ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
TRẦN THỊ THU HÀ
PH¸P LT VỊ D¹Y NGHỊ ë VIƯT NAM
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
HÀ NỘI - 2016
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
TRẦN THỊ THU HÀ
PH¸P LT VỊ D¹Y NGHỊ ë VIƯT NAM
Chun ngành: Lý luận và lịch sử nhà nước và pháp luật
Mã số: 60 38 01 01
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. VŨ HỒNG ANH
HÀ NỘI - 2016
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn này là cơng trình nghiên cứu của
riêng tơi.
Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được cơng bố trong bất
kỳ cơng trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận
văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tơi đã hồn
thành tất cả các mơn học và đã thanh tốn tất cả các nghĩa vụ tài
chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để
tơi có thể bảo vệ Luận văn.
Xin chân thành cảm ơn!
NGƯỜI CAM ĐOAN
Trần Thị Thu Hà
MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các từ viết tắt
Danh mục bảng
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN PHÁP LU
ẬT VỀ DẠY NGHỀ ....... 5
1.1. Khái niệm da ̣y nghề, pháp luật về dạy nghề..................................... 5
1.1.1. Khái niệm da ̣y nghề .............................................................................. 5
1.1.2. Khái niệm pháp luật về dạy nghề .......................................................... 7
1.2. Nô ̣i dung của pháp luâ ̣t về da ̣y nghề ................................................. 8
1.3. Đặc điểm của pháp luật về dạy nghề ............................................... 10
1.4. Vai trò của pháp luật về dạy nghề ................................................... 15
1.4.1. Pháp luật về dạy nghề tạo cơ sở pháp lý cho hoạt động giáo dục ,
đào ta ̣o nghề cho mô ̣t bô ̣ phâ ̣n không nhỏ người lao đô ̣ng ở nước ....
ta 15
1.4.2. Pháp luật về dạy nghề tạo cơ sở pháp lý cho việc huy động các
nguồ n lực xã hô ̣i tham gia vào hoa ̣t đô ̣ng da ̣y nghề ........................... 18
1.4.3. Pháp luật về dạy nghề góp phần giáo dục ý thức định hướng
,
phân luồ ng cho viê ̣c lựa cho ̣n nghề nghiê ̣p , giảm tải cho giáo dục
đa ̣i ho ̣c ................................................................................................. 19
1.5. Các yếu tố ảnh hưởng đến pháp luật về dạy nghề ......................... 20
1.5.1. Yế u tố chin
20
̣
́ h tri....................................................................................
1.5.2. Yế u tố kinh tế - xã hội ......................................................................... 26
1.5.3. Yế u tố văn hóa .................................................................................... 29
Chương 2: THỰC TRẠNG THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ DẠY
NGHỀ Ở VIỆT NAM........................................................................ 33
2.1. Những kết quả đạt được trong thực hiện pháp luật về dạy nghề...... 33
2.1.1. Về trình đô ̣ đào ta ̣o , tổ chức đào tạo , thời gian đào tạo , chương
trình đào tạo trong da ̣y nghề ............................................................... 33
2.1.2. Về công tác tuyể n sinh , kiể m đinh
̣ chấ t lươ ̣ng da ̣y nghề , cấp văn
bằng chứng chỉ cho người học nghề ................................................... 40
2.1.3. Về quy hoạch mạng lư ới cơ sở da ̣y nghề ; cơ sở vật chất thiết bị
cho dạy nghề và cơng tác xã hội hóa trong lĩnh vực dạy nghề ........... 48
2.1.4. Về công tác phát triển đội ngũ giáo viên dạy nghề, chế độ đãi ngộ
thu hút người học nghề........................................................................ 53
2.1.5. Công tác quản lý nhà nước về dạy nghề ............................................. 62
2.2. Những hạn chế, bất cập trong thực hiêṇ pháp luật về ạdy nghề ..... 68
2.3. Nguyên nhân của những hạn chế, bất cập ...................................... 75
Chương 3: QUAN ĐIỂM , GIẢI PHÁP B ẢO ĐẢM THỰC HIỆN
PHÁP LUẬT VỀ DẠY NGHỀ Ở NƯỚC TA HIỆN NAY ............. 79
3.1.
3.1.1.
3.1.2.
3.1.3.
3.2.
3.2.1.
3.2.2.
3.2.3.
3.2.4.
