Tải bản đầy đủ (.docx) (0 trang)

Đông nam á học đại cương: Quá trình xâm lược cai trị khai thác và ảnh hưởng của thực dân phương Tây

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (0 B, 0 trang )

Quá trình xâm lược cai trị khai thác và ảnh hưởng của thực dân phương Tây
*Quá trình xâm lược:
Sau các cuộc phát kiến địa lý các nước phương tây lần lượt xây dựng các thương
điếm buôn bán hay các trạm tiếp tế cho các hạm thuyền ở một số địa điểm ở
ĐNA. Tiếp đó họ tranh chấp nhau , chiếm các quốc gia ở trong khu vực,
thiết lập chế độ thuộc địa, lôi kéo cá quốc gia này vào chế độ kinh tế tư bản ,
làm biến dạng cấu trúc truyền thống của các nước, làm biến dạng quá trình
lịch sử của ĐNÁ. Nước duy nhất ở ĐNA- nước Xiêm giữ được chế độ chính
trị nhưng kinh tế cũng bị cuốn vào hệ thống kinh tế tư bản. Bản đồ chính trị
ở Đna có sự thay đổi: từ các quốc gia phong kiến độc lập trở thành các nước
thuốn địa hoặc phụ thuộc của thực dân châu Âu.
Thế kỉ XVI ở châu Âu diễn ra cuộc cách mạng tư sản: đầu tiên là ở Hà Lan, chuyển
từ phương thức sản xuất phong kiến sang tư bản, nó đã tạo ra một lượng
hàng hóa lớn hơn, tuy nhiên nó cũng địi hỏi cần nhiều nhân công, nguyên
vật liệu và thị trường tiêu thụ. Do đó các nước phương Tây bắt đầu tìm đến
các nước ở Châu Á(mà điển hình là Đơng Nam Á), châu Phi và đi đầu là
thương nhân. Từ những hoạt động buôn bán , trao đổi, truyền đạo ( thiên
chúa giáo và tin lành) người phương tây chuyển sang chính sách xâm lược.
biến các nước phương đơng nói chung và các nước Đna nói riêng thành
thuộc địa.Ban đầu họ giao cho các công ty thương mại lớn( công ty Ấn Độ).
Các cơng ty này thực hiện chính sách “ vừa bn bán vừa ăn cướp”, nó đc
xem là một “ nhà nước con” với bộ máy chính quyền và quân đội đầy đủ.
Bồ đào nha là cường quốc châu âu tiên có mặt ở châu phi, Ấn độ và ĐnÁ và tiến
hành xây dựng đế quốc thuộc địa của mình.


Nhận thấy eo biển Malacca (Indonexia) có vị trí quan trọng thông thương từ Tây
sang Đông, thuận lợi cho việc đi sâu vào khu vực ĐNA, rất có ý nghĩa về
mặt hàng hải. Do vậy năm 1511, BĐN đã nổ súng chiếm đóng Malacca.
Malacca từng bước trở nên thịnh vượng, việc buôn bán được tiếp tục mở
rộng và thu được những khoản lợi nhuận lớn, nơi đây không chỉ là trung tâm


thương nghiệp sầm uất mà còn là căn cứ cửa ngõ đi vào ĐnÁ thuận lợi. Năm
1512, BĐN tiến tới chiếm đóng đảo Ambon. 1592 họ chiếm và xây dựng
pháo đài ở Tecnate, và họ có mặt ở đảo Luxơng, Palavan… Ở những nơi họ
chưa chiếm được thì họ đặt các thương điếm để bn bán, lưu thơng hàng
hóa như Giava, Sumatra, Xiêm, Miến điện thậm chí là CPC và Việt Nam.
Ngồi BĐN cịn có TBN, Hà Lan, Anh, Pháp, Mỹ, Nhật…đều tiến hành các cuộc
xâm lược. Ban đầu ở TK 16 BĐN, TBN có nền hàng hải phát triển, sau đó là
Hà lan. ở TK19 người Anh rất mạnh về hàng hải.
Khi thấy BĐN chiếm đc Indo, người Hà Lan cũng rất quan tâm đến khu vực này
nên 1595 Hà Lan thành lập công ty buôn bán để đưa người sang Indo giao
thương hàng hóa. Ban đầu giữa BĐN và Hà Lan xảy ra các cuộc xung đột vũ
trang, nhưng với lực lượng quân sự mạnh, HL đã đánh bật BĐN ra khỏi
Indo. Hà lan lập nên công ty thương mại Đơng Ấn, cơng ty này được chính
phủ cho phép đặc quyền tự do trao đổi buôn bán với bên ngồi, ngồi nhưng
thuyền bn họ cịn có chiến thuyền và quân đội với đầy đủ súng ống đạn
dược, họ được phép nổ súng bất cứ lúc nào khi cần thiết. Cuối thế kỷ 18 HL
xâm chiếm trọn vẹn các vùng ở Indo. Tuy nhiên sau đó người Anh với sức
mạnh quân sự đã thực hiện 4 cuộc chiến tranh với Hà Lan nhằm chiếm Indo
và đã giành chiến thắng. Đầu TK19 người A hầu như đã chiếm đc hết những
vùng quan trọng ở Indo.


