Tải bản đầy đủ (.pdf) (255 trang)

Thơ Khuê Phụ đời Đường

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.82 MB, 255 trang )

1

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI

LƢƠNG HUYỀN THANH

THƠ KHUÊ PHỤ ĐỜI ĐƢỜNG

Chuyên ngành: VĂN HỌC TRUNG QUỐC

Mã số: 62.22.0246

LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGỮ VĂN

HÀ NỘI - 2014


2

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
1.1. Thơ Đƣờng không chỉ là đỉnh cao trong lịch sử thơ ca Trung Quốc mà cịn
có vị trí đặc biệt trong lịch sử thơ ca nhân loại. “Thơ Đƣờng vừa có nền rộng rãi vừa có
những đỉnh cao”, nhƣ một thế giới rộng lớn, mn màu, mn sắc gợi mở khơng cùng.
Vì thế, đến nay dù đã hơn một ngàn năm, dù đã có biết bao cơng trình nghiên cứu,
khám phá cái hay, cái đẹp của thơ Đƣờng nhƣng thơ Đƣờng vẫn là một thế giới cịn
nhiều điều bí ẩn, vẫn ln tràn đầy sinh lực và hấp dẫn. Lựa chọn nghiên cứu đề tài này
chúng tôi mong muốn khám phá thêm một vùng đất màu mỡ còn ẩn chứa nhiều điều
thú vị trong thế giới rộng lớn của Đƣờng Thi.
1.2. Cũng là đề tài thơ vốn đƣợc ngƣời đƣơng thời ƣa ngâm vịnh nhƣ thơ biên


tái, sơn thủy, điền viên, tống biệt…., mảng thơ khuê phụ với sự phản ánh chân thực,
cảm động những vấn đề cuộc sống của một nhóm phụ nữ tƣơng đối đặc biệt trong xã
hội đƣơng thời: những người phụ nữ phải sống trong cảnh tương tư li biệt với chồng,
đã tạo đƣợc một dấu ấn đậm nét trên thi đàn đời Đƣờng. Mảng thơ này ở Trung Quốc
đã đƣợc quan tâm nghiên cứu nhƣng đến nay chƣa hoàn toàn thống nhất về tên gọi, về
nội hàm khái niệm, vì vậy vẫn cịn một vài điểm trống khoa học cần bổ sung.
Ở Việt Nam, so với mảng đề tài về biên tái, tống biệt, sơn thủy, điền viên, vịnh
vật….thì thơ viết về ngƣời khuê phụ với tƣ cách là một mảng đề tài của thơ Đƣờng vẫn
chƣa đƣợc đầu tƣ nghiên cứu thích đáng. Nghiên cứu sâu về mảng thơ khuê phụ này sẽ
góp phần giúp độc giả u thơ Đƣờng có cái nhìn đầy đủ hơn, sâu sắc hơn về diện mạo
phong phú của Đƣờng thi.
1.3. Việt Nam cũng nhƣ một số dân tộc phƣơng Đơng có mối quan hệ mật thiết
với nền văn hóa Trung Hoa, trong q trình xây dựng ngơn ngữ thơ ca của mình đều ít
nhiều tiếp thu ảnh hƣởng của thơ Đƣờng. “Mã Đƣờng thi” xuất hiện nhiều nhất trong
thơ ca thời kỳ trung đại Việt Nam. Mảng thơ khuê phụ cũng có ảnh hƣởng đến mảng
sáng tác về đề tài phụ nữ. Trong đó, tiếp thu ảnh hƣởng nhiều nhất, sâu đậm nhất phải
kể đến tác phẩm Chinh phụ ngâm của Đặng Trần Cơn. Vì vậy, nghiên cứu mảng thơ


3

này cũng có cơ sở để nghiên cứu sâu hơn mảng thơ cùng đề tài trong văn học trung đại
Việt Nam.
Hiện nay, thơ Đƣờng vẫn đƣợc giảng dạy trong chƣơng trình đại học, cao đẳng
và THPT ở Việt Nam. Với việc thực hiện đề tài này chúng tôi hy vọng sẽ bổ sung một
lƣợng kiến thức nhất định về thơ Đƣờng, đặc biệt là về đề tài của thơ Đƣờng cho thực
tiễn nghiên cứu và giảng dạy thơ Đƣờng trong các nhà trƣờng hiện nay.
2. Mục đích nghiên cứu
2.1. Kiến giải những nhân tố đặc thù tạo nên sự hƣng thịnh của thơ khuê phụ đời
Đƣờng.

2.2. Nghiên cứu những đặc trƣng nổi bật về nội dung và nghệ thuật của mảng
thơ khuê phụ để khẳng định vị trí và dấu ấn đặc biệt của mảng thơ này trong toàn cảnh
thơ Đƣờng.
2.3. Khẳng định sự trƣởng thành và tiến bộ trong nhận thức và tình cảm của thi
nhân đời Đƣờng về con ngƣời và cuộc đời qua việc khám phá thế giới nội tâm với
nhiều khát vọng và ẩn ức của những ngƣời khuê phụ.
3. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
3.1. Khuê phụ là một đề tài xuất hiện sớm trên thi đàn thơ cổ Trung Hoa. Cũng
nhƣ các đề tài: tống biệt, sơn thủy, điền viên, vịnh vật…đã có mặt ở thời kỳ trƣớc, nó
đặc biệt hƣng thịnh ở đời Đƣờng. Rất nhiều nhà thơ nổi tiếng thời kỳ này nhƣ Lý Bạch,
Đỗ Phủ, Bạch Cƣ Dị, Vƣơng Xƣơng Linh…đã lấy khuê phụ làm đề tài sáng tác, tạo
nên nhiều tác phẩm có giá trị. Do đó, để nhận biết sâu sắc diện mạo thơ Đƣờng khơng
thể khơng tìm hiểu mảng thơ đặc biệt này.
3.2. So với các đề tài khác của thơ Đƣờng nhƣ thơ sơn thủy, điền viên, biên tái,
tống biệt…. nét nổi bật của thơ khuê phụ là sự giản dị, tinh tế mang đậm nét nữ tính.
Cũng giống nhƣ ngƣời khuê phụ dịu dàng, nhỏ bé, lời thơ tuy nhẹ nhàng, thầm kín
nhƣng ẩn chứa “tiếng nói lớn”- tiếng nói phản kháng và khẳng định sự theo đuổi nhu
cầu cuộc sống rất Ngƣời của những phụ nữ bất hạnh trong xã hội nam quyền thống trị.
Những vấn đề mà thơ khuê phụ đặt ra không chỉ khiến ngƣời đƣơng thời cảm động mà
cho đến ngày nay, ngƣời đọc hiện đại khi tiếp cận cũng không khỏi ngạc nhiên, rung
động. Nghiên cứu mảng thơ khuê phụ này có thể thấy đƣợc sự đột phá về mặt nhận


4

thức, chiều sâu tƣ tƣởng, tình cảm nhân đạo của những nhà thơ cổ điển sống cách
chúng ta hơn một ngàn năm.
Điều đặc biệt là mảng thơ này ít có chủ thể trữ tình trực tiếp, chủ yếu là chủ thể
trữ tình nhập vai “nam tử tác khuê âm”, luận án sẽ tập trung làm rõ nét đặc trƣng của
chủ thể trữ tình trong thơ, nhất là chủ thể trữ tình nhập vai để thấy đƣợc vai trị ý nghĩa

của nó trong việc thể hiện tƣ tƣởng, tình cảm của nhà thơ. Trong văn học Việt Nam
cũng có nhiều trƣờng hợp tƣơng tự, việc phân tích mảng thơ này có thể gợi ý cho việc
phân tích những tác phẩm có nét tƣơng đồng ở Việt Nam.
3.3. Khi cuộc sống của con ngƣời hiện đại càng nhiều “ƣu tƣ” thì những “ƣu tƣ”
của những ngƣời khuê phụ càng tìm đƣợc sự đồng cảm, sẻ chia. Nhất là khi quan niệm
về giới càng tiến bộ, cuộc sống của ngƣời phụ nữ càng đƣợc quan tâm chú ý thì mảng
thơ khuê phụ đời Đƣờng cũng trở nên thu hút hơn. Do đó tìm hiểu cuộc sống của ngƣời
phụ nữ thời xƣa qua mảng thơ khuê phụ đời Đƣờng cũng là một cách chiêm nghiệm
những giá trị cuộc sống nhân sinh.
4. Phạm vi nghiên cứu
4.1. Phạm vi văn bản khảo sát:
Về phạm vi của thơ kh phụ, chúng tơi có dựa trên cách khái niệm hóa từ khuê
phụ (闺妇). Theo nghĩa gốc: 1. Khuê (闺): Thời xƣa chỉ phòng ở của con gái (thâm
khuê, khuê các...). 2. Phụ (妇): Ngƣời con gái đã lấy chồng (phụ nhân, thiếu phụ...);
Thê (vợ), tƣơng phản với phu (chồng); Nàng dâu (phụ cô, tức phụ); Chỉ chung giới nữ
(phụ nữ). Trong phạm vi nghiên cứu của luận án, “khuê” không chỉ là biểu tƣợng cho
giới hạn không gian sống của ngƣời phụ nữ mà còn là biểu tƣợng liên quan đến mối
quan hệ vợ chồng, và hình tƣợng nhân vật khuê phụ không chỉ chung phụ nữ mà là
những người phụ nữ đã có chồng (ngƣời vợ). Nét đặc trƣng của nhân vật là thế giới nội
tâm phong phú, tinh tế với tình điệu chính là buồn thƣơng ai ốn. Ngun nhân sâu xa
của những tâm tình nơi kh phịng ấy là hồn cảnh vợ chồng ly biệt hoặc ngƣời phụ
nữ bị chồng phụ bạc bỏ rơi, phải một mình cơ quạnh nơi phịng vắng. Trực tiếp hoặc
gián tiếp, những khuê phụ ấy đều thổ lộ một mong ƣớc thiết tha là đƣợc đoàn tụ với
chồng để đƣợc hƣởng một cuộc sống gia đình hạnh phúc bình thƣờng. Họ đã nhận