Quan điể m bảo đảm thưc̣ hiêṇ pháp luâ ̣t về da ̣y nghề ở nước
ta hiêṇ nay .......................................................................................... 79
Thực hiện pháp luật về dạy nghề phải hướng tới bảo đảm việc phân
luồ ng lựa cho ̣n nghề nghiê ̣p cho mô ̣t bô ̣ phâ ̣n người lao đôg̣n.............. 79
Thực hiê ̣n pháp luâ ̣t về da ̣y nghề phải bảo đảm huy đô ̣ng tố i đa
nguồ n lực xã hô ̣i tham gia hoa ̣t đô ̣ng da ̣y nghề , tăng cường sự
gắn kết giữa các cơ sở dạy nghề với doanh nghiệp ............................ 80
Thực hiê ̣n pháp luâ ̣t về da ̣y nghề phải bảo đảm nâng cao chất
lượng đào tạo nghề cho người học nghề, đảm bảo cho người học
nghề có tay nghề vững, có việc làm ổn định hướng đến mục tiêu
lao động có chất lượng cao ................................................................. 80
Giải pháp bảo đảm thực hiện pháp luật về dạy nghề.................... 81
Đẩy mạnh phân luồng trong hoạt đô ̣ng da ̣y nghề ............................... 81
Tăng cường sự gắn kết giữa cơ sở dạy nghề với doanh nghiệp .......... 82
Tăng cường hoàn thiê ̣n chính sách đào tạo bồi dưỡng cho nhà
giáo dạy nghề và chiń h sách đố i với người ho ̣c nghề ......................... 85
Tăng cường công tác quản lý nhà nước trong lĩnh vực dạy nghề ............ 87
KẾT LUẬN .................................................................................................... 89
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 90
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
STT TỪ VIẾT TẮT
1
Bộ Luật Lao động
NGHĨA ĐẦY ĐỦ
Bộ Luật Lao động số 10/2012/QH13 được
Quốc hội nước Cộng hịa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam thơng qua ngày 18 tháng 6 năm 2012.
2
Luật Dạy nghề 2006
Luật Dạy nghề số 76/2006/QH11 được Quốc
hội nước Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt
Nam thông qua ngày 29/11/2006
3
Luật Giáo dục nghề
Luật Giáo dục nghề nghiệp số 74/2014/QH13
nghiệp 2014
được Quốc hội nước Cộng hồ Xã hội Chủ
nghĩa Việt Nam thơng qua ngày 27/11/2014;
DANH MỤC BẢNG
Số hiệu
bảng
Tên bảng
Trang
Bảng 2.1: Tình hình tuyển sinh học nghề trình độ trung cấp, cao đẳng
47
Bảng 2.2: Tổng hợp về trình độ tay nghề của đội ngũ giáo viên
59
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Trong bối cảnh tồn cầu hố và hội nhập hiện nay, khi Việt Nam đã trở
thành thành viên thứ 150 của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), việc
cạnh tranh giữa các quốc gia về kinh tế, thương mại và nguồn nhân lực là một
xu thế tất yếu. Do vậy, việc nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, xây dựng
đội ngũ lao động kỹ thuật có trình độ cao, có kiến thức, kỹ năng nghề, làm
chủ máy móc, cơng nghệ hiện đại là một trong những nhân tố quyết định sự
thành cơng của tiến trình cơng nghiệp hố, hiện đại hố đất nước. Để đáp ứng
yêu cầu đó, ngày 29/11/2006, Quốc hội Khóa XI Kỳ họp thứ 10 đã thơng qua
Luật Dạy nghề. Luật Dạy nghề đã trở thành cơ sở pháp lý quan trọng để phát
triển công tác dạy nghề. Qua gần 10 năm tổ chức thi hành Luật dạy nghề, cả
nước đã xây dựng được danh mục 386 nghề đào tạo ở trình độ cao đẳng, 426
nghề đào tạo ở trình độ trung cấp, 195 bộ chương trình khung đào tạo trình độ
cao đẳng, trung cấp nghề cũng đã được biên soạn… Thông qua việc đổi mới
và tăng cường chất lượng dạy nghề, kỹ năng nghề của học sinh tốt nghiệp các
cơ sở dạy nghề đã được nâng lên, trên 80% lao động được sử dụng đúng
ngành nghề đào tạo, 70% học sinh tìm được việc làm và tự tạo việc làm sau
đào tạo… Mặt khác, đứng trước tình trạng “thừa thầy thiếu thợ” ở Việt Nam
hiện nay đã và đang đặt ra những yêu cầu vô cùng cấp thiết với việc phân
luồng và định hướng phát triển nghề nghiệp cho học sinh, sinh viên.
Tuy nhiên, thực tiễn cho thấy nhận thức về pháp luật về dạy nghề của
một bộ phận không nhỏ tầng lớp nhân dân, kể cả cán bộ, công chức nhà nước
chưa thật đầy đủ. Điều này dẫn đến thực trạng hoạt động dạy nghề ở nước ta
chưa thực sự được quan tâm đúng mức. Luật Dạy nghề và các văn bản hướng
dẫn thi hành còn nhiều hạn chế, bất cập dù đã được kịp thời khắc phục thông
1
qua Luật Giáo dục nghề nghiệp, tuy nhiên, cho đến nay vẫn còn rất nhiều
những vấn đề quy định chung chung cần đề xuất ban hành văn bản hướng dẫn
chi tiết để đưa Luật Giáo dục nghề nghiệp chính thức đi vào thực tiễn.
