩy thai, suy dinh dưỡng bào thai, ch ửa ngồi
dạ con.
1.1.6. Axit folic phịng tránh dị tật thai nhi, giúp ngừa sứt môi và hở


hàm ếch.
Các nhà nghiên cứu của Viện Khoa học Sức khoẻ và Môi tr ường
(NIEHS), thuộc Viện y tế Quốc gia, phát hiện rằng thai ph ụ dùng 0,4 mg
axit folic mỗi ngày sẽ làm giảm 1/3 nguy cơ sinh con bị tật s ứt môi. Bác
sỹ Allen J. Wilcox, người đứng đầu cuộc nghiên cứu của NIEHS, cho bi ết
kết quả nghiên cứu này phát hiện rằng axit folic giúp ngăn ng ừa t ật
miệng rộng, là một trong những tật bẩm sinh. Ở Hoa Kỳ, cứ 750 trẻ ra
đời thì có khoảng 1 trẻ sứt mơi và hoặc hở hàm ếch [19]. Tiến sĩ Wilcox
cho biết thiếu hụt axit folic làm cho các động vật thí nghi ệm bị t ật r ộng
miệng. Cuộc nghiên cứu này được tiến hành trên cơ sở là người dân Na

Uy, một trong những nước có tỉ lệ bị tật rộng miệng cao nh ất châu Âu, và
là nước không cho phép bổ xung axit folic vào th ực phẩm [19],[15]. Các
nhà nghiên cứu đã liên lạc với tất cả các gia đình có trẻ sơ sinh bị tật
rộng miệng có hay khơng có hở hàm ếch ra đ ời trong kho ảng th ời gian
1996-2001. Có 377 trẻ được gửi câu hỏi phỏng vấn đ ến các bà m ẹ v ề
chế độ ăn uống dinh dưỡng, dùng thuốc vitamin, axit folic. Các nhà
nghiên cứu đã ước tính rằng có thể ngăn ngừa được 22% tr ường h ợp bị
sứt môi ở Na Uy nếu tất cả phụ nữ mang thai dùng 0.4 mg axit folic m ỗi
ngày [19],[15].
1.1.7. Axit folic giúp giảm nguy cơ bị khuyết tật ống th ần kinh ở
thai nhi.
Khuyết tật ống thần kinh là một nhóm các bất thường bẩm sinh
gây ra do ống thần kinh khơng đóng lại được. Điều này gây ra nh ững r ối
loại tâm thần và thể chất nghiêm trọng. Trẻ có thể bị thốt vị màng não
tủy (màng não lồi ra qua khe cột sống), thoát vị dây cột sống – màng t ủy
(dây cột sống và các dễ thần kinh lộ ra, thường dính vào lớp màng mỏng


bao quanh) gây liệt các chi và khơng kìm chế được tiểu tiện. Đ ứa trẻ
chào đời sẽ mang tật ở n ão bộ hoặc tủy sống, những tật này gọi chung là
khuyết tật của ống thần kinh. Tật này liên quan tới lượng axit folic trong
cơ thể người mẹ. Nếu phòng ngừa bằng cách cho phụ nữ trong tuổi sinh
đẻ được uống axit folic đầy đủ, khuyết tật này có thể giảm đáng k ể. T ừ
khi Mỹ bắt đầu chương trình bổ sung axit folic, số trẻ sơ sinh bị n ứt đốt
sống và dị tật thiếu một phần não đó giảm hẳn. Sau Mỹ là các n ước nh ư
Canada, Australia, Mexico và Chile thực hiện chiến dịch này. Nh ư v ậy, có
thể tăng lượng folate cho phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ bằng cách bổ
sung axit folic vào thực phẩm, chúng giúp giảm sự mất cân bằng trong tỷ
lệ khuyết tật ống thần kinh ở thai nhi [16],[17].
1.1.8. Vitamin B và axit folic giúp ngăn ngừa b ệnh tim.