5

đƣợc sự trân trọng, xót thƣơng, đồng cảm của thi nhân đời Đƣờng. Các nhà thơ đã cho
họ cơ hội đƣợc giãi bày tâm trạng với nhiều cung bậc cảm xúc phong phú, sâu sắc của

đời sống cá nhân thực sự. Đó là những nhớ thƣơng ngút ngàn gói chặt trong chữ tư (思),
là nỗi buồn vơ tận nhƣ dịng nƣớc chảy gửi theo chữ sầu (愁)..., cũng có khi là nỗi ốn
hận thâm sâu dù họ khơng thốt ra lời một chữ ốn (怨), thậm chí cá biệt cịn có cả nỗi
hân hoan, vui mừng trong chữ hỉ (喜) hiếm hoi...
Thơ khuê phụ là thơ viết về đề tài khuê phụ (có những bài thơ trực tiếp lấy nhan
đề là Khuê phụ), trong đó có cả thơ của người khuê phụ tự bạch nỗi lòng và phần nhiều
là thơ của nhà thơ nam giới thay lời ngƣời khuê phụ mà giãi bày tâm tƣ tình cảm.
Những khuê phụ ở đây cụ thể là những ngƣời vợ của những ngƣời lính đi binh dịch nơi
biên ải xa xơi (chinh phụ - 征妇), là những ngƣời vợ có chồng đi bn bán xa nhà
(thƣơng nhân phụ - 商人妇), là vợ của những ngƣời làm quan phải nhậm chức, hoặc
đôi khi bị biếm trích đi xa (hoạn phụ -宦妇), là vợ của những ngƣời thích du ngoạn
ngắm cảnh đẹp núi sơng, kết bạn tâm giao khắp bốn phƣơng, thực hiện lý tƣởng…(du
tử phụ - 遊子妇), hoặc những ngƣời vợ có chồng bội bạc, bị ruồng rẫy, bỏ rơi trong cô
đơn, sầu tủi (khí phụ - 弃妇).

Thơ khuê phụ đƣợc khu biệt với các mảng đề tài thơ

khác trong thơ Đƣờng bằng tên gọi hình tƣợng nhân vật chính trong thơ: kh phụ. Nội
hàm khái niệm thơ khuê phụ có một số điểm khác biệt so với thơ khuê oán (thơ về nỗi
oán giận nơi kh phịng), kh tình (thơ về tình cảm nơi khuê phòng) và thơ tư phụ
(thơ về ngƣời vợ tƣơng tƣ). Về thơ khuê oán (闺怨诗), theo tác giả Lƣu Khiết trong
cuốn Bàn về các loại đề tài của thơ Đường, thơ khuê oán đƣợc hiểu là “đề tài nhỏ”
trong sáng tác thi ca, chủ yếu phản ánh nỗi niềm li sầu biệt hận của những ngƣời phụ
nữ chốn khuê phòng” [141.283]. Đây là mảng thơ miêu tả một cách sinh động và chân
thực những tình cảm tinh tế, kín đáo, sâu sắc về thế giới nội tâm đầy bi khổ ai ốn của
ngƣời phụ nữ, ln khát khao một cuộc sống bình thƣờng mà khơng đƣợc. Chủ thể của


6


kh ốn có thể là thiếu nữ chƣa chồng, ví nhƣ thiếu nữ trong bài Xuân nữ oán của
Tƣởng Duy Hàn. Tuy nhiên đối tƣợng đƣợc miêu tả nhiều nhất trong mảng thơ này là
ngƣời phụ nữ đã có chồng nhƣng phải sống trong cảnh cơ đơn, sầu muộn vì ly biệt,
tƣơng tƣ hay bị ruồng bỏ, nhƣ thiếu phụ trong bài Xuân tứ của Lý Bạch, Khuê oán của
Vƣơng Xƣơng Linh, Hàn khuê oán của Bạch Cƣ Dị... Nguyên do của “ốn” cũng có rất
nhiều, có thể nhớ ngƣời, có thể nhớ quê, có thể nuối tiếc chuyện xƣa, cũng có thể là
thƣơng tiếc ngƣời đã mất…Đối tƣợng của “ốn” có thể là ngƣời chồng đi xa chƣa quay
về, có thể là tình lang trong mộng, có thể là phu quân chết trận, có thể là chiến tranh tàn
khốc, có thể là những kẻ phụ tình, cũng có thể là thời thanh xn đã mất đi…Cũng có
những bài khơng rõ thân phận của nhân vật chính trong thơ, chỉ thấy tâm tƣ sầu muộn
oán hờn của ngƣời phụ nữ nơi kh phịng, khơng rõ chủ thể của “ốn”, ngun do của
“ốn”. Cịn Kh tình (闺情) là cách gọi tên mảng thơ viết về tình cảm của ngƣời phụ
nữ nơi kh phịng, cũng gần giống khái niệm thơ kh ốn, miêu tả tình cảm của
ngƣời phụ nữ có chồng đi xa nhớ nhung, oán hờn ly biệt, hoặc của thiếu nữ chƣa chồng
đƣơng tuổi xuân thì bày tỏ khát vọng u đƣơng.... “Kh ốn”, “kh tình” có thể là
cách gọi tên mảng thơ đƣợc gợi ý từ nhan đề quen thuộc của các bài thơ thuộc mảng đề
tài này, chẳng hạn “Kh ốn” có: Kh ốn (Vƣơng Xƣơng Linh); Kh oán (Trƣơng
Hoành); Khuê oán (Ngƣ Huyền Cơ); Khuê oán từ (Bạch Cƣ Dị); Kh ốn từ (Lƣu Vũ
Tích); Hàn kh ốn (Bạch Cƣ Dị)... “Kh tình” có : Kh tình (Lý Đoan); Khuê tình
(Mạnh Hạo Nhiên), Khuê tình (Lý Bạch)...
Về phạm vi của Tư phụ thi (思妇诗)(thơ về ngƣời phụ nữ nhớ nhung chồng) lại
hẹp hơn nhiều. Chủ thể của “thơ miêu tả hình tƣợng ngƣời tƣ phụ” chỉ giới hạn trong
nội dung miêu tả những ngƣời phụ nữ nhớ nhung ngƣời chồng đi xa. Cách phân loại
thơ này dựa vào đặc trƣng tâm trạng của nhân vật chính trong thơ: tư - 思 (nhớ), chẳng
hạn Tử Dạ thu ca; Ô dạ đề (Lý Bạch); Văn dạ châm (Bạch Cƣ Dị); Dạ địch từ (Thi
Kiên Ngô)...
Những khái niệm nhằm phân loại mảng thơ nhƣ trên đều có những cơ sở hợp lý,
tuy nhiên nó chƣa thực sự tập hợp, xâu chuỗi đƣợc một hệ thống nhân vật trong thơ



7

Đƣờng nhiều điểm thống nhất, tƣơng đồng về ý nghĩa hình tƣợng và nội dung miêu tả.
Chúng tơi gọi mảng thơ miêu tả cuộc sống (chủ yếu là cuộc sống tinh thần) của những
ngƣời phụ nữ cơ đơn nơi phịng vắng do cảnh ngộ vợ chồng ly biệt hay vì chồng phụ
bạc bỏ rơi là thơ khuê phụ. Do vậy, những bài thơ về tâm tƣ của những thiếu nữ nơi
kh phịng, nhƣ tâm trạng ốn hờn của cơ gái mới lớn vì những ràng buộc của giới
hạn khơng gian sống: kh phịng ln phải cửa đóng then cài, khơng đƣợc tự do yêu
đƣơng trong bài Xuân nữ oán của Tƣởng Duy Hàn không thuộc phạm vi khảo cứu của
luận án.
Cũng là mảng thơ viết về nỗi bất hạnh của ngƣời phụ nữ trong xã hội đƣơng
thời nhƣng thơ khuê phụ (闺妇诗) có nhiều khác biệt so với mảng thơ cung oán (宫怨
诗). Nhân vật của thơ khuê phụ là những ngƣời phụ nữ có chồng đi xa, hoặc khơng đi
xa nhƣng phải một mình sống cơ đơn nơi phịng vắng. Nhân vật của thơ cung oán là
những cung nữ đƣợc tuyển chọn vào hầu hạ vua, là hoàng hậu, là những cung phi đã
nhận đƣợc ân sủng của quân vƣơng. Trong đó, cung (宫) cũng là biểu tƣợng cho giới
hạn không gian sống của ngƣời phụ nữ nhƣng là khơng gian sống hồn tồn khác biệt
với kh (闺), vì chủ nhân của hai khơng gian ấy có thân phận khác nhau. Về nghĩa đen,
khuê (phòng, buồng trong, chỗ con gái ở) nhỏ hơn rất nhiều so với cung (cung cấm,
một thế giới khác hẳn: thế giới của vua – Thiên tử) nhƣng dù sao vẫn cịn có thể là
khơng gian mở. Những ngƣời phụ nữ nhớ chồng quanh quẩn trong cái không gian bé
nhỏ, chật hẹp ấy nhƣng vẫn cịn có hy vọng, cịn có lối thốt, cịn có manh mối liên kết
với cuộc đời bên ngoài kia. Những cung nữ đã nhập cung thì coi nhƣ vĩnh viễn cắt đứt
với thế giới bên ngoài. Đây là nơi giam hãm vĩnh viễn linh hồn và thể xác những ngƣời
con gái đẹp, hy vọng sống còn duy nhất của họ chỉ là ơn mƣa móc của quân vƣơng.
Nếu những khuê phụ, bi kịch chính của họ là do hồn cảnh vợ chồng ly biệt tạo nên thì
với nhân vật của thơ cung oán, bi kịch chủ yếu do “dĩ sắc sự tha nhân” (nhan sắc hiến
cho ngƣời), nỗi đau khổ của những ngƣời phụ nữ đẹp bị nhốt chung vào một không
gian sống (cung) là giành giật sự sủng ái của một ngƣời (Vua) và ốn cũng có căn
ngun chính từ sự thất sủng này. Hiện thực đời sống đƣợc phản ánh trong thơ khuê