Khi Anh và Pháp nổ ra chiến tranh, vì muốn có đồng minh ở châu Âu do đó A đã kí
một hiệp ước trao trả tồn bộ Indo lại cho Hà Lan, trừ Malacca. Cuối Tk19
HL hồn thành cơng cuộc thuộc địa hóa Indo.
Đi sau BĐN là TBN, năm 1492-1522, nhà thám hiểm Magienlăng
(Magellan) đã thám hiểm ra vùng biển PLP. Năm 1521 khi đặt chân lên PLP
thì đồn người của Magienlang đã gặp phải sự chống trả quyết liệt của thổ
dân và ông đã bỏ mạng tại nơi đây. 1522 đoàn thám hiểm trở về TBN tuy
nhiên họ đã xác định sẽ tấn cơng PLP, đến năm 1565 thì TBN căn bản đã

chinh phục xong hòn đảo này.
Năm 1898 sau khi chiến tranh Mỹ - TBN nổ ra ở tây bán cầu, TBN đã thất bại và
phải nhượng lại PLP cho Mỹ. PLP chính thức trở thành thuộc địa của Mỹ.
Năm 1795 khi Anh và HL kí hiệp ước đồng minh với nhau, Anh trả lại Indo
cho HL nhưng giữ lại đảo Malacca, trước đó năm 1786 thơng qua đàm phán
người A đã mua lại được hòn đảo Pemay thuộc vương quốc hồi giáo của
Malaysia. Anh tiếp tục đàm phán mua lại vùng đất đối điện với đảo Pemay,
thuộc Malaysia là Welesky. Năm 1819 Stamford Raffle, 1 viên chức quân
đội đã đến Malay, đặt chân tới vùng đất Singapore hiện nay. Lúc này nơi đây
vẫn còn là hoang đảo, cư dân thưa thớt và nới cướp biển cư ngụ. Nhìn thấy
được vị trí chiến lược của hịn đảo, ơng đã thuyết phúc chính phủ Anh chiếm
hịn đảo này. Nhưng do đảo chịu ảnh hưởng của HL, A đã đàm phán với HL.
Năm 1824 A được toàn quyền sử dụng hòn đảo. Họ đưa những kiến trúc sư
tới thiết kế Singapore thành một thương cảng thay thế cho Malacca. Với
chính sách miến thuế tàu bè qua lại cảng biển này, người A đã kiểm sốt đc
tồn bộ hàng hóa khi đi qua eo biển Malacca.


Singapore được quy hoạch đồng bộ ngay từ ban đầu do đó nơi đây hệ thống cơ sở
vckt, csht rất phát triển, người A cịn thực hiện chính sách di cư tới đây,
trong đó có cả người A, người Hoa. Do đó Singapore phát triển rất thịnh
vượng.
Sau khi có được 4 vùng lãnh thổ (đảo Malacca, Pemay, Welesky, Singapore) người
A bắt đầu thiết lập chính sách cai trị của mình, năm 1867 họ xác lập 4 hòn
đảo này làm một.
Năm 1874-1876 người A thơn tính các quốc gia Hồi giáo ở Malay, năm 1914 bắt
đầu thơn tính Brunei.
Ở Myanma để chiếm được nơi đây, người A phải thực hiên 3 cuộc giao tranh: Năm
1824- 1826: người A giao chiến với Myanma, Myanma thua trận và phải ký
hiệp ước nhượng 1 vùng đất cộng thêm 1 triệu bạc chiến phí. Tuy nhiên họ