Từ những phân tích ở trên cho thấy đề tài “Pháp luật về dạy nghề ở
Việt Nam” là đề tài mang tính rất cần thiết nhằm mang lại cái nhìn tổng qt
và phương hướng hồn thiện các quy định về pháp luật về dạy nghề ở Việt
Nam hiện nay.
2. Mục tiêu nghiên cứu
Mục tiêu tổng quát
Đề tài “Pháp luật về dạy nghề ở Việt Nam” nghiên cứu các vấn đề lý
luận và thực tiễn thi hành của pháp luật về dạy nghề, đề xuất các biê ̣n pháp
bảo đảm thực hiê ̣n pháp luật về dạy nghề ở nước ta hiện nay vì mục tiêu phát
triển bền vững và góp phần xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam.
Mục tiêu cụ thể
Đề tài tâ ̣p trung nghiên cứu làm rõ những vấn đề lý luận pháp luật về
dạy nghề ; phân tích, đánh giá thực tra ̣ng thực hiện pháp luật về dạy nghề ; đề
xuấ t biê ̣n pháp bảo đảm thực hiê ̣n pháp luật về dạy nghề đáp ứng tốt hơn yêu
cầu thực tế đặt ra.
3. Tính mới và những đóng góp của đề tài
Pháp luật về dạy nghề là một chủ đề được sự quan tâm của nhiều học
giả. Các quan điểm và bài viết về lĩnh vực này khá phong phú. Hầu hết các
bài viết đề xoay quanh chủ đề như tổ chức quản lý nhà nước đối với lĩnh vực
dạy nghề và tập trung đào tạo các nghề danh sách nghề trọng điểm quốc gia.
Tuy nhiên, hiện nay có rất ít bài viết hay cơng trình nghiên cứu một cách tổng
thể, khái quát về hệ thống pháp luật về dạy nghề. Do đó Đề tài “Pháp luật về
dạy nghề ở Việt Nam” là rất cần thiết có ý nghĩa cả về mặt lý luận và thực
tiễn. Luận văn nghiên cứu một cách tồn diện, có hệ thống về cơ sở lý luận,
2
pháp lý về hoạt động dạy nghề, hiệu quả của quá trình thực hiện pháp luật về
dạy nghề, tổ chức dạy nghề, học nghề và quản lý nhà nước về lĩnh vực này; từ
việc phân tích, đánh giá thực trạng hiệu quả pháp luật về dạy nghề trong Luận
văn sẽ phân tích làm sáng tỏ những khó khăn, hạn chế, tồn tại làm ảnh hưởng
đến hiệu quả của hoạt động dạy nghề và quản lý dạy nghề, từ đó đưa ra các
bảo đảm thực hiệ n pháp luật về dạy nghề trong thời gian tới . Kế t quả nghiên
cứu của luận văn có thể phục vụ cho việc học tập nghiên cứu, tìm hiểu về
pháp luật về dạy nghề ở Việt Nam.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của Luận văn là các quy định của pháp luật, các
quan điểm, quan niệm về pháp luật về dạy nghề ở Việt Nam hiện nay.
Phạm vi nghiên cứu của luận văn chỉ tập chung vào các quy định về
dạy nghề trong Luật Dạy nghề 2006, Luật Giáo dục và nghề nghiệp 2014 và
các văn bản hướng dẫ n thi hành ; phân tích phân tić h thực tra ̣ng thực hiê ̣n
pháp luật về dạy nghề trong khoảng 10 gầ n đây.
5. Nội dung và phương pháp nghiên cứu
Nội dung nghiên cứu
Bố cục của Luận văn, ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu
tham khảo, các phụ lục, Luận văn gờm 03 Chương chính như sau:
Chương 1: Mô ̣t số vấ n đề lý luận pháp luật về dạy nghề
Chương 2: Thực trạng thực hiê ̣n pháp luật về dạy nghề ở Viê ̣t Nam
Chương 3: Quan điể m , giải pháp bảo đảm thực hiện pháp luật về dạy
nghề ở Việt Nam
Phương pháp nghiên cứu
Luận văn vận dụng các phương pháp luận duy vật biện chứng, duy vật
lịch sử của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hờ Chí Minh về nhà nước và
pháp luật . Luâ ̣n văn sử du ̣ng các phương pháp nghiên cứu cu ̣ thể như phân
tích, tổng hợp, thống kê, so sánh để làm rõ những vấn đề đặt ra.