8

phụ rộng hơn, phong phú hơn thơ cung ốn vì đối tƣợng liên quan trực tiếp đến những
tâm tình nơi khuê phòng là ngƣời chồng – bao gồm rất nhiều ngƣời trong xã hội, có
hồn cảnh, địa vị, xuất thân từ nhiều tầng lớp khác nhau (chinh nhân, quan nhân,
thƣơng nhân, du tử…). Đối tƣợng liên quan trực tiếp đến những ốn hận nơi cung cấm
chỉ có một là vua. Do đó những bài thơ miêu tả cuộc sống của những người phụ nữ nơi
cung cấm là một mảng đề tài khác, mặc dù có nhiều nét tƣơng đồng với mảng thơ khuê
phụ, cũng không thuộc phạm vi khảo cứu của luận án này.
Từ thời Sơ Đƣờng đến Vãn Đƣờng đều có những nhà thơ sáng tác về mảng đề
tài này và chắc chắn với số lƣợng không nhỏ, trong đó có nhiều bài thơ xuất sắc gắn
liền với những nhà thơ có danh tiếng. Tuy nhiên, do một số hạn chế nhất định chúng tơi
khơng thể thống kê chính xác số lƣợng bài thơ khuê phụ và các nhà thơ có sáng tác
mảng đề tài này trong gần năm vạn bài thơ và hơn hai nghìn nhà thơ của Tồn Đường
thi. Chúng tơi tổng hợp khảo cứu đƣợc 234 bài thơ về hình tƣợng khuê phụ, từ các
tuyển tập thơ Đƣờng đƣợc tuyển chọn và dịch sang tiếng Việt nhƣ Thơ Đường (2 tập),
Nam Trân ; Thơ Đường (3 tập), Trần Trọng San; Đường thi tam bách thủ, Hành Đƣờng
Thối Sĩ tuyển chọn, Trần Uyển Tuấn bổ chú (Ngơ Văn Phú dịch); Đường thi tuyển
dịch (2 tập), Lê Nguyễn Lƣu; Đường thi trích dịch, Đỗ Bằng Đồn, Bùi Khánh Đản…
Ngoài ra, từ gợi ý của một số chuyên luận nghiên cứu liên quan đến mảng thơ này
chúng tơi có tham khảo thêm một số bài từ nguyên tác tiếng Hán trong Toàn Đường thi,
Bành Định Cầu (彭定求, 1960, 全唐诗 ); Đường thi giám thưởng từ điển, Lƣu Học
Khải, Viên Hành Bái bổ sung, sửa chữa năm 2007 (刘学凱, 袁行霈 , 唐诗鉴赏辞书 ).
4.2. Phạm vi nghiên cứu của đề tài.
Hƣớng tiếp cận chủ đạo của chúng tôi trong phạm vi đề tài này là khám phá
mảng thơ khuê phụ đời Đƣờng từ phƣơng diện thi pháp học, tìm hiểu những nét đặc
trƣng của hệ thống hình tƣợng nhân vật và những quan niệm nghệ thuật về con ngƣời
và cuộc đời mà các nhà thơ gửi gắm trong đó.

Nghiên cứu tổng thể thơ khuê phụ rất rộng, là việc làm công phu, vì vậy chúng
tơi chỉ tập trung vào những vấn đề rất cơ bản nhƣ:


9

- Nội dung tƣ tƣởng chủ đạo của thơ khuê phụ qua việc “giải mã” nét đặc trƣng
của chủ thể trữ tình và nhân vật trong thơ .
- Đặc trƣng hình thức nghệ thuật của thơ kh phụ trong tính cách là một mảng
đề tài của thơ Đƣờng.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Chúng tôi thực hiện Luận án này dựa trên sự phối hợp của hai cách tiếp cận: thi
pháp học và văn hóa, trong đó cách tiếp cận từ thi pháp học là chủ đạo. Cách tiếp cận
thi pháp học: Chúng tôi bắt đầu từ việc miêu tả đặc điểm của các phƣơng thức, phƣơng
tiện biểu hiện nhân vật để thâm nhập hình tƣợng nghệ thuật, tìm hiểu tƣ tƣởng nhận
thức và tình cảm của các nhà thơ. Cách tiếp cận văn hố: Chúng tơi tiến hành giải mã
thơ kh phụ đời Đƣờng bắt đầu từ mã văn hoá truyền thống Trung Hoa. Đồng thời
chúng tôi sử dụng một số phƣơng pháp sau:
- Phƣơng pháp liên ngành: Sử dụng các khái niệm và thành tựu của các ngành
khoa học có liên quan nhƣ: văn hóa học, sử học, tâm lý học…để nghiên cứu sâu hơn,
làm nổi bật đặc điểm của mảng thơ khuê phụ trong toàn cảnh thơ Đƣờng.
- Phƣơng pháp thống kê, phân loại: Hệ thống, thống kê, phân loại các đơn vị
kiến thức nhƣ: nhân vật, sự kiện, các hình ảnh, biểu tƣợng…để đánh giá, rút ra các kết
luận có ý nghĩa khoa học.
- Phƣơng pháp phân tích, tổng hợp: Phân tích, tổng hợp văn bản thơ, tƣ liệu
tham khảo làm cơ sở rút ra những đánh giá, kết luận chính xác, triển khai chƣơng mục,
Luận án theo cấu tứ phù hợp.
- Phƣơng pháp so sánh: So sánh, đối chiếu mảng thơ khuê phụ ở đời Đƣờng với
mảng thơ khuê phụ ở các thời đại khác, trƣớc đó và sau đó (văn học cổ trung đại); so
sánh tác phẩm của những tác giả khác nhau để làm nổi bật những nét truyền thống và

sáng tạo, đa dạng và độc đáo của mảng thơ khuê phụ đời Đƣờng.
6. Cấu trúc của Luận án
Ngoài các phần mở đầu, kết luận, thƣ mục tài liệu tham khảo, phụ lục, phần nội
dung chính của Luận án đƣợc trình bày trong 4 chƣơng:
Chƣơng 1: Tổng quan về các vấn đề nghiên cứu
Chƣơng 2: Sự hƣng thịnh của thơ khuê phụ đời Đƣờng


10

Chƣơng 3: Chủ thể trữ tình trong thơ khuê phụ đời Đƣờng
Chƣơng 4: Nghệ thuật thể hiện nhân vật trong thơ khuê phụ đời Đƣờng
Quy ước trong luận án:
- Trích dẫn tài liệu tham khảo: Trong ngoặc vuông, đứng đầu là số thứ tự tài liệu
tham khảo trong Thƣ mục tài liệu tham khảo của luận án, sau là số trang đƣợc trích dẫn,
ví dụ [2. 415].
- Phụ lục luận án: Những bài thơ đã đƣợc dịch và giới thiệu ở Việt Nam chúng
tôi chỉ thống kê tên bài và tác giả, những bài chƣa dịch sang tiếng Việt chúng tơi trích
ngun văn chữ Hán và phần Tạm dịch do tác giả luận án thu thập và tham khảo, phiên
dịch sang tiếng Việt.
Chƣơng 1
TỔNG QUAN VỀ VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1.1. Nghiên cứu thơ khuê phụ ở Trung Quốc
1.1.1. Về tuyển thơ
Việc nghiên cứu thơ khuê phụ đã bắt đầu manh nha từ thời Đƣờng, thông qua
việc tuyển thơ – phƣơng pháp nghiên cứu nguyên thủy nhất của Đƣờng thi học. Tuyển
tập thơ đầu tiên có liên quan đến thơ khuê phụ là bản Dao trì tân vịnh của Sái Tỉnh
Phƣợng ghi chép lại thơ của phụ nữ. Về sau trong các tuyển tập thơ Đƣờng dù lớn hay
nhỏ đều ít nhiều có tuyển thơ khuê phụ, cố nhiên chỉ là những bài thơ riêng lẻ nhƣ là
dẫn chứng tiêu biểu cho một thể thơ, một giai đoạn hay một nhà thơ cụ thể nào đó,

chẳng hạn nhƣ Tập thơ Nhạc phủ của Quách Mậu Sảnh đời nhà Tống có tuyển bài thơ
Trường tương tư của Lý Bạch, Đường thi tam bách thủ, Hồnh Đƣờng Thối Sĩ tuyển
chọn, Trần Uyển Tuấn bổ chú tuyển 19 bài thơ khuê phụ (theo thể thơ)… Đây đều là
những bài thơ nổi tiếng, không chỉ là đại diện tiêu biểu cho mảng thơ khuê phụ mà cịn
là đại diện tiêu biểu của Tồn Đường thi và cũng là những tác phẩm có giá trị trong sự
nghiệp sáng tác của nhà thơ.
Sau này việc biên tuyển càng cụ thể, phong phú hơn, hoặc theo thể thơ nhƣ cuốn
Đường thi giám thưởng từ điển, Lƣu Học Khải, Viên Hành Bái (刘学凱, 袁行霈 , 唐诗

鉴赏辞书, 2007 ) có khoảng 30 bài thơ khuê phụ; hoặc theo đề tài, giai đoạn phát triển,