vẫn chưa chiếm đc Myanma.Năm 1852-1853: Anh chiếm được thủ đơ
Rangoon. Năm 1885: diễn ra trong vịng 2 tuần, người Myanma bại trận
hồn tồn, Anh thơn tính Myanma. Năm 1886: Anh sát nhập Myanma vào
lãnh thổ của Ấn Độ. Myanma chính thức bị xóa tên khỏi bản đồ thế giới, trở
thành một tỉnh của Ấn Độ.
Ở bán đảo Đông Dương, sau những cuộc chinh thám từ thế kỷ trước, đến
giữa thế kỷ XIX, khi thời cơ đã chín muồi, thực dân Pháp xâm lược bán đảo
này, bắt đầu là ở Việt Nam (trước khi Pháp xâm chiếm Vn, thì các nước
TBN, Hà Lan, Anh cũng đã tới đây, nhưng gặp sự chống trả quyết liệt của
triều đình và nhân dân nên đã ko thực hiện đc ý định). 30/8/1858 Liên quân
Pháp sau khi chiếm đc TQ đã kéo quân xuống vùng biển miền Nam VN.
1/9/1858 Người Pháp đặt chân lên bán đảo Sơn Trà – Đà Nẵng, nhưng không
chiếm đóng thành cơng, họ chuyển xuống vùng biển miền Nam Vn, chiếm


Gia Định. Năm 1859 Người Pháp chiếm Sài Gòn, Gia Định. 1862 Triều đình
Nguyễn cắt 6 tỉnh Nam kỳ cho Pháp. 1867 người Pháp chiếm hoàn toàn
Nam kỳ và tiến quân ra Hà Nội. 1884 Pháp cơ bản chiếm xong VN.
Ở CPC năm 1863 chính phủ Pháp ép CPC quyền bảo hộ.
Ở Lào: năm 1893 với việc Pháp kí hiệp ước với người Xiêm (Siam). Xiêm nhượng
quyền bảo hộ Lào cho Pháp, chính thức Lào trở thành thuộc địa của Pháp
năm 1899. Kết thúc 35 năm tiến hành xâm lược Đơng Dương. Từ đây Pháp
bắt đầu chính sách cai trị bóc lột của mình.
Xiêm (1939 đổi thành Thái Lan) do vị trí “nước đệm” giữa hai vùng thuộc
địa của A và Pháp, cùng với sự duy tân đất nước của các triều đại Rama IV,
Rama V vào cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX (Xiêm thuê các chuyên gia
phương Tây làm cố vấn trong vấn đề cải cách), nên giữ được độc lập chính
trị mặc dù vẫn phải kí kết với Anh, Pháp và các nước Âu – Mỹ khác nhiều
hiệp ước bất bình đẳng.
Nhìn chung, thời điểm các nước ĐnÁ trở thành thuộc địa của thực dân

phương Tây là khác nhau, quá trình chinh phục và xâm lược của thực dân
phương Tây trải qua một thời gia khá dài, do sự kháng cự của các dân tộc
nơi đây dưới sự lãnh đạo của các nhà nước phong kiến, tuy nhiên với sức
mạnh quân sự vượt trội người phương Tây đã giành lợi thế, mặc dù vậy có
nhưng nơi thực dân phải trải qua trên dưới 3 thế kỷ mới hồn thành như
Indonexia hay Miến Điện…song có những khu vực chưa đầy nửa thế kỷ như
cuộc chinh phục của Pháp ở Đơng Dương.
ĐnÁ là nơi có nhiều thực dân xâm lược nhất, bởi đây là khu vực hấp dẫn, tài
nguyên thiên nhiên phong phú, vị trí địa lý thuận lợi, khu vực địa – chính trị,
địa – kinh tế quan trọng, dân số đông đảo…


*Khai thác thuộc địa:
Mặc dù hình thức thống trị của chủ nghĩa thực dân ở thuộc địa khơng giống
nhau, tính chất thuộc địa ở mỗi nước có nét khác nhau , nhưng điểm chung
của các nước đế quốc trong nhìn nhận thuộc địa là hậu phương, là nơi bóc
lột đưa về cho họ những nguồn lợi nhuận to lớn. Chính vì vậy ngày sau khi
chiếm và biến ĐnÁ thành thuộc địa, thực dân p.Tây đã tiến hành nhưng
chính sách bóc lột dã man các dân tộc trong khu vực. Trước hết là biến thuộc
địa là nơi tiêu thụ hàng hóa, thành nơi sản xuất nguyên liệu, và là nơi đầu tư
căn cứ chiến lược của họ.
Về kinh tế : đặc điểm chung của chính sách kinh tế thuộc địa ở ĐnÁ là khai
thác, vơ vét và bòn rút các quốc gia trong khu vực bằng chính sách thuế
khóa vơ nhân đạo đánh vào các tầng lớp nhân dân bản địa, cướp ruộng đất
làm đồn điền, bóc lột sức người, khai thác tài ngun(khống sản như dầu
khí,than đá, kim loại q, thiếc,quặng…); khai thác triệt để sản phẩm nông
nghiệp(lúa gạo, bông, đay, hồ tiêu, thuốc lá, rượu...) đầu tư để bóc lột lâu dài
trong cơng nghiệp; xuất khẩu những hàng hóa công nghiệp ế thừa vào khu
vưc để nhận lợi nhuân cao; nhập vào chính quốc những nguyên liệu, nhiên
liệu với giá rẻ mạt; tiến hành đầu tư tư bản mang lại siêu lợi nhuận(lập ngân