3
6. Tình hình nghiên cứu đề tài
Pháp luật về dạy nghề đã có một số đề tài nghiên cứu tiến sĩ, thạc sĩ, đề
tài cấp Bộ và các bài báo, tạp chí, chuyên đề nghiên cứu làm sáng tỏ các vấn
đề lý luận và thực tiễn liên quan đến lĩnh vực này, cụ thể như:
Luận văn “Quản lý nhà nước trong lĩnh vực dạy nghề ở Việt Nam” của
Bùi Đức Tùng - Trường Đại học Kinh tế (Luận văn Thạc sỹ ngành tài chính
ngân hàng) năm 2007 đã nghiên cứu khá toàn diện về mặt tổ chức quản lý
hoạt động dạy nghề và là một phần quan trọng trong Pháp luật dạy nghề.
Luận văn “Biện pháp quản lý đào tạo nghề ở Trường Trung cấp xây
dựng ng Bí – Quảng Ninh” của Nguyễn Ngọc Hiếu (Luận văn Thạc sỹ
ngành khoa học giáo dục) năm 2010 cũng đã nghiên cứu về vấn đề quản lý
đào tạo nghề và chủ yếu đi sâu nghiên cứu thực tế quản lý tại Trường Trung
cấp nghề ng Bí – Quảng Ninh.
Luận văn “Pháp luật về dạy nghề - Thực trạng trong các doanh nghiệp
tại tỉnh Nam Định” của Vũ Thị Hương (Luận văn Thạc sỹ Luật học chuyên
ngành Luật Kinh tế) năm 2013 đã nghiên cứu tương đối toàn diện và khái
quát về hoạt động đào tạo nghề trong các doanh nghiệp tại Nam Định.
Luận văn “Pháp luật về dạy nghề đối với người khuyết tật ở Việt Nam”
của Bùi Thị Kim Dung (Luận văn Thạc sỹ Luật học chuyên ngành Luật Kinh
tế) năm 2014 đã đi sâu nghiên cứu các vấn đề lý luận và các nội dung quy
định của pháp luật về dạy nghề đối với người khuyết tật.
Trên đây là tổng quan tài liệu về tình hình nghiên cứu liên quan đến
pháp luật về dạy nghề, tuy nhiên các cơng trình nghiên cứu trên đây mới chỉ
dừng lại ở việc đi sâu nghiên cứu một số nội dung của pháp luật về dạy nghề
mà chưa có cơng trình nghiên cứu tổng quan nào về vấn đề này.
4
Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN PHÁP LUẬT
VỀ DẠY NGHỀ
1.1. Khái niệm da ̣y nghề, pháp luật về dạy nghề
1.1.1. Khái niệm dạy nghề
Theo Từ điển Tiếng Việt, “nghề” đồng nghĩa với “nghề nghiệp” là
một danh từ để chỉ “công việc chuyên làm theo sự phân công lao động của
xã hội thường phải do rèn luyện, học tập mới có”, từ đó ta cũng có thể hiểu
“nghề” hay “nghề nghiệp” là một lĩnh vực hoạt động lao động mà trong đó,
nhờ được đào tạo, con người có được những tri thức, những kỹ năng để làm
ra các loại sản phẩm vật chất hay tinh thần nào đó, đáp ứng được những nhu
cầu của xã hội.
Nghề hay nghề nghiệp trong xã hội không tồn tại một cách cố định,
cứng nhắc, nó được ví như một cơ thể sống, có q trình phát sinh, phát triển
và tiêu vong. Chẳng hạn, do sự phát triển của kỹ thuật điện tử nên đã hình
thành cơng nghệ điện tử, do sự phát triển vũ bão của kỹ thuật máy tính nên đã
hình thành cả một nền công nghệ tin học đồ sộ bao gồm việc thiết kế, chế tạo
cả phần cứng, phần mềm và các thiết bị bổ trợ v.v… Công nghệ các hợp chất
cao phân tử tách ra từ cơng nghệ hóa dầu, công nghệ sinh học và các ngành
dịch vụ, du lịch tiếp nối ra đời… Ngược lại, do những tiến bộ của khoa học kỹ
thuật hiện đại nhiều nghề đang dần biến mất như nghề đánh máy chữ vỉa hè,
nghề quấn thuốc lá, nghề viết thư thuê trong thời kỳ nhiều người không biết
chữ, nghề thợ rèn,… các nghề trong xã hội luôn ở trong trạng thái biến động
do sự phát triển của khoa học và công nghệ. Nhiều nghề cũ mất đi hoặc thay
đổi về nội dung cũng như về phương pháp sản xuất. Nhiều nghề mới xuất
hiện rồi phát triển theo hướng đa dạng hóa, nhiều nghề chỉ thấy có ở nước này
5
nhưng lại không thấy ở nước khác. Theo thống kê gần đây, trên thế giới mỗi
năm có tới 500 nghề bị đào thải và khoảng 600 nghề mới xuất hiện. Ở nước
ta, mỗi năm ở cả 3 hệ trường (dạy nghề, trung học chuyên nghiệp và cao đẳng
- đại học) đào tạo trên dưới 300 nghề bao gờm hàng nghìn chun mơn khác
nhau. Bên cạnh đó, do sự chuyển biến của nền kinh tế từ cơ chế kế hoạch hóa
tập trung sang cơ chế thị trường đã gây ra những biến đổi sâu sắc trong cơ cấu
nghề nghiệp của xã hội. Trong cơ chế thị trường, nhất là trong nền kinh tế tri
thức tương lai, sức lao động cũng là một thứ hàng hóa. Giá trị của thứ hàng
hóa sức lao động này tuỳ thuộc vào trình độ, tay nghề, khả năng về mọi mặt
của người lao động. Xã hội đón nhận thứ hàng hóa này như thế nào là do
“hàm lượng chất xám” và “chất lượng sức lao động” quyết định. Con người
phải chủ động chuẩn bị tiềm lực, trau dồi bản lĩnh, nắm vững một nghề, biết
nhiều nghề để rời tự tìm việc làm, tự tạo việc làm.