11

theo nội dung, theo tác giả…Chẳng hạn, cuốn Đường thi giám thưởng từ điển do tác
giả Tôn Dục Hoa chủ biên năm 1996 (孙育华 (1996), 唐诗鉴赏辞书),dù khơng có tên
đề tài thơ kh phụ nhƣng có thể tìm thấy một số bài thơ khuê phụ dƣới tên đề tài khuê
tình và kh ốn. Trong Kh tình, các tác giả dẫn bài Trường tương tư của Lý Bạch;
Giang lâu khúc của Lý Hạ, đồng thời cũng cho rằng những bài thơ thể hiện tình cảm
thƣơng nhớ của những ngƣời vợ ngƣời bn bán nhƣ Trường Can hành của Lý Bạch;
La cống khúc tam thủ của Lƣu Thái Xuân; Tỳ bà hành của Bạch Cƣ Dị; Nam Lăng đạo
trung của Đỗ Phủ…cũng là thơ tình kh phụ. Thơ Kh ốn các tác giả giới thiệu bài
Khuê oán của Vƣơng Xƣơng Linh; Giang Nam khúc của Vu Cô...Trong bộ Trung Quốc
lịch đại danh thi phân loại đại điển tập 3, tập 4, các tác giả Hồ Quang Chu, Chu Mãn
Giang (胡光舟, 周滿江,中国历代名诗分类大典) cũng tuyển thơ của các nhà thơ nổi
tiếng theo đề tài qua các triều đại, trong đó có mảng thơ tống biệt, biên tái, vịnh vật…,
khơng có tên mảng thơ kh phụ. Những bài thơ về hình tƣợng khuê phụ lại xuất hiện
trong các mảng đề tài nhỏ nhƣ: Tư phụ; Khuê tình; Phu phụ; Khí phụ. Mỗi đề tài giới
thiệu khoảng trên dƣới mƣời bài thơ của các triều đại. Ở đề tài Khuê tình tác giả tuyển
chọn những bài thơ nói về tình cảm nơi kh phịng: tâm trạng nhớ nhung, oán

hờn…của những ngƣời phụ nữ (thiếu nữ chƣa lấy chồng và cả phụ nữ đã có chồng). Ở
đề tài Phu phụ (vợ chồng), có tuyển những bài nhƣ Trường Can hành nhị thủ của Lý
Bạch, Nguyệt Dạ của Đỗ Phủ (là những bài thơ đã khắc họa rất thành cơng hình tƣợng
nhân vật kh phụ). Cịn ở đề tài Tư phụ (những ngƣời phụ nữ nhớ nhung) có thể thấy
nhiều bài thơ về hình tƣợng kh phụ khơng chỉ có tâm trạng tư (nhớ) mà cịn có cả sầu,
ốn, nhƣ: Xuân oán của Kim Xƣơng Tự; Tử Dạ thu ca, Ô dạ đề của Lý Bạch; Giang
Nam khúc của Lý Ích; La Cống khúc tam thủ của Lƣu Thái Xuân…Cách phân chia này,
thực ra mới chỉ căn cứ sự liên kết mặt ngoài chứ chƣa dựa vào sự thống nhất, tƣơng
đồng bên trong, bề sâu nội dung tƣ tƣởng giữa các bài thơ. Tuy vậy, các biên tuyển vẫn
có thể tạo “hạ tầng cơ sở” cho việc nghiên cứu nội dung và nghệ thuật thơ.
1.1.2. Về tên gọi
Ngay từ giai đoạn sơ khai nhất của Đường thi học, các nhà nghiên cứu đời
Đƣờng đã chú ý đến những bài thơ miêu tả hình tƣợng nhân vật khuê phụ khi lựa chọn


12

cho những tuyển thơ hoặc những tác phẩm chuyên ghi chép các tích, bình thơ, phẩm
vựng. Tuy có nhiều tuyển thơ, bình thơ, chú giải về thơ Đƣờng nhƣng ở giai đoạn này
vẫn chƣa có tác phẩm nào gọi tên mảng thơ này, việc tuyển chọn chủ yếu theo kiểu ấn
tƣợng, cảm tính về những bài thơ riêng lẻ.
Trên cơ sở khảo cứu những tƣ liệu hiện có, chúng tơi cho rằng, những bài thơ
miêu tả tâm tư tình cảm của những người phụ nữ sống trong cảnh tương tư sầu khổ,
một mình nơi phịng vắng đƣợc bàn đến lần đầu tiên với tƣ cách là một mảng thơ của
thơ Đƣờng là trong cuốn Đường thi giải của tác giả Đƣờng Nhữ Tuần đời nhà Minh.
Đây là tác phẩm phân tích, lý giải, hƣớng dẫn thƣởng thức nhiều bài thơ Đƣờng khá lý
thú, làm cơ sở cho nhiều chuyên luận nghiên cứu sâu về thơ Đƣờng sau này. Trong tập
26, tác giả nhận định: ―Đường nhân khuê oán, đại để giai chinh phụ chi từ‖ (thơ khuê
oán của ngƣời đời Đƣờng chủ yếu là về lời của ngƣời chinh phụ) [Dẫn 129.291]. Trƣớc
đó, hai từ kh ốn (闺怨) đã xuất hiện lần đầu tiên trong các nhan đề thơ của văn nhân

Nam triều nhƣ Khuê oán thi của Giang Yêm hoặc trong câu nói của Võ Tắc Thiên ở Tơ
Thị chức cẩm hồi văn kí (Tồn Đường văn): “Cẩm tự hồi văn, thịnh kiến truyền tả, thị
cận đại khuê oán chi tơng chỉ, thuộc văn chi sĩ giảm quy kính yên” (Hồi văn chữ gấm,
lƣu truyền rộng rãi, nay thay lời ốn than của ngƣời kh phịng, phó thác vào chữ nhà
thơ, bớt đi vẻ sáng đẹp). [Dẫn 149.2]. Nhƣ vậy, có thể kh ốn đã là một khái niệm
quen thuộc của ngƣời Trung Quốc cổ đại.
Mảng thơ đời Đƣờng có tên gọi kh ốn tiếp tục đƣợc nhắc đến nhiều trong
các chuyên luận nghiên cứu chuyên sâu về thơ Đƣờng từ sau Ngũ tứ, nhất là thời gian
gần đây. Năm 1986, tác giả Lƣu Hồng Kì có bài viết Lược luận quỹ đạo phát triển của
việc truyền bá khuê oán thi thời Đường (刘红旗 (1986), 唐代闺怨诗传播发展轨迹略
论, 东南传播); Từ Úy với bài viết Ba vấn đề của thơ khuê oán đời Đường (1996); (徐
蔚, 唐代闺怨诗三题, 福建师范大福清分校学报); Từ Úy, Thơ khuê ốn tình ý rung
động lịng người(2003)(徐蔚, 情意动人的闺怨诗语文世界, 高中版); Lƣu Khiết bàn
đến khuê oán thi trong bài Vẻ đẹp u oán của cung oán thi và khuê oán thi thời Đường


13

(刘洁 (2001), 唐代宫怨诗和闺怨诗的幽怨美, 西南师范大学报第 38 卷)... Các bài
viết này đều khẳng định thơ kh ốn (闺怨诗) đã có từ thời đại Kinh thi, thịnh hành
trong thời Nam Bắc triều với những thành tựu sáng tác của văn nhân và đặc biệt hƣng
thịnh ở thời Đƣờng. Tuy nhiên, vì số lƣợng dẫn chứng thơ khơng nhiều (chủ yếu là về
hình tƣợng ngƣời chinh phụ) nên chúng tôi chƣa xác định đƣợc hết các đối tƣợng mà
các tác giả đƣa vào phạm vi miêu tả của thơ khuê oán. Đến cuốn Luận về các loại đề
tài trong thơ Đường (2005)(刘洁, 唐诗中题材类论, 北京民族出版社)tác giả Lƣu
Khiết đã chỉ rõ đối tƣợng miêu tả của thơ khuê oán là: chinh nhân phụ (征人妇)(vợ của
những ngƣời lính đi chinh chiến xa), thƣơng nhân phụ (商人妇)(vợ của ngƣời buôn
bán), hoạn phụ (宦妇)(vợ của ngƣời làm quan), du tử phụ (遊子妇)(vợ của ngƣời đi
chơi xa, du ngoạn đó đây) và khí phụ (弃妇)(ngƣời vợ bị ruồng bỏ). Cuốn Văn học sử
Trung Quốc do Viên Hành Bái chủ biên (2006) (袁行霈, 中国文学史)cũng nhiều lần

nhắc đến khuê oán song song cùng các mảng đề tài khác nhƣ tống biệt, biên tái, sơn
thủy điền viên…Các tác giả cũng khẳng định mảng thơ này khơng phải mới xuất hiện ở
thời Đƣờng, nó đã bắt đầu thịnh hành từ thời Ngụy Tấn Nam Bắc triều. Chẳng hạn nhƣ
khi xem xét thành tựu văn học của Tào Thực, đƣợc phân chia thành bốn loại đề tài,
trong đó có một loại là “kh ốn thi” [159.34]. Mã Duệ trong bài Vô ngã – Chi ngã,
Suy nghĩ về chủ nghĩa nữ tính trong hiện tượng nói hộ ở thơ trữ tình cổ điển Trung
Quốc (1999)(马睿, 无成之成 - 对中国古典抒情诗中代言体现象的女性主义思考 )
cũng nhắc đến một mảng thơ rất quan trọng là khuê oán thi. Tác giả Cổ Phi, Thẩm Văn
Phàm trong bài Lược bàn thơ khuê oán biên tái Đông Bắc thời Đường từ một số sáng
tác của Lý Bạch (2010)(鼓飞, 沈文凡 , 略论唐代东北边塞闺怨诗 -从李白的几首创

作谈起 ) lại cho rằng “có một phần tƣơng đối lớn thơ biên tái dụng ý miêu tả những
tâm tƣ tình cảm của ngƣời tƣ phụ nơi khuê phòng nhớ nhung ngƣời nơi biên thùy, căm
thù chiến tranh, phong cách thơ ai oán, uyển chuyển…”(Chẳng hạn nhƣ Bắc phong