Một nghiên cứu của đại học Caliornia (Mỹ) cho biết, việc bổ xung
vitamin B và axit folic vào thức ăn của những người bệnh tim và người có
nguy cơ mắc bệnh sẽ làm giảm lượng homocystein (một axit amin gây
bệnh tim) trong máu. Dẫn tới giảm đáng kể những cơn đau tim cũng nh ư
những bệnh về tim khác.Vai trò của homocystein, một dẫn xu ất của
chuyển hóa axit amin methionin đối với bệnh tim mạch đ ược quan tâm
rất nhiều trong những năm gần đây. Protein bị phân hố sẽ gi ải phóng
methionin, từ methionin chuyển tới cystein sẽ tạo thành hemocystein có
tính độc với nội mơ mạch máu làm tăng kết dính ti ểu cầu và bi ến đ ổi
nhiều yếu tố đông máu. Ở người khỏe mạnh bình thường vùng chuy ển
hóa methionin- homocystein xảy ra bình thường, lượng homocystein nếu
có thừa sẽ được bài xuất. Trong chuyển hóa homocystein cần có sự tham
gia của bộ ba vitamin nhóm B: B6, B12, và axit folic nh ưng trong s ố đó


axit folic tỏ ra có hiệu lực nhất để giảm mức homocystein trong máu khi
cho bổ sung riêng biệt [12],[24].
Gần đây, nhiều cơng trình nghiên cứu chứng minh sự tăng n ồng độ
homoncystein trong máu có thể gây nhiều bệnh lý tim mạch nh ư: X ơ v ữa
động mạch, huyết khối trong động mạch, thiếu máu cơ tim...và bổ sung
axit folic kết hợp với một số vitamin nhóm B khác có th ể làm gi ảm
homocystein trong máu xuống giúp ngăn ngừa các bệnh lý tim mạch.
Trong nhiều nghiên cứu cho thấy nồng độ homocystein trong máu cao đi
kèm với nguy cơ cao bị bệnh mạch vành (Welch GN. Loscalzo J. 1998).
Tiêu thụ không đủ axit folic làm tăng nồng độ homocystein, làm tăng
bệnh tim mạch. Nồng độ folate trong máu cao, sẽ giảm nguy cơ m ắc
bệnh mạch vành.
1.1.9. Axit folic giúp giảm chứng mất trí.
Các chuyên gia của Viện quốc gia Mỹ về lão hóa, đã nghiên c ứu các
chế độ ăn uống trong hơn 7 năm, họ phát hiện những người cao tuổi ăn

axit folic, một dạng vitamin B bổ dưỡng hàng ngày theo h ướng dẫn, giúp
giảm được nguy cơ mắc bệnh tật. Nghiên cứu ở Anh mới đây cho bi ết
axit folic cịn có thể giúp giảm nguy cơ mắc bệnh Alzheimer. Nó làm
giảm nồng độ homocysteine trong máu mà các nghiên cứu trước đây cho
thấy nồng độ homocysteinetăng cao làm tăng nguy cơ mắc bệnh
Alzheimer. Gần đây nhất ở Mỹ, các bác sĩ đã phân tích các d ữ li ệu v ề ch ế
độ ăn uống của 579 người từ 60 tuổi trở lên để tìm hiểu về mối quan hệ
giữa chế độ ăn uống và nguy cơ mắc bệnh Alzheimer (những người này
khơng có dấu hiệu cho thấy có các vấn đề về trí nhớ khi bắt đầu nghiên
cứu). Kết thúc nghiên cứu các nhà khoa học nhận thấy nh ững ng ười ăn ít
nhất 0,4 mg axit folicmỗi ngàygiảm đến 55% nguy cơ phát triển bệnh


Alzheimer so với những người không th ực hiện ch ế độ ăn này. Bác sĩ
Susanne Sorensen, người đứng đầu Hội bệnh Alzheimer tại Anh nói:
“Nghiên cứu này cho thấy bằng chứng khi thuyết phục rằng axit folic giúp
giảm nguy cơ phát triển bệnh Alzheimer ”. Trong khi đó, các loại vitamin
khác hiện vẫn chưa cho thấy làm giảm nguy cơ phát triển bệnh này.
1.1.10. Axit folic giúp ngăn ngừa bệnh ung thư dạ dày và ung th ư
máu.
Nguy cơ bị ung thư dạ dày sẽ được giảm đáng kể nếu người ta tiêu
thụ một lượng lớn axit folic mỗi ngày. Các nhà khoa h ọc Trung Qu ốc đã
đưa ra kết luận sau khi thí nghiệm thành cơng trên động v ật. Ng ười ta
đưa chất gây ung thư vào 16 con thú săn trong vòng 8 tháng. Một n ửa
trong số này được nhận một lượng axit folic (20mg) mỗi ngày. Qua 15
tháng theo dõi, các tác giả nhận thấy tất cả những con chỉ nhận hóa ch ất
gây ung thư đều bị ung thư dạ dày, trong khi chỉ 3 con trong số nh ận axit
folic bị bệnh. Người ta hy vọng axit folic cũng có kết quả tương t ự đ ối
với con người.
Các nhà khoa học Tây Australia thì kết luận: “Việc phụ nữ có thai