Theo quy định của Khoản 1, Điều 5, Luật Dạy nghề 2006: “Dạy
nghề” là: “hoạt động dạy và học nhằm trang bị kiến thức, kỹ năng và thái độ
nghề nghiệp cần thiết cho người học nghề để có thể tìm được việc làm hoặc tự
tạo việc làm sau khi hoàn thành khoá học” [14, Điều 5]. Mục tiêu của dạy
nghề là đào tạo nhân lực kỹ thuật trực tiếp trong sản xuất, dịch vụ có năng lực
thực hành nghề tương xứng với trình độ đào tạo, có đạo đức, lương tâm nghề
nghiệp, ý thức kỷ luật, tác phong cơng nghiệp, có sức khoẻ nhằm tạo điều
kiện cho người học nghề sau khi tốt nghiệp có khả năng tìm việc làm, tự tạo
việc làm hoặc học lên trình độ cao hơn, đáp ứng u cầu của sự nghiệp cơng
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Tuy nhiên, tại Kỳ họp thứ 7, Quốc hội
Khóa 13, Ủy ban thường vụ Quốc hội đề xuất đổi tên dự thảo Luật sửa đổi, bổ
sung một số điều của Luật Dạy nghề 2006 thành Luật giáo dục nghề nghiệp
để phù hợp với Hiến pháp năm 2013 và tinh thần Nghị quyết 29-NQ/TW của
Hội nghị lần thứ 8 Ban chấp hành Trung ương khóa XI. Tại Kỳ họp này, các
6
đại biểu Quốc hội đều thể hiện sự nhất trí cao với đề xuất của Ủy ban thường
vụ Quốc hội.Tại Khoản 1, Điều 3 Luật Giáo dục nghề nghiệp:
Giáo dục nghề nghiệp là một bậc học của hệ thống giáo dục
quốc dân nhằm đào tạo trình độ sơ cấp, trình độ trung cấp, trình độ
cao đẳng và các chương trình đào tạo nghề nghiệp khác cho người
lao động, đáp ứng nhu cầu nhân lực trực tiếp trong sản xuất, kinh
doanh và dịch vụ, được thực hiện theo hai hình thức là đào tạo
chính quy và đào tạo thường xun.
Ngồi ra, khái niệm “Đào tạo nghề nghiệp” được hiểu là hoạt động dạy
và học nhằm trang bị kiến thức, kỹ năng và thái độ nghề nghiệp cần thiết cho
người học để có thể tìm được việc làm hoặc tự tạo việc làm sau khi hồn thành
khóa học hoặc để nâng cao trình độ nghề nghiệp. Như vậy, khái niệm dạy nghề
và đào tạo nghề nghiệp là hai khái niệm có bản chất như nhau nhưng phạm vi
của đào tạo nghề nghiệp là rộng hơn và đã bao hàm hoạt động dạy nghề. Hoạt
động dạy nghề chỉ tập trung tào tạo nhân lực theo những ngành nghề cụ thể
như cắt gọt kim loại, hàn, công nghệ thông tin, điện công nghiệp, điện tử công
nghiệp, cơ điện tử,… nhưng đào tạo nghề nghiệp cịn bao gờm cả những hoạt
động như đào tạo sư phạm, quản lý, điều hành,… Điều này cũng đồng nghĩa
với việc khái niệm “dạy nghề” đã được mở rộng và thay thế bằng khái niệm
“đào tạo nghề nghiệp” theo quy định của pháp luật hiện hành.