14

hành, Đại tặng viễn của Lý Bạch) là “thơ khuê oán biên tái‖ nhƣ nhận định của tác giả
Nhậm Văn Ngun trong cuốn Giải thích văn hóa về thơ biên tái đời Đường [122.1].
Chúng tôi nhận thấy phần thơ gọi là khuê oán biên tái (边塞闺怨诗) này thƣờng chủ
yếu miêu tả rất thành cơng hình tƣợng ngƣời vợ chinh nhân, vì vậy một số ngƣời đã
xếp bộ phận thơ này vào mảng thơ kh ốn, có ngƣời lại xếp vào mảng thơ tư phụ
hoặc chinh phụ. Tác giả Trƣơng Văn Sinh trong bài viết Hình tượng người phụ nữ
trong thơ Đường (1992)(张文生 , 唐诗中的女性形象 , 錦州师院学报, 第 2 期)khi
bàn về hình tƣợng ngƣời vợ nhớ chồng (tƣ phụ) cũng xếp những bài thơ miêu tả hình
tƣợng nhân vật này vào mảng thơ kh ốn. Ngồi ra một số chun luận nghiên cứu
về đề tài trong thơ Đƣờng cũng đã lựa chọn nghiên cứu khuê oán thi nhƣ: Lý Hồng với
luận văn đề tài Nghiên cứu thơ khuê oán đời Đường (2002) (李红, 唐代闺怨诗研究,
暨南大学硕士学位论文), Lƣu Hồng Kỳ cũng với đề tài nghiên cứu là Nghiên cứu thơ

khuê oán đời Đường (2009(刘红旗, 唐代闺怨诗研究, 漳州师范学院,文学硕士学位
论文)… Từ đây có thể thấy kh ốn thi là mảng thơ chủ yếu miêu tả tâm tƣ tình cảm
của những ngƣời phụ nữ (ngƣời vợ) một mình nơi phịng vắng.
Ngồi tên gọi thơ kh ốn (闺怨诗) khá phổ biến, trong một số cơng trình
nghiên cứu khác nhiều học giả đã gọi tên những bài thơ miêu tả hình tƣợng nhân vật
khuê phụ này là thơ tư phụ, thơ khuê tình. Chẳng hạn nhƣ trong Trung Quốc lịch đại
danh thi phân loại đại điển tập 4, các tác giả Hồ Quang Chu, Chu Mãn Giang (chủ biên)
(胡光舟, 周滿江,中国历代名诗分类大典) (胡光舟, 周滿江,中国历代名诗分类大

典) đã xếp một số bài thơ miêu tả hình tƣợng nhân vật khuê phụ vào các mảng đề tài
nhỏ nhƣ: Kh tình (闺情); tƣ phụ (思妇); khí phụ (弃妇); phu phụ (夫妇)… Trong đó,
cách gọi tư phụ thi (思妇诗) đƣợc dùng nhiều hơn cả, ví dụ nhƣ: Tƣ Hải Địch (2010)
với luận văn thạc sỹ đề tài Bàn về hình tượng tư phụ trong thơ Đường (司海迪


15

(2010),“论唐诗中的思妇形象,硕士论文,曲阜师范大学). Theo tác giả luận văn thì
nội hàm khái niệm của tư phụ thi hẹp hơn khuê oán thi. Chủ thể của “thơ miêu tả hình
tƣợng ngƣời tƣ phụ” chỉ giới hạn trong những ngƣời phụ nữ đã có chồng, lý do để nhớ
là “ngƣời chồng đi xa”, đối tƣợng của nhớ chỉ là “chồng”. Tác giả cũng khẳng định, tư
phụ thi khơng phải là kh ốn thi. Bởi vì hình tƣợng phụ nữ trong kh ốn thi khơng
thể đều đƣợc gọi là tư phụ, vì những ngƣời phụ nữ thƣờng xuất hiện trong kh ốn thi
ngồi những tư phụ (những ngƣời vợ tƣơng tƣ, nhớ nhung chồng đi xa) cịn có những
thiếu nữ tuổi xn xanh, những ngƣời đẹp tuổi xế chiều bùi ngùi về tuổi tác… Chu
Trƣờng Chi trong bài nghiên cứu về Tư phụ thi của Lý Bạch (朱长芝, 李白的思妇诗
浅探) cũng dẫn chứng bằng những bài thơ miêu tả tâm trạng nhớ nhung chồng của
ngƣời phụ nữ (tư là chủ đạo). Tác giả Chu Đại Ngân khi bàn về hình tƣợng “châm”
(bàn đập áo) trong thơ cổ Trung Quốc (朱大银 ,―砧‖与中国古代捣衣诗及思妇诗
(2001) cũng đã khảo sát một mảng thơ mà tác giả gọi là tư phụ thi.

Có thể thấy, cách gọi tên thơ kh ốn, thơ kh tình hay thơ tư phụ thƣờng dựa
vào tâm trạng của nhân vật chính để phân loại, nhƣ “tƣ” trong thơ tƣ phụ hay “ốn” của
ngƣời phịng kh trong thơ kh ốn. Có thể tên gọi khác nhau nhƣng đối tƣợng miêu
tả trong thơ cơ bản giống nhau: cuộc sống (mà chủ yếu là cuộc sống tinh thần) của
ngƣời phụ nữ bị bỏ rơi chốn khuê phòng lạnh lẽo. Nhiều bài thơ đƣợc xếp vào thơ khuê
oán lại đƣợc dẫn chứng khi bàn về thơ tư phụ hay thơ khuê tình và ngƣợc lại. So sánh
cách tuyển thơ của hai tác giả Lƣu Khiết (Bàn về đề tài trong thơ Đường) và Hồ Giang
Chu; Chu Mãn Giang (Lịch đại danh thi phân loại đại điển, tập 4) sẽ thấy rõ điều này:
Đề tài

Kh tình

(Ngƣời

(Hồ Giang Chu; Chu Mãn

tuyển)

Giang)

Tư phụ

Kh ốn

(Hồ Giang Chu; Chu Mãn Giang)

(Lƣu Khiết)

Khuê oán, Vƣơng Xƣơng Linh


Tên bài

Khuê oán, Vƣơng Xƣơng Linh
Xuân oán, Kim Xƣơng Tự

Xuân oán, Kim Xƣơng Tự

Tử Dạ thu ca, Lý Bạch

Tử Dạ thu ca, Lý Bạch

La Cống khúc tam thủ, Lƣu Thái

La Cống khúc tam thủ, Lƣu


16

thơ, tác

Xuân

Thái Xuân

giả

Giang Nam khúc, Vu Cô

Giang Nam khúc, Vu Cơ


Ơ dạ đề, Lý Bạch

Ơ dạ đề, Lý Bạch

Tạp thi, Thẩm Thuyên Kỳ

Tạp thi, Thẩm Thuyên Kỳ

Khuê tình, Lý Bạch

Khuê tình, Lý Bạch

Khuê tình, Lý Đoan

Khuê tình, Lý Đoan
Giang Nam khúc , Lý Ích

Giang Nam khúc , Lý Ích

Cách gọi tên nhƣ vậy cũng chỉ là tƣơng đối, vì tâm sự của ngƣời nơi kh phịng
khơng chỉ có tư, khơng chỉ có ốn, trong nỗi nhớ nhung đã chất chứa bao nhiêu nỗi sầu,
đã đầy oán giận và trong mỗi lời oán than cũng gửi bao nỗi niềm thƣơng nhớ… Vì thế
chúng tơi tập hợp, xâu chuỗi những bài thơ miêu tả đời sống (chủ yếu là đời sống tình
cảm) của những ngƣời phụ nữ cơ đơn nơi phịng vắng vì cảnh ngộ vợ chồng ly biệt hay
bị phụ bạc bỏ rơi vào mảng thơ tên gọi hình tƣợng nhân vật chính: Thơ khuê phụ.
1.1.3. Về nội dung và nghệ thuật
Bàn đến nội dung và nghệ thuật của những bài thơ về hình tƣợng nhân vật khuê
phụ trong tƣ cách là một mảng đề tài riêng đầu tiên là Đƣờng Nhữ Tuần (đời Minh)
trong cuốn Đường thi giải đã nói ở trên. Theo tác giả thì đối tƣợng đƣợc miêu tả nhiều
nhất trong mảng thơ khuê oán đời Đƣờng là ngƣời chinh phụ (vợ của những ngƣời tòng

binh đi xa), theo đó Đƣờng Nhữ Tuần lấy dẫn chứng bình chú sơ lƣợc bằng các bài thơ
tiêu biểu nhƣ Khuê oán của Vƣơng Xƣơng Linh; Tử Dạ thu ca của Lý Bạch. Mặc dù
không bàn đến đặc trƣng nội dung và nghệ thuật của mảng thơ khuê oán và các đối
tƣợng cụ thể của mảng thơ (nhƣ về hình tƣợng ngƣời chinh phụ đã dẫn trong sách)
nhƣng các nhận định và chú giải của tác giả về các bài thơ tiêu biểu đã mang đến
những hình dung sơ bộ về diện mạo của mảng thơ này.
Tiếp đó, từ những năm đầu thế kỷ XX bắt đầu xuất hiện những bài viết liên
quan đến nhóm phụ nữ trong mảng thơ khuê phụ này khi các học giả nghiên cứu chung
về phụ nữ trong thơ Đƣờng. Chẳng hạn, Đỗ Trình Tƣờng với bài Người phụ nữ nhà
Đường trong thơ Đỗ, Nguyệt san phụ nữ, số 1 năm 1929. Lƣu Khai Dƣơng với các bài
viết cũng trên Nguyệt san phụ nữ nhƣ: Cuộc sống của người phụ nữ lao động đương
thời thể hiện trong thơ Đường, số 5 năm 1942; Cuộc sống hàng ngày của phụ nữ bình