dùng axit folic và bổ xung sắt giúp giảm 60% nguy cơ phát b ệnh ung th ư
máu ở con cái họ sau này” . Điều tra được thực hiện trên 83 trẻ bị bệnh
bạch cầu cấp thể nguyên bào lympho và 166 trẻ bình thường [11].
Lượng tiêu thụ axit folic càng cao thì càng ít nguy cơ mắc ung th ư kết
tràng (Giovannucci E, et al. 1995) và ung th ư tỳ (Zhang S, et al. 1999;
Rohan TE, et al. 2000).
Ngày nay người ta khuyên nên bổ xung axit folic thêm vào th ực
phẩm. Theo FDA Hoa Kỳ từ tháng 1/1998 đã cho phép các sản phẩm hạt
ngũ cốc đều được tăng cường thêm axit folic dưới dạng tổng h ợp ho ặc


dạng sinh học ở mức 140g axit folic/100g. Đối với người trung niên và
người già cho bổ xung 400 g/ ngày là có lợi. Theo khuyến cáo của WHO,
lượng axit folic cần thiết hàng ngày được tóm tắt ở bảng sau:

Nam giới
Nữ giới
Trên 19 tuổi
Trên 19 tuổi
Mang thai
Cho con bú
400 g
400 g
600g
500g
1g thức ăn chứa axit folic = 0,6 g axit folic trong thuốc bổ trợ
Các nhà Y tế công cộng Hoa Kỳ (PHSCC) cho r ằng n ếu ng ười ph ụ
nữ đó từng có con bị vỡ não (anencephaly), hay hở cột sống (spina
bifida) để phòng tái phát, một tháng trước khi có bầu nên tăng liều
thuốc axit folic cao gấp 10 lần: lên đến 0,4mg mỗi ngày và gi ữ li ều này

cho đến cuối tháng thứ ba của thai kỳ.
Ở Mỹ, Canada luật pháp qui định các nhà sản xuất thực phẩm phải
cho axit folic thêm vào các thực phẩm ngũ cốc chế biến như bột gạo, bột
mỳ, bột bắp, ... Để tự nhiên các thực phẩm tại đây chỉ cung cấp chừng 50%
nhu cầu cần thiết về axit folic, tức là 100 g. Mục đích là tăng thêm 100 g
axit folic trong khẩu phần trung bình mỗi ngày, cho đủ mức khuyến cáo là
200 g [23], [18].
Việc tăng cường lượng folate trong thực phẩm cũng khó có th ể
thực hiện ở những nước đang phát triển do giá cả, sự phân phối không
đồng nhất và thiếu hệ thống sản xuất thực phẩm theo cách công nghiệp.
Việc tăng cường folate trong các thực phẩm có nguồn gốc th ực vật đ ược
xem như một chiến lược thay thế hấp dẫn, nhằm gia tăng sự hấp thụ
lượng folate tự nhiên ở những nước giàu cũng như những n ước nghèo.


Axit folic có nhiều trong rau củ nhiều lá, quả chua (cam, chanh, bưởi),
đậu, ngũ cốc còn nguyên cám, gan lợn, thịt gà....
1.1.11. Không mang thai cũng cần bổ sung axít folic
Thiếu axit folic, phụ nữ từ 16 - 45 tuổi rất dễ gặp tình trạng nứt
đốt sống cũng như các bệnh tật khơng đáng có khác.Tất cả phụ nữ đến
tuổi có thể sinh con đều được khuyến cáo bổ sung axít folic sau khi các
chun gia nhận thấy tình trạng nứt đốt sống (gây ốm yếu tàn tật nghiêm
trọng) đang tăng nhanh. Hiệp hội tình trạng nứt đốt sống Scottish (SSBA)
đã đưa ra lời cảnh báo này sau khi khám phá ra số trẻ sơ sinh sinh ra cùng
bệnh tật tăng gấp đôi trong năm này . Trưởng Hiệp hội SSBA, Margo
Whiteford cho hay, “Chúng tôi đã làm nghiên cứu với những người phụ nữ
trong nửa đầu năm nay và nhận thấy hầu như các chị em đều không bổ
sung đủ axít folic đúng thời điểm. Những người phụ nữ biết axít folic có
khả năng ngăn chặn hiện tượng nứt đốt sống, nhưng lại vẫn thờ ơ bàng
quan” [23]. Nghiên cứu cũng cho thấy axít folic giúp cơ thể người ngăn