hàng cho vay nặng lãi)…
Chiếm đoạt ruộng đất lập đồn điền trồng cao su, cà phê, chè, gạo…là chính sách
chung của thực dân châu Âu: ở Việt Nam, năm 1900 TD Pháp chiếm đoạt
301.000ha, tới năm 1912 số ruộng đất bị chiếm lên tới 470.000ha.. Ở Lào từ
1923-1924 TD Pháp chiếm nhiều ruộng đất để làm đồn điền ở Hạ lào
(Păcxoong, Pơlơven…). Chính quyền thực dân HL ở Indo thì đề ra chính


sách ruộng đất nhằm nâng cao sức sản suất, mở rộng thị trường khai thác
nguyên liệu phục vụ cho TD.
Ngoài ra thuộc địa của Pháp ở ĐD cịn phải đóng hàng loạt các loại thuế: thuế đất,
muối, rượu.. đặc biệt là thuế thân (con trai từ 18t đến 60t). Bên cạnh thuế
khóa nặng nề người dân cịn phải chịu thêm chế độ “phu phen, tạp dịch” hà
khắc.
Về chính trị: tuy thế chế các nước có khác nhau nhưng nét chung đều có cơ cấu
chình quyền thực dân, do chính phủ ở chính quốc khống chế. Các mặt hành
chính, tư pháp, lập pháp, ngoại giao đều tập trung vào tay viên thơng đốc,
tổng đốc, hoặc viên chức cao cấp do chính quốc gửi sang.
Hình thức cai trị chủ yếu là trực tiếp hoặc gián tiếp. Cai trị gián tiếp là chúng dùng
người của mình sang các nước thuộc địa với nhưng tên gọi khác nhau như
“công sư, cố vấn..”
Anh : chế độ cai trị trực tiếp gồm 4 hòn đảo (Penang, Malacca Welesky,
Singapore). Người dân đc hưởng quyền lợi như công dân A, trực thuộc Anh
và có 1 thống đốc quản lý. Chế độ cai trị gián tiếp : các quốc gia Hồi giáo
quần đảo Mã Lai và 1 số vùng khác.
Ở các khu vực khác ở ĐnÁ, thực dân áp dụng chế độ cai trị trực tiếp với hệ thống
các quan chức thực dân được sắp xếp từ trung ương tới tỉnh theo sơ đồ:
“trung ương – vùng – tỉnh”. Đứng đầu thuộc địa là các viên toàn quyền sau
là thống đốc, tiếp đó là quan cai trị hàng tỉnh. Chính quyền thực dân duy trì
ở thuộc địa chính quyền phong kiến bù nhìn, sử dụng chình quyền thực dân,

địa chủ, thân hào địa phương làm chỗ dựa.