17

dân đương thời thể hiện trong thơ Đường, số 2 năm 1942. Những bài viết này chủ yếu
vận dụng thơ từ của ngƣời đời Đƣờng để miêu tả tình hình cuộc sống của ngƣời phụ nữ
nhà Đƣờng trên các phƣơng diện khác nhau nhƣng chƣa đi sâu phân tích. [Dẫn 155.2].
Từ sau Ngũ Tứ, phƣơng pháp khoa học mới tràn vào Trung Quốc, giới nghiên
cứu dần dần thoát khỏi việc phê bình kiểu ấn tƣợng thời kỳ trƣớc, bắt tay vào chỉnh lý,
biên tập tài liệu một cách hệ thống. Từ đây, có nhiều luận văn khoa học và chuyên luận
nghiên cứu sâu, rộng hơn về thơ Đƣờng, cả dƣới góc tiếp cận liên ngành. Nhiều cơng
trình nghiên cứu có giá trị liên quan đến mảng thơ khuê phụ này phải kể đến là Đường
đại đích chiến tranh văn học của Hồ Vân Dực; Đường đại nữ thi nhân của Lục Tinh
Thanh; Đường đại thi trung sở kiến đương thời phụ nữ sinh hoạt của Lƣu Khai Vinh
[Dẫn 31.258]. Từ thập niên 80 của thế kỷ 20 trở lại đây, các cơng trình nghiên cứu về
đề tài trong thơ Đƣờng nói chung, về mảng thơ viết về hình tƣợng ngƣời khuê phụ nói
riêng rất phong phú, mới mẻ. Do đó, chúng tơi có thể tìm thấy những gợi ý quan trọng
để tìm hiểu về nội dung và nghệ thuật của mảng thơ kh phụ đời Đƣờng qua những

cơng trình nghiên cứu theo chuyên luận sau đây:
Một là, các bài viết tổng hợp về cuộc sống của ngƣời phụ nữ trong thơ Đƣờng,
trong đó cũng lƣợc bàn đến cuộc sống của những ngƣời phụ nữ chốn khuê phòng.
Chẳng hạn, tác giả Yến Tiểu Mai trong bài viết “Phụ nữ đời Đường được phản ánh
trong thơ Đường” (1998) (晏筱梅 (1998), 唐诗中所反应的唐代妇女 , 浙江学刊, 第 2
期), khi khảo cứu những bài thơ phản ánh cuộc sống của ngƣời phụ nữ trong thơ
Đƣờng đã phân loại các đối tƣợng gồm: phụ nữ chốn cung đình, vợ thƣơng nhân, vợ
chinh nhân, phụ nữ lao động, nữ đạo sĩ, kỹ nữ và những ngƣời phụ nữ bị chồng bỏ rơi.
Trong đó, tác giả chú ý đến nỗi đau khổ tinh thần của những ngƣời phụ nữ đơn độc nơi
kh phịng lạnh lẽo vì vắng xa chồng biền biệt nhƣ những ngƣời vợ thƣơng nhân:
“Tuyệt đại đa số vợ của những nhà buôn dƣới thời nhà Đƣờng đều chỉ làm bạn với cô
đơn, lạnh lẽo, u sầu”. Cịn những ngƣời vợ lính, “trƣớc kia cũng từng có cuộc sống vợ
chồng hạnh phúc tƣơng thân tƣơng ái, sau đó ngƣời chồng phải lính thú nơi xa, ngƣời
vợ chỉ còn đêm đêm bầu bạn với đèn tàn, trăng lạnh, tình cảnh vơ cùng thê lƣơng”
[161.4]. Tuy nhiên, bài viết này mới tổng hợp hình ảnh ngƣời phụ nữ dƣới thời nhà


18

Đƣờng thơng qua thơ Đƣờng từ góc nhìn vĩ mơ, còn những thiếu thốn, mất mát của của
họ trong cuộc sống riêng tƣ hay những nhu cầu khát vọng cá nhân của họ chƣa đƣợc
bàn đến một cách thấu đáo. Bài viết của tác giả Dƣơng Hiểu Mẫn : Bi ca về phụ nữ Vận mệnh của người phụ nữ nhà Đường dưới góc nhìn thơ Đường (2001) (杨晓敏
(2001),女性的悲歌-从唐诗看唐代妇女的命运,天水师范学院学报,第 6 期)cũng có
những nhận xét tƣơng tự: “Một phần lớn thơ ca trong kho tàng thơ Đƣờng miêu tả nỗi
niềm tƣơng tƣ của ngƣời phụ nữ, những tình cảm chân thành tha thiết đó khiến ta động
lịng trắc ẩn, nhƣ nỗi khổ cô quạnh tƣơng tƣ của những ngƣời vợ chinh nhân, ngƣời vợ
thƣơng nhân…”[126.2]. Trong bài viết tác giả cũng đề cập đến số phận của những
ngƣời phụ nữ bị bỏ rơi (khí phụ) nhƣ một dẫn chứng nữa về thân phận và địa vị thấp
hèn của ngƣời phụ nữ trong xã hội phong kiến. Luận văn thạc sỹ (2006) của Trần Bội
Chi lại Nghiên cứu về phụ nữ thời thịnh Đường qua thơ thời Thịnh Đường (陈佩枝, 盛


唐诗歌中的盛唐女性研究, 硕士论文,上海师范大学). Bên cạnh những đối tƣợng
khác nhƣ phụ nữ cung đình, kĩ nữ, mỹ nữ ngƣời Hồ, phụ nữ làm quan…, tác giả đã
dành sự quan tâm đặc biệt đến tư phụ (ngƣời vợ tƣơng tƣ). Trong đó tác giả bàn luận cụ
thể đến cuộc sống của các đối tƣợng: vợ chinh nhân, vợ thƣơng nhân, vợ du tử và nhấn
mạnh tâm tƣ đầy buồn thƣơng trong đời sống tinh thần của họ.
Có một số chuyên luận nghiên cứu đã trực tiếp bàn về các vấn đề liên quan đến
nội dung, nghệ thuật của thơ khuê phụ dƣới tên gọi khá phổ biến là thơ khuê oán, nhƣ
Từ Úy với bài Ba vấn đề của thơ khuê oán đời Đường (徐蔚 (1996), 唐代闺怨诗三题,
福建师范大福清分校学报). Trong bài viết này tác giả nhận định rõ đối tƣợng miêu tả
của thơ khuê oán: “Thơ khuê oán thời Đƣờng phần nhiều nói về nỗi khổ đau của ngƣời
phụ nữ có chồng tịng qn hoặc làm phu dịch nơi biên ải. Ngồi ra cịn có một số
lƣợng lớn tác phẩm nói về ngƣời vợ, ngƣời thiếp của những du tử và thƣơng nhân, nhƣ
bài Trường tương tư của Lý Bạch, Giang Nam khúc của Lý Ích… đều là các tác phẩm
viết về nỗi buồn ly biệt của ngƣời phụ nữ.” [148.1]. Tác giả cũng nêu ba vấn đề nổi bật
của thơ khuê oán là: 1. Nam tử tác khuê âm (nhà thơ nam giới viết thay lời ngƣời nơi


19

kh phịng), có gửi gắm tâm sự thời cuộc nhƣng chủ yếu vẫn là thơ về ngƣời phụ nữ;
2. Một bộ phận thơ nhỏ do phụ nữ sáng tác; 3. Hình tượng ―đảo y‖ (đập áo) là hình
tượng nổi bật nhất. Tuy vậy, phần lý giải còn hết sức sơ lƣợc, dẫn chứng ít, chƣa bàn
đến nét đặc trƣng của mảng thơ “thay lời” của nam giới (giả nữ âm) hay so sánh sự
khác biệt với bộ phận thơ “chân nữ âm” của nhà thơ nữ giới. Cũng tác giả Từ Úy trong
bài viết Thơ kh ốn tình ý rung động lòng người (徐蔚 (2003), 情意动人的闺怨
诗 语文世界, 高中版) đã khẳng định kh ốn thi là mảng thơ có đặc trƣng trữ tình là
“bi mỹ”, hàng nghìn năm nay đã làm lay động biết bao thế hệ ngƣời đọc chính bởi
mảng thơ đó đã miêu tả một cách sinh động và chân thực những tình cảm tinh tế kín
đáo sâu sắc về thế giới nội tâm đầy bi khổ ai oán của ngƣời phụ nữ… Mã Duệ trong bài

Vô ngã – Chi ngã, Suy nghĩ về chủ nghĩa nữ tính trong hiện tượng nói hộ của thơ trữ
tình cổ điển Trung Quốc (马睿(1999), 无成之成 - 对中国古典抒情诗中代言体现象
的女性主义思考,西南民族学院学报) lại cho rằng: “Khuê oán thi là một trong những
thể thơ quan trọng nhất trong thơ ca cổ điển Trung Quốc, chủ đề văn học và tƣ tƣởng
thẩm mỹ của những hình ảnh tƣ phụ chất đầy nỗi nhớ, mĩ nhân bƣớc sang tuổi xế
chiều,…đã tạo thành một mơ hình có tần suất lặp lại rất cao” [145.6]. Tác giả Lƣu
Hồng Kỳ trong bài viết Lược bàn về quỹ đạo phát triển của việc truyền bá khuê oán thi
đời Đường (1986)(刘红旗(1986), 唐代闺怨诗传播发展轨迹略论, 东南传播) đã dựa
trên nền tảng tiếp thu và học tập thành quả của ngƣời đi trƣớc trong nghiên cứu nghệ
thuật truyền bá để phân tích khái quát về hiện trạng lƣu truyền thơ kh ốn đời Đƣờng
từ góc độ sự phát triển của việc truyền bá tƣ tƣởng. Lƣu Hồng Kỳ trong luận văn thạc
sỹ đề tài Nghiên cứu thơ khuê oán đời Đường (2009)(刘红旗 (2009), 唐代闺怨诗研

究, 漳州师范学院,文学硕士学位论文) đã bàn về nội dung của thơ kh ốn với đặc
trưng hình tượng nữ tính: Tình u thủy chung, kiên trinh; Nỗi ốn hận của những tƣ
phụ một mình nơi phịng vắng; Vận mệnh bi thảm của phụ nữ tầng lớp lao động. Tác
giả cũng có một vài so sánh về sự khác biệt trong khuynh hƣớng thẩm mỹ của những