chặn được những bệnh tật khơng đáng có. Những phụ nữ có kế hoạch
mang thai nên bổ sung axít folic trong 3 tháng trước khi thụ thai và trong
suốt những tháng đầu của thời kỳ thai nghén. Tuy nhiên, những chuyên
gia sức khoẻ cũng cho biết thêm, kể cả những phụ nữ khơng có kế hoạch
sinh con vẫn cần bổ sung axít folic trước khi quá muộn. Một phát ngôn
viên của SSBA phát biểu, “Bất kỳ người phụ nữ nào có quan hệ tình dục và
đến tuổi có thể sinh con nên bổ sung lượng axít folic”. Việc mang thai đơi
khi ngồi dự tính cuả bạn, nên việc bổ sung axit folic sẽ rất quan trọng
đối với những phụ nữ đang trong độ tuổi sinh đẻ. Hiện nay tổ chức y tế
thế giới khuyến cáo mọi phụ nữ ở độ tuổi sinh đẻ nên bổ sung 400g axit


folic mỗi ngày nhằm giảm thiểu nguy cơ dị tật ống thần kinh trong khi
mang thai.
1.2. Tình hình nghiên cứu trong nước
Bệnh thiếu axit folic rất phổ biến ở các phụ nữ có thai có th ể gây
thiếu máu, mặc dù cơ thể người phụ nữ thiếu axit folic nh ưng vẫn ưu
tiên chuyển axit folic cho bào thai, trong những trường h ợp n ặng quá,
đứa trẻ vẫn bị thiếu máu như mẹ nó. Ở Việt Nam hồn cảnh cũng tương
tự, nếu chúng ta quan tâm vấn đề này và cung cấp đủ axit folic cho ph ụ
nữ trong tuổi sinh đẻ, sẽ cải thiện rất nhiều không những sức kh ỏe của
người mẹ mà cả sức khỏe của bào thai và trẻ sơ sinh, kể cả vấn đề
khuyết tật ống thần kinh.
Ngày nay, phụ nữ bị thiếu axit folic là rất phổ biến và chế độ dinh
dưỡng chưa hợp lý là một trong những nguyên nhân dẫn t ới vấn đ ề này.
Ở nước ngoài, người dân thường ăn rau tươi, tuy nhiên tại Việt Nam thì
mọi người thường có thói quen làm chín rau rồi mới ăn. Rất nhiều
những điều tra đã chứng minh được rằng rau khi nấu chín sẽ bị m ất
khoảng 80% hàm lượng axit folic ở trong [7].
Theo Hồ Văn Hiền (2005) nghiên cứu về “Phụ nữ tuổi có thể mang

thai và axit folic ngừa khuyết tật ống thần kinh” cho biết cứ 1000 đứa trẻ
chào đời sẽ có một đứa trẻ mang tật ở não hoặc tuỷ sống, những tật này
gọi chung là khuyết tật của ống thần kinh. T ật này liên quan t ới l ượng
axit folic trong cơ thể người mẹ. Tại Việt Nam, tỷ lệ trẻ sinh ra bị d ị t ật
ống thần kinh là 2,5/1.000. Lượng axit folic trong c ơ th ể thai ph ụ th ấp,
bào thai dễ bị chứng này hơn. Nếu phòng ngừa bằng cách cho ph ụ n ữ
trong tuổi sinh đẻ được uống axit folic đầy đủ, khuy ết tật này có th ể