1.1.2. Khái niệm pháp luật về dạy nghề
Pháp luật là hệ thống các quy tắc xử sự mang tính bắt buộc chung, do
nhà nước ban hành hoặc thừa nhận, thể hiện ý chí và bảo vệ lợi ích của giai
cấp thống trị trong xã hội, được nhà nước bảo đảm thực hiện nhằm mục đích
điều chỉnh các quan hệ xã hội. Pháp luật là công cụ để thực hiện quyền lực
nhà nước và là cơ sở pháp lý cho đời sống xã hội có nhà nước.
Qua phân tić h các quy đinh
̣ của pháp luật về dạy nghề và các văn bản
7
hướng dẫn thi hành , pháp luật về dạy nghề đươ ̣c hiể u là hệ thống các quy
phạm pháp luật quy định về tổ chức, hoạt động của các cơ sở dạy nghề,
quyền và nghĩa vụ của tổ chức cá nhân tham gia hoạt động dạy nghề. Bên
cạnh đó, theo các nội dung quy định của Luật Giáo dục nghề nghiệp thì pháp
luật về Giáo dục nghề nghiệp là hệ thống các quy phạm pháp luật quy định
về về hệ thống giáo dục nghề nghiệp; tổ chức, hoạt động của cơ sở giáo dục
nghề nghiệp; quyền và nghĩa vụ của tổ chức, cá nhân tham gia hoạt động
giáo dục nghề nghiệp.
Như vậy, theo quy định của pháp luật hiện hành thì pháp luật về dạy
nghề là tổng hợp tất cả các quy phạm pháp luật, do Nhà nước ban hành , điề u
chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong lĩnh vực dạy nghề và được đảm bảo
thực hiện bằng sức mạnh cưỡng chế của Nhà nước.
1.2. Nô ̣i dung của pháp luâ ̣t về dạy nghề
Trên cơ sở nghiên cứu pháp luật về dạy nghề và các văn bản hướng dẫn
thi hành, có thể khái quát nội dung pháp luật về dạy nghề bao hàm các vấn đề
chính sau đây:
Thứ nhấ t, các quy định về trình đô ̣ đào ta ̣o trong da ̣y nghề .
Pháp luật hiện hành quy định đ ào tạo nghề gồm 3 cấp bao gờm: Trình
độ sơ cấp, trình độ trung cấp và trình độ cao đẳng. Trong đó, đào tạo trình
độ sơ cấp để người học có năng lực thực hiện được các công việc đơn giản
của một nghề, đào tạo trình độ trung cấp để người học có năng lực thực hiện
được các cơng việc của trình độ sơ cấp và thực hiện được một số cơng việc
có tính phức tạp của chuyên ngành hoặc nghề; có khả năng ứng dụng kỹ
thuật, công nghệ vào công việc, làm việc độc lập, làm việc theo nhóm và đào
tạo trình độ cao đẳng để người học có năng lực thực hiện được các cơng việc
của trình độ trung cấp và giải quyết được các cơng việc có tính phức tạp của
chun ngành hoặc nghề; có khả năng sáng tạo, ứng dụng kỹ thuật, công
8
nghệ hiện đại vào công việc, hướng dẫn và giám sát được người khác trong
nhóm thực hiện cơng việc.
Thứ hai, các quy định về tuyển sinh, hơ ̣p đồ ng ho ̣c nghề , kiể m tra, đánh
giá kết quả học tập ; kiể m đinh
̣ chấ t lươ ̣ng da ̣y nghề ; đánh giá , cấ p chứng chỉ
dạy nghề quốc gia.
Pháp luật hiện hành đã quy định chi tiết và rõ ràng về vấn đề tuyển sinh
đối với hệ đào tạo chính quy theo hướng mở trong đó cho phép các cơ sở hoạt
động giáo dục nghề nghiệp được quyền xác định chỉ tiêu tuyển sinh trên cơ sở
các điều kiện về số lượng và chất lượng đội ngũ nhà giáo, cơ sở vật chất và
thiết bị đào tạo, phù hợp với nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội và quy hoạch
phát triển nguồn nhân lực. Đối với hệ đào tạo thường xuyên, pháp luật hiện
hành về dạy nghề cũng đã đưa ra các quy định cụ thể về hình thức và nội
dung của hợp đờng đào tạo nghề, đặc biệt là loại hình đào tạo tại doanh
nghiệp. Ngoài ra, pháp luật hiện hành cũng đã đưa ra các quy định chặt chẽ
cho từng loại hình đào tạo về chương trình, giáo trình, hình thức kiểm tra,
đánh giá kết quả học tập và cấp chứng chỉ cho học viên sau khi học nghề.
Thứ ba , các quy định về cơ sở dạy nghề ; quyề n, nghĩa vụ của doanh
nghiê ̣p trong hoa ̣t đô ̣ng da ̣y nghề .