20

bài thơ do nam giới sáng tác với nữ giới nhƣng chƣa khai thác đến chủ thể trữ tình,
nhất là yếu tố nhập vai. Về nghệ thuật, tác giả luận văn cho rằng đặc trƣng trữ tình
uyển chuyển hàm súc, phong cách ngơn ngữ ngắn gọn điển hình là những thành tựu nổi
bật của thơ khuê oán đời Đƣờng. Lý Hồng trong Luận văn thạc sỹ cũng với đề tài
Nghiên cứu thơ khuê oán đời Đường (2002) (李红, 唐代闺怨诗研究, 暨南大学硕士
学位论文) lại tiếp cận nội dung và nghệ thuật thơ khuê oán ở một hƣớng khác. Một là,
tìm hiểu ba thủ pháp sáng tạo của thơ khuê oán đời Đƣờng: Đi sâu khai thác thế giới
nội tâm của ngƣời khuê phụ; Sáng tạo bối cảnh không gian, thời gian rộng lớn; Tả thực
lịch sử và chiến tranh. Hai là, khảo sát một số hình tƣợng đƣợc sử dụng nhiều trong thơ

khuê oán đời Đƣờng nhƣ: Địa danh biên tái, chinh y. Thực chất phạm vi văn bản khảo
sát của luận văn trên chủ yếu giới hạn ở một số bài thơ về hình tƣợng ngƣời vợ chinh
nhân, một trong các đối tƣợng miêu tả của thơ kh ốn. Do đó, những nhận định về
đặc trƣng nội dung và nghệ thuật của tác giả về thơ khuê oán mới chỉ đúng với một bộ
phận thơ (về ngƣời chinh phụ) chứ chƣa hẳn là khái quát về thơ khuê oán đời Đƣờng.
Tác giả Lƣu Khiết với bài viết Bàn về vẻ đẹp u oán của cung oán thi và khuê
oán thi đời Đường(2001) (刘洁, 唐代宫怨诗和闺怨诗的幽怨美, 西南师范大学报第
38 卷)và trong cuốn Luận về các loại đề tài trong thơ Đường (2005)(刘洁 , 唐诗中题
材类论, 北京民族出版社)đã trình bày khái quát về nguồn gốc thơ khuê oán, đặc trƣng
nội dung và nghệ thuật trữ tình của thơ khuê oán. Về nguồn gốc, tác giả xác định thơ
khuê oán có mặt trong Kinh thi, qua đời Hán, số lƣợng nhiều hơn trong sáng tác của
văn nhân thời Nam Bắc triều và đặc biệt hƣng thịnh ở thời Đƣờng. Tuy nhiên tác giả
cũng mới chỉ điểm diện các tác phẩm tiêu biểu qua các thời kỳ, chƣa có sự phân tích
đối sánh cụ thể để thấy rõ mạch phát triển liên tục của mảng thơ này từ Kinh thi đến
Đƣờng thi. Về nội dung, tác giả cho rằng nét “bi mỹ sầu thƣơng” là chủ đạo của mảng
thơ này đồng thời cũng chỉ ra nét tâm trạng đặc trƣng của mỗi đối tƣợng. Về nghệ thuật,
từ nhận định đặc trƣng trữ tình “bi mỹ” (cái đẹp bi thƣơng) tác giả đi đến phân tích các
thủ pháp nghệ thuật cơ bản nhƣ: tính hàm súc, lấy cảnh tả tình, ý tƣợng: liễu, trăng. Ở


21

cơng trình nghiên cứu này tác giả cũng nhận định phần nhiều thơ thuộc đề tài này là do
nam giới sáng tác vì có ngun nhân từ sự tƣơng đồng tình cảm nhƣng chƣa đi sâu lý
giải, chƣa có sự so sánh với các sáng tác của nhà thơ nữ cùng đề tài.
Ngồi ra cịn có một số cơng trình nghiên cứu lại đi sâu tìm hiểu một trong
những đối tƣợng của mảng thơ này nhƣ người vợ chinh nhân, người vợ thương nhân,
nhiều nhất là về ngƣời vợ chinh nhân. Điều này cũng dễ hiểu vì những bài thơ miêu tả
hình tƣợng chinh phụ chiếm số lƣợng nhiều nhất trong mảng thơ khuê phụ này. Có thể
kể đến tác giả Dƣơng Hiểu Mẫn với bài viết về Vận mệnh bi thảm của người phụ nữ

dưới thời nhà Đường thông qua thơ chiến tranh (杨晓敏 (2003), 从战争诗看唐代妇
女的悲惨命运 , 楚雄师范学院学报, 第 4 期).Ở đây, tác giả đã bàn khá kỹ đến
những nỗi khổ tinh thần, vật chất mà những ngƣời vợ có chồng đi lính phải gánh chịu,
nhƣ: nỗi khổ tƣơng tƣ, gánh nặng vật chất và cả nỗi đau mất ngƣời thân. Trong bài viết
Tìm hiểu thế giới tình cảm của chinh phụ đời Đường từ thơ biên tái đời Đường (刘洁
(2007), 从唐代边塞诗看唐代征妇的情感世界, 社科纵横, 第 6 期),tác giả Lƣu Khiết
từ khảo sát mảng thơ khuê oán biên tái đã bàn đến những gánh nặng cuộc sống mà
ngƣời phụ nữ thời nhà Đƣờng phải gánh chịu do chiến tranh đƣa lại, nhất là nỗi thống
khổ tinh thần vì phải chịu đựng lâu dài nỗi nhớ nhung sầu muộn. Đây là những nhận
xét khá chính xác về nội dung thơ miêu tả hình tƣợng ngƣời chinh phụ, một đối tƣợng
của mảng thơ khuê phụ mà chúng tôi cũng bàn đến trong luận án.
Bên cạnh đó, một số luận văn thạc sĩ, bài báo, chuyên luận nghiên cứu về tâm lý
học, xã hội học, lịch sử, văn hóa…, thơng qua góc nhìn của thơ Đƣờng cũng đã ít nhiều
trực tiếp bàn tới nội dung và nghệ thuật của mảng thơ khuê phụ nhƣ: Trong luận văn đề
tài Nghiên cứu cuộc sống của người chinh phụ dưới thời Nhà Đường qua thơ Đường
(赵欣 (2010),从唐诗看唐代征妇的生活, 河北师范大学硕士学位论文), tác giả
Triệu Hân đã phân tích những bài thơ miêu tả về cuộc sống của ngƣời vợ chinh nhân
với tƣ cách là một bộ phận của mảng thơ khuê oán đời Đƣờng. Trong đó tác giả nhấn
mạnh đến nỗi thống khổ trong đời sống tinh thần và thể xác mà chiến tranh ly biệt đã


22

mang đến cho họ. Tác giả lựa chọn nghiên cứu về cuộc sống của ngƣời chinh phụ vì
cho rằng đây là nhóm phụ nữ tƣơng đối đặc biệt dƣới thời nhà Đƣờng, cũng là đối
tƣợng đƣợc miêu tả nhiều nhất trong mảng thơ khuê oán đời Đƣờng. Đồng thời trong
luận văn này tác giả cũng có những nhận định xác đáng về thơ khuê oán nhƣ : “Trong
nhiều tác phẩm thơ ca phản ánh cuộc sống của ngƣời phụ nữ thì thơ kh ốn là thể
quan trọng trong thơ Đƣờng phản ánh cuộc sống của ngƣời phụ nữ lúc đó. Thơ kh
ốn chủ yếu lấy hình tƣợng ngƣời phụ nữ nhƣ Thƣơng nhân phụ, Du tử phụ, Chinh

nhân phụ… để làm đối tƣợng miêu tả, tất cả họ đều phải biệt ly lâu ngày với ngƣời
chồng, một mình giữ chốn phịng khơng, nén chịu nỗi khổ tƣơng tƣ. Họ bị xã hội bỏ rơi
ngồi cuộc sống gia đình bình thƣờng, nhƣng lại khơng có sức nắm bắt lấy vận mệnh
của chính mình, khơng thể thay đổi đƣợc hiện thực đó”. [155.1].
La Gia Tuệ trong bài viết Nghiên cứu ―Tình‖ và ―Tính‖ cùng những bệnh tâm
sinh lý của người phụ nữ qua thơ ca trước Đường và thời Đường (罗嘉慧 (2006) , 唐
前和唐代诗歌中的女性 “情” “性 狀況, 及心理生疾病探析”, 江西社会科学, 2006
年第 6 期), khi nghiên cứu tâm sinh lý của những ngƣời phụ nữ Trung Quốc thời cổ
đại qua những tác phẩm thơ ca cổ điển đã chú ý phân tích một số bài thơ miêu tả ngƣời
vợ bị ruồng bỏ từ Kinh thi đến thơ Đƣờng, đây là một nhóm phụ nữ cũng thuộc đối
tƣợng miêu tả của thơ khuê phụ đời Đƣờng (khí phụ). Luận văn thạc sỹ của Điền Miêu
Nghiên cứu những nét đặc trưng của phụ nữ thời Đường trong thơ Đường (田苗
(2005), 唐诗中女性特征物事研究, 西北大学-硕士学位论文) cũng có bàn đến động
tác soi gƣơng (lãm kính) của ngƣời phụ nữ từ những bài thơ kh phụ đời Đƣờng…
Những cơng trình nghiên cứu trên đây đã đề cập đến nhiều vấn đề của mảng thơ
viết về đề tài khuê phụ, những nhận định hoặc khái quát, hoặc riêng lẻ nhƣng cơ bản là
thống nhất. Chúng tôi tiếp tục phát triển, bổ sung, giải quyết những điểm trống khoa
học dựa trên những vấn đề đã đƣợc khơi mở, định hƣớng trong quá trình thực hiện đề
tài luận án này.
1.1.4. Về các nhà thơ tiêu biểu của thơ khuê phụ


23

Hình tƣợng nhân vật khuê phụ đã đi vào sáng tác của rất nhiều nhà thơ đời
Đƣờng, cũng làm nên nhiều tác phẩm có giá trị trong sự nghiệp thơ ca của những nhà
thơ ấy. Vì vậy, khi tìm hiểu về các nhà thơ tiêu biểu đời Đƣờng, các nhà nghiên cứu
khơng thể khơng nhận ra vị trí của những bài thơ thuộc mảng đề tài này trong số
những tác phẩm của họ.
Cố Lân trong cuốn Phê điểm Đường âm đã bình thơ Vƣơng Xƣơng Linh rằng:

“Tác giả viết về cung tình, kh ốn rất nhiều nhƣng chƣa có tác phẩm nào giống với
hai bài Thanh lâu khúc, Khuê oán. Nội dung sâu sắc, rõ ràng, dễ hiểu, rất thanh nhã,
bốn câu thơ thật là tuyệt phẩm” [Dẫn 146.3]. Đƣờng Nhữ Tuần trong Đường thi giải
cũng chọn bình bài Tử Dạ thu ca của Lý Bạch, tác giả viết rằng: “Đây là lời của ngƣời
chinh phụ chỉ trích nỗi khổ gây ra bởi chiến trận…khơng hận triều đình hiếu chiến,
nhƣng lời thơ nhắc đến việc chƣa dẹp đƣợc giặc Hồ, mang ý nghĩa mỉa mai sâu sắc.”
[Dẫn 146.4].
Các sách văn học sử Trung Quốc thƣờng không bàn đến thơ khuê phụ với tƣ
cách là một mảng thơ Đƣờng nhƣng lại nhìn thấy nó trong các mảng sáng tác của
những nhà thơ tiêu biểu, nhƣ: Chƣơng Bồi Hoàn, Lạc Ngọc Minh trong cuốn Trung
Quốc văn học sử khi nghiên cứu về nhà thơ Vƣơng Xƣơng Linh đã nhận định: “Có sở
trƣờng viết thi ca biên tái với tính cách hùng hồn nhƣng đồng thời ơng viết những bài
thơ có tình cảm day dứt, nhƣ loại thơ kh tình, cung ốn cũng rất xuất sắc” và dẫn
chứng bằng việc phân tích bài thơ Khuê oán [40.121]. Về nhà thơ Lý Bạch, các tác giả
không trực tiếp nhắc đến mảng đề tài này nhƣng khi nói về giá trị thơ Lý Bạch đã nhắc
đến một đại diện của mảng thơ khuê phụ là Tử Dạ thu ca: “Tƣ tƣởng và tình cảm tự do
giải phóng của Lý Bạch và cá tính có khuynh hƣớng bình dân của ơng cịn giúp ơng có
thể đi sâu khai thác tình cảm của đủ hạng ngƣời trong đời sống xã hội, trong đó có nỗi
khát vọng hƣớng về cuộc sống thanh bình nhƣ bài Tử Dạ thu ca” [40.180]. Các tác giả
Dƣ Quan Anh, Tiền Chung Thƣ, Phạm Ninh…trong cuốn Lịch sử văn học Trung
Quốc, tập 1 (1988) chỉ ra một số thi nhân có sáng tác thơ về hình tƣợng kh phụ nhƣ:
Lƣu Hy Di: “Ơng sở trƣờng về ca hành trƣờng thiên, đặc biệt là thơ kh tình ai ốn”
[4. 428] (Tiếc là các tác giả không lấy dẫn chứng một bài thơ cụ thể nào). Vƣơng Bột:
Nói đến những tác phẩm thành cơng của Vƣơng Bột, tác giả lấy dẫn chứng: “Thơ ông


24

nhƣ bài Thái liên khúc (khúc hát hái sen) kế thừa dân ca nhạc phủ nhƣng ý thơ đƣợc
mở rộng, từ chỗ hái sen mà nghĩ đến “chinh phu ngoài ải chƣa về”. Có thể thấy lúc

bấy giờ nhiều ngƣời bị bọn thống trị dồn ra biên tái, chinh phụ nhớ chinh phu, dù bận
hái sen cũng không quên đƣợc. Điều này rất khác với những bài ca hái sen thời Tề,
Lƣơng chỉ tả cảnh hoan lạc” [4.434]. Vƣơng Duy: Khi bàn về nghệ thuật thơ Vƣơng
Duy, các tác giả đã dẫn chứng bằng bài thơ về hình tƣợng khuê phụ (Tảo xuân hành):
“Nhà thơ dùng một số tình tiết, cử chỉ truyền thần để tả một khuê phụ chốn kh
phịng ngày xn vẻ ngồi e ấp mà trong lịng quạnh hiu trống trải, thật là tế nhị sâu
sắc.” [4.457]. Vƣơng Xƣơng Linh: “Có một số thơ tả cuộc đời phụ nữ cũng rất tế nhị,
sinh động. Dƣới ngòi bút của ông, thiếu nữ hoặc thiếu phụ dịu dàng, hoặc trong trắng
ngây thơ, nhƣ các bài Thái liên khúc, Cán sa khê, Khuê oán.‖ [4.471]. Lý Bạch:
“Trong hai bài Thiếp bạc mệnh và Bạch đầu ngâm, Lý Bạch đã mƣợn chuyện giữa
Hán Vũ Đế với Trần A Kiều, Tƣ Mã Tƣơng Nhƣ với Trác Văn Quân mà đả kích hành
động bất nghĩa có mới nới cũ của nam giới, nói lên nỗi khổ đau của ngƣời đàn bà khi
bị ruồng bỏ và lịng mong ƣớc một tình u thủy chung nhƣ nhất của họ…Ơng cịn
viết rất nhiều bài thơ buồn thƣơng triền miên phản ánh lòng kiên trinh của ngƣời phụ
nữ và nỗi đau khổ của sự biệt ly đƣa đến cho họ. Nhƣ Xuân tứ, Ô dạ đề, Giang Hạ
hành, Trường Can hành…” [4.500], hay “nhƣ Bắc phong hành, Viễn biệt ly mới có thể
làm nổi bật mối hận sâu sắc tử biệt sinh ly của ngƣời phụ nữ nhớ chồng” [4.505].
Trƣơng Tịch: Trong khi bàn về nội dung tƣ tƣởng trong thơ Trƣơng Tịch các tác giả
đã dẫn chứng ra bằng bài thơ khuê phụ rất nổi tiếng của ơng Chinh phụ ốn: “Bài thơ
chỉ trích bọn tƣớng sối bất tài, để đến nỗi tồn qn bị tiêu diệt, câu cuối lấy “ngọn
nến ban ngày” mà so sánh, nêu lên một cách hình tƣợng vận mệnh bi thảm của ngƣời
phụ nữ “nƣơng tựa vào chồng con” trong xã hội phong kiến” [4.574]. Vƣơng Kiến:
Bàn về nghệ thuật thơ của Vƣơng Kiến, các tác giả cho rằng: “Một nét đặc sắc khác
của Vƣơng Kiến là ông khéo dùng ngôn ngữ thơng tục, khẩu ngữ hóa để tả cuộc sống
của nhân dân, nhƣ bài “Đá trơng chồng” nổi tiếng. Ơng mƣợn câu chuyện ngƣời đàn
bà chờ chồng hóa đá trong truyền thuyết cổ đại, vẽ nên một hình tƣợng ngƣời phụ nữ
kiên định quật cƣờng, nhƣ núi đá không sợ gió mƣa vùi dập, đợi chờ một ngày nào đó
sẽ đƣợc gặp ngƣời chinh phu mà thổ lộ hết nỗi niềm lúc xa nhau. Thủ pháp rất giản dị,



25

tinh tế” [4.577]. Bạch Cƣ Dị: Nhận định về giá trị nội dung tƣ tƣởng trong thơ Bạch
Cƣ Dị, các tác giả khẳng định: “Lên tiếng bất bình thay cho phụ nữ có bài Mẫu biệt tử
(Mẹ lìa con), khái quát bao nhiêu tấn bi kịch của bao nhiêu phụ nữ xƣa kia bị áp bức
bị giày vò và rồi bị bỏ rơi. Bạch Cƣ Dị là ngƣời đầu tiên lớn tiếng nêu lên những vấn
đề về phụ nữ, chứng tỏ ơng là tác giả kiệt xuất có tinh thần nhân đạo” [4.588].
Tác giả Trƣơng Văn Sinh trong bài viết Hình tượng người phụ nữ trong thơ
Đường (张文生 , 唐诗中的女性形象 , 錦州师院学报, 第 2 期, 1992) khi bàn về
hình tƣợng ngƣời vợ tƣơng tƣ (tƣ phụ) đã nhận xét: “Những bài thơ khuê oán tiêu biểu
nhất ở thời nhà Đƣờng phải kể đến là những áng thơ của Lý Bạch. Ông đã khắc họa vô
cùng tinh tế, tỉ mỉ tâm lý của ngƣời vợ nhớ mong chồng” [156.2]. Chu Trƣờng Chi
nghiên cứu Tư phụ thi của Lý Bạch (朱长芝, 李白的思妇诗浅探 , 中国李白网,
1988)cũng khẳng định đây là một bộ phận thơ khá tiêu biểu của Lý Bạch, trong đó có
nhiều bài thơ không chỉ là thành tựu xuất sắc của Lý Bạch mà cũng có thể xem nhƣ
những đại diện tiêu biểu của thơ ca Thịnh Đƣờng, nhƣ Bắc Phong hành, Xuân tứ, Xuân
oán, Tử Dạ thu ca... Đối tƣợng miêu tả của mảng thơ này nhiều nhất phải kể đến chinh
phụ, ngồi ra cịn có thƣơng nhân phụ, du tử phụ. Trong luận văn Bàn về hình tượng tư
phụ trong thơ Đường (司海迪 (2010),论唐诗中的思妇形象,硕士论文,曲阜师范
大学), tác giả Tƣ Hải Địch nhận định: Thời Sơ Đƣờng có đại diện là Trƣơng Nhƣợc
Hƣ với bài Xuân giang hoa nguyệt dạ, nghệ thuật còn ảnh hƣởng khá đậm phong cách
kỳ diễm thời Nam Bắc triều nhƣng nội dung đã chứa đựng hơi thở Đƣờng thi. Thời
Thịnh Đƣờng tiêu biểu nhất là Lý Bạch với những bài thơ mới mẻ, sáng tạo đầy những
khát vọng bay bổng, lạng mạn. Thời kỳ Trung Đƣờng với nhà thơ Bạch Cƣ Dị, thơ tƣ
phụ thƣờng đề cập đến địa vị chính trị của ngƣời phụ nữ và thƣờng có ngụ ý chính trị
sâu sắc. Thời Vãn Đƣờng với nhà thơ Đỗ Mục, thi ca là cảm khái thời thế và gửi gắm
những quan tâm về hiện thực xã hội. Mã Hiện Thành trong bài Hào đoan truyền thần
tận ý thái (马现诚 , 毫端传神尽意态, 广西民族学院学报, 第四期, 1993) cũng khẳng
định bài thơ Khuê oán của Vƣơng Xƣơng Linh, với cách miêu tả diễn biến tâm lý nhân



×