Tháng 10/1887 TD Pháp chia VN thành 3 kỳ( bắc kỳ là sứ bảo hộ, trung kỳ là sứ tự
trị, nam kỳ là xứ thuộc địa) chúng thi hành chính sách chia để trị, dễ bề cai
trị.
CPC, Pháp nắm toàn bộ quyền chính trị, chính quyền Nơrơdơm ko cịn thực quyền
và trở thành bộ máy phong kiến phục vụ cai trị và bóc lột cho thực dân Pháp.
Khi chiếm đc Lào 1893, Pháp xây dựng bộ máy cai trị đồng bộ với VN, CPC, biến
Lào thành một phận của xứ ĐD thuộc Pháp.
Hà Lan: cai trị gián tiếp: phái tổng đốc đến cai trị và duy trì chế độ lãnh chúa
phong kiến ở địa phương để thuận lợi cai trị, bóc lột.
Miến Điện đc coi là 1 tỉnh của ÂĐ với bộ máy cai trị, thống nhất là viên toàn
quyền, nhưng các tiểu quốc San, Keran lại vẫn đc hưởng chế độ gián tiếp.
Bên cạnh việc xây dựng và củng cố bộ máy thống trị ở thuộc địa ở ĐnÁ, TD châu
Âu đều thực hiện chính sách chia để trị, chia rẽ dân tộc tôn giáo, gây thù hằn
giữa các dịng họ, địa phương tập qn, truyền thống có từ lâu đời trong lịch
sử.
Chính quyền TD kết hợp hài hịa giữa “hợp để trị” với “ chia để trị” trong cai trị ở
thuộc địa. chính sách của pháp từ chỗ lập “liên bang ĐD” sang “ khối liên
hiệp Pháp”. Nước A thì tiến hành “cải cách hành chính”ở thuộc địa. những
điều chỉnh chính sách cai trị đều là những “nhượng bộ” trước phong trào đấu
tranh ở ĐnÁ.
Về Văn hóa: chính sách “ngu dân” và đầu độc người dân thuộc địa bằng
rượu và thuốc phiện. thực hiện ngu dân để dễ bề cai trị (ở Mã Lai, 1931 có
8,5% dân biết chữ. ở Vn, 1926 6% trẻ em đến tuổi đi học đc đến trường. ở
Cpc,năm 1936 cứ 300 dân thì 5 người đc đi học).


Ở Inđơ, thực dân HL thực hiện “chính sách đạo đức” 1 phần ngân sách đc cấp cho

giáo dục, năm 1940 trong tổng số 600 triệu dân thì 88000 người đc đến
trường.
Song song với chính sách ngu dân là đầu độc văn hóa, duy trì tư tưởng lạc hậu, bảo
thủ, tín ngưỡng tơn giáo mê tín nhằm ru ngủ người dân thuộc địa. Hơn thế
,chính quyền thực dân cịn đầu độc người dân bằng rượu và thuốc phiện. để
nắm độc quyền về phân phối những mặt hàng này, chúng bắt người dân tiêu
thụ một số lượng lớn rượu trắng và thuốc phiện. Những bằng chứng trên đã
chứng minh và chống lại những luận điểm mà thực dân rêu rao là “khai hóa
văn minh”, “chính sách đạo đức”.
*Ảnh hưởng tích cực:
- chính trị: chuyển từ chế độ quân chủ chuyên chế trung ương tập quyền sang các
chế độ khác, như quân chủ lập hiến( malay, cpc, brunei..) hay chế độ dân
chủ. Phân chia giai cấp: xuất hiện thêm 2 tầng lớp mới là cơng nhân và tư
sản (xuất hiện các chính đảng)
-kinh tế: góp phần thúc đẩy q trình chuyển đổi phương thức sản xuất từ PK sang
Tư bản (tác phong làm việc, cơ cấu kinh tế thuộc địa có thêm công ngiệp,
đưa công nghiệp vào sx Nông nghiệp: nhà máy xay xát. Thay đổi cơ cấu cây
trồng : ngoài lúa có thêm cây cà phê, hồ tiêu, cao su.. thúc đẩy sản xuất lúa
gạo.
- cơ sở hạ tầng: hế thống cầu cống, đường xá, nhà máy , xí nghiệp (mặc dù trước
hết phục vụ cho việc khai thác), hệ thống đường sắt, sân bay, đường quốc lộ,
hải cảng… ví dụ: Vn, 1898-1902: cầu Long biên, cầu đầu tiên bắc qua song
Hồng. Hệ thống đô thị đc quy hoạch tổng thể (nhà máy điện, nước, bưu điện:


truyền tin, thông tin) đi cùng là hệ thống các nhà in, báo chí, nhà xb, phát
thanh đc xây dựng.
-Tơn giáo: đưa vào tôn giáo mới, từ tôn giáo ảnh hưởng tới chữ viết, ngơn ngữ.
theo đó là hệ thống các nhà thờ, cơng trình kiến trúc phương Tây sử dụng
nguyên liệu mới( xi măng, sắt, thép).

- Giao dục: hệ thống trường công(trường cao đẳng ĐD), chế độ thi cứ Tây học, các
cơ quan nghiên cứu ra đời (viễn đông bác cổ, vườn hoa cây xanh..)
- Văn học + ngôn ngữ: xuất hiện chứ mới (chữ quốc ngữ ở Vn) hệ thống tiếng A,
Pháp, TBN, BĐN, HL …ảnh hưởng tới văn học ( các thể loại văn học mới ra
đời: truyện ngắn..).
- y học hiện đại xuất hiện: thuốc tây, bác sỹ…



×