giảm đến 50-70% trong những trẻ chào đời (theo số liệu thống kê của
Bệnh viện Bảo vệ bà mẹ và trẻ sơ sinh Hà Nội - giai đoạn 1995-1998).
Nước ta, mặc dù chưa có nhiều số liệu nghiên cứu về axit folic,
nhưng vai trị của nó đối với thai phụ và thai nhi cũng đó đ ược xác nh ận.
Một chương trình điều tra và bổ xung sắt- axit folic cho phụ nữ có thai và
bà mẹ cho con bú trên diện rộng đã được triển khai. Thiếu máu dinh
dưỡng là vấn đề sức khỏe cộng đồng quan trọng ở Việt Nam, chương
trình phịng chống thiếu máu dinh dưỡng đã được sự hỗ trợ của UNICEF.
Bổ xung sắt /axit folic cho phụ nữ có thai và bà mẹ cho con bú: B ổ xung
đại trà sắt/axit folic cho tất cả phụ nữ có thai, liều mỗi tuần 60mg s ắt
nguyên tố và 0,4 mg folat. Bắt đầu từ khi có thai cho t ới m ột tháng sau
khi sinh. Bổ xung cho thiếu nữ và phụ nữ khơng có thai m ỗi tu ần u ống
60mg sắt và 0,4mg folat, tối thiểu được bổ xung 16 tuần/năm [10].
Bà mẹ thiếu sắt, axit folic có thể dẫn đến thiếu máu và có nguy c ơ
sinh con nhẹ cân. Lê Bạch Mai và Cộng Sự –Viện Dinh Dưỡng (2006) qua
nghiên cứu “Tình trạng dinh dưỡng, nồng độ hemoglubin và một số y ếu
tố liên quan ở trẻ sơ sinh tại bệnh viện đa khoa tỉnh H ưng Yên” cho
thấy: “Bà mẹ bị thiếu máu có nguy cơ sinh con nhẹ cân cao gấp 16,5 l ần
so với bà mẹ không bị thiếu máu trong thời kỳ mang thai” [5].
Theo Hoàng Kim Thanh ( 2003) cho biết: Những thành ph ần dinh
dưỡng dễ bị thiếu hụt trong đó có axit folic, phân bố không đều trong

thực phẩm và tỉ lệ hấp thu thấp, sử dụng trong cơ thể rất khác nhau.
Trong thời kỳ có thai, nhu cầu axit folic (hay folate) tǎng lên rõ rệt. Nếu
khẩu phần ǎn của người mẹ trong giai đoạn mang thai bị thiếu folate sẽ
ảnh hưởng đến quá trình tạo máu và phát triển thai nhi bao gồm cân


nặng sơ sinh thấp, dẫn đến nhiều bệnh lý của cơ thể nh ư bại liệt, não
úng thủy, thai chết lưu...
Trong những năm gần đây vai trò của axit folic đã được biết đến và
đã được sự quan tâm không chỉ của các nhà khoa học dinh d ưỡng mà là
của cả xã hội. Tháng 8/2005 Bệnh viện Từ Dũ thành phố Hồ Chí Minh
phối hợp cùng Cơng ty New Zealand Milk và Báo Gia đình – Xã h ội t ổ
chức Hội thảo Khoa học về chuyên đề “Axit folic và phụ nữ ở lứa tuổi
sinh sản”.
Theo Nguyễn Tường Khanh (2004) đề xuất nghiên cứu “ Folic acid
gia tăng chức vụ của màng trong mạch máu và gi ảm huy ết áp ở nh ững
người hút thuốc lá: một thử nghiệm mới”.
Theo Lương Lễ Hồng (2010) đã nêu“Khỏe vì sinh tố, mạnh nhờ
khoáng tố”. Nguồn thực phẩm chứa folat rất đa dạng: các loại rau xanh,
đậu quả, nước quả gan, các hạt nảy mầm (mầm lúa mỳ, mầm lúa, giá
đỗ...). Folat trong thực phẩm dễ bị phân hủy bởi nhiệt độ, ánh sáng mặt
trời. Trong quá trình chế biến tỷ lệ folate bị mất từ 50-90% [18].
Để có đủ folate trong khẩu phần ǎn hàng ngày, các bà mẹ cần ǎn
phối hợp nhiều loại thực phẩm, tǎng cường ǎn rau quả tươi, th ực phẩm
mua về cần chế biến ngay và thực hiện ǎn ngay sau khi n ấu. Riêng v ới
axit folic nhu cầu người mẹ mang thai cao hơn nhiều so với bình th ường
(thường cao gấp đơi), do vậy một chế độ ǎn uống bình th ường sẽ không
cấp đủ các thành phần dinh dưỡng và dễ dẫn đến thiếu hụt, và dẫn đến
thiếu máu cho người mẹ mang thai. Qua số liệu điều tra của Vi ện Dinh
Dưỡng có khoảng 60% bà mẹ bị thiếu máu trong thời kỳ thai nghén [22].



×