Theo quy định của pháp luật hiện hành thì các cơ sở dạy nghề bao gờm:
- Trung tâm giáo dục nghề nghiệp (là sự thống nhất của trung tâm kỹ
thuật, tổng hợp, hướng nghiệp và trung tâm dạy nghề);
- Trường trung cấp (là sự thống nhất của trường trung cấp chuyên
nghiệp và trường trung cấp nghề);
- Trường cao đẳng (là sự thống nhất của cao đẳng chuyên nghiệp và
cao đẳng nghề).
Ngoài các cơ sở giáo dục nghề nghiệp công lập là cơ sở giáo dục nghề
nghiệp thuộc sở hữu Nhà nước, do Nhà nước đầu tư, xây dựng cơ sở vật chất
9
thì pháp luật cũng ghi nhận sự tờn tại và đóng góp của khối doanh nghiệp tư
nhân trong q trình đào tạo nghề bao gồm cơ sở giáo dục nghề nghiệp thuộc
sở hữu của các tổ chức xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp, tổ chức kinh tế tư
nhân hoặc cá nhân, do các tổ chức xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp, tổ
chức kinh tế tư nhân hoặc cá nhân đầu tư, xây dựng; và các Cơ sở giáo dục
nghề nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.
Thứ tư , các quy định về người dạy , người ho ̣c ; dạy ngh ề cho người
khuyế t tâ ̣t.
Pháp luật hiện hành đã có sự mở rộng ưu đãi cho người học nghề như
việc mở rộng phạm vi miễn giảm học phí đặc biệt đối với người học là người
khuyết tật, ưu tiên tuyển dụng,.. để thu hút học viên. Đồng thời, đối với người
dạy nghề, pháp luật cũng đã có sự ghi nhận về danh hiệu và các chế độ đãi
ngộ phù hợp cho người dạy nghề để họ yên tâm công tác và cống hiến cho
công tác giảng dạy.
Thứ năm, các quy định về quản lý nhà nước về dạy nghề bao gồm việc
thống nhất quản lý chung, công tác thanh tra, xử lý vi phạm, khiếu nại, tố cáo
và giải quyết khiếu nại, tố cáo.
1.3. Đặc điểm của pháp luật về dạy nghề
Pháp luật về dạy nghề cũng giống như các ngành luật khác, cũng mang
đầy đủ những đặc điểm chung bao gồm:
- Tính giai cấp thể hiện ở chỗ pháp luật về dạy nghề là những quy tắc
xử sự bắt buộc chung thể hiện ý chí của giai cấp cơng nhân và đại đa số nhân
dân dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, được đảm bảo thực hiện
bằng bộ máy nhà nước và phương thức tác động của Nhà nước Cộng hòa Xã
hội Việt Nam trên cơ sở giáo dục, thuyết phục và cưỡng chế của nhà nước
nhằm xây dựng chế độ xã hội chủ nghĩa. Pháp luật về dạy nghề thể hiện sâu
sắc tính nhân đạo xã hội của nghĩa, đề cao vai trò của giáo dục pháp luật.
10
Pháp luật về dạy nghề cũng thể hiện tính dân tộc và nhân dân ở mục tiêu xây
dựng và phát triển ngành dạy nghề hướng đến xây dựng một nước Việt Nam
“dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh”, pháp luật về
dạy nghề là sự thể chế hóa đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng Cộng
sản Việt Nam về việc phát triển dạy nghề ở Việt Nam hiện nay.
- Tính bắt buộc chung (hay cịn gọi là tính qui phạm phổ biến): Trước
hết, qui phạm được hiểu là những qui tắc xử sự chung, được coi là khuôn
mẫu, chuẩn mực, mực thước đối với hành vi của 1 phạm vi cá nhân, tổ
chức. Pháp luật về dạy nghề được biểu hiện cụ thể là những qui phạm pháp
luật. Do vậy nó cũng là qui tắc xử sự chung cho phạm vi cá nhân hoặc tổ chức
nhất định. Pháp luật về dạy nghề được Nhà nước ban hành không chỉ dành
riêng cho một cá nhân, tổ chức cụ thể mà áp dụng cho tất cả các chủ thể có
liên quan trong lĩnh vực học nghề, dạy nghề hay giáo dục nghề nghiệp.
- Tính xác định chặt chẽ về mặt hình thức: Yêu cầu của pháp luật là
phải xác định chặt chẽ về mặt hình thức, được biểu hiện ở: pháp luật về dạy
nghề và các văn bản hướng dẫn thi hành đều đảm bảo trong việc sử dụng lời
văn chính xác, cụ thể, dễ hiểu, khơng đa nghĩa. Mặc dù mỗi một cơ quan/ loại
cơ quan chỉ được ban hành những loại văn bản nhất định có tên gọi xác định
và theo một trình tự, thủ tục nhất định, tuy nhiên các văn bản pháp luật về dạy
nghề đều đã được đảm bảo tính phù hợp về hình thức theo quy định của Luật
ban hành văn bản pháp luật, đồng thời đảm bảo các quy định liên quan đến
việc trình bày, thể thức, văn phong,…
- Tính đảm bảo được thực hiện bằng bộ máy cưỡng chế của Nhà
nước: Pháp luật về dạy nghề do Nhà nước ban hành và thừa nhận đồng thời
Nhà nước sẽ đảm bảo cho pháp luật về dạy nghề được thực hiện trong thực
tiễn đời sống. Sự đảm bảo đó được thể hiện thơng qua việc Nhà nước tạo điều
kiện khuyến khích giúp đỡ để chủ thể thực hiện pháp luật hoặc trong những
11
trường hợp xảy ra những hành vi vi phạm quy định của pháp luật, Nhà nước
đảm bảo cho pháp luật được thực hiện bằng sức mạnh cưỡng chế của Nhà
nước như cơng an, cảnh sát, tịa án,… Tính cưỡng chế là tính khơng thể tách
rời khỏi pháp luật nói chung và pháp luật về dạy nghề nói riêng.
Bên cạnh đó , pháp luật về dạy nghề cũng có những đă ̣c điể m riêng
sau đây:
Thứ nhấ t, về phạm vi điều chỉnh của pháp luâ ̣t về dạy nghề.
Theo quy định của Luật dạy nghề 2006, phạm vi điều chỉnh của luật
dạy nghề được giới hạn trong việc tổ chức, hoạt động của cơ sở dạy nghề;
quyền và nghĩa vụ của tổ chức, cá nhân tham gia hoạt động dạy nghề. Sau này
theo Luật giáo dục nghề nghiệp 2014 thì phạm vi điều chỉnh của pháp luật về
dạy nghề được mở rộng quy định về hệ thống giáo dục nghề nghiệp; tổ chức,
hoạt động của cơ sở giáo dục nghề nghiệp; quyền và nghĩa vụ của tổ chức, cá
nhân tham gia hoạt động giáo dục nghề nghiệp. Việc mở rộng phạm vi điều
chỉnh của luật giáo dục nghề nghiệp đã dẫn đến một số điều chỉnh về hệ thống
giáo dục quốc dân theo quy định của Luật giáo dục số 38/2005/QH11 đã được
sửa đổi, bổ sung một số điều theo Luật số 44/2009/QH12. Điều này đã thực
sự nâng cao vị trí, vai trị của hoạt động dạy nghề hay giáo dục nghề nghiệp
trong hệ thống giáo dục quốc dân hiện nay. Giáo dục nghề nghiệp đã thực sự
trở thành 1 phần trong hệ thống giáo dục quốc dân, tồn tại song song, bình
đẳng với việc đào tạo các trình độ đại học và sau đại học. Quy định này cũng
nhằm hiện thực hóa quan điểm chỉ đạo của Đảng và Nhà nước đối với việc
phân luồng giáo dục đào tạo và yêu cầu cấp thiết về phát triển nguồn nhân lực
có tay nghề, chất lượng cao, khẳng định tính cần thiết trong việc đào tạo đội
ngũ cán bộ kỹ thuật phục vụ trực tiếp trong quá trình sản xuất nhằm đáp ứng
yêu cầu nhân lực trong quá trình phát triển đất nước theo hướng cơng nghiệp
hóa, hiện đại hóa trong tương lai.
12
Thứ hai, về đối tượng áp dụng của pháp luật về dạy nghề.
Trước đây Luật dạy nghề năm 2006 chỉ áp dụng đối với tổ chức, cá
nhân tham gia hoạt động dạy nghề và tổ chức, cá nhân có liên quan đến hoạt
động dạy nghề tại Việt Nam. Tuy nhiên, Luật giáo dục nghề nghiệp năm 2014
đã mở rộng đối tượng áp dụng của pháp luật về dạy nghề, theo đó sẽ áp dụng
đối với trung tâm giáo dục nghề nghiệp, trường trung cấp, trường cao đẳng;
doanh nghiệp và cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan đến hoạt động giáo
dục nghề nghiệp tại Việt Nam. Xuất phát từ thực tế trong quá trình triển khai
pháp luật về dạy nghề đó là sự tham gia vơ cùng tích cực và hiệu quả của các
doanh nghiệp trong việc đào tạo học viên trong lĩnh vực học nghề và dạy
nghề, không chỉ vậy hiện nay có rất nhiều doanh nghiệp chủ động đặt hàng số
lượng công nhân để làm việc trực tiếp cho doanh nghiệp. Mục tiêu cuối cùng
của các học viên tham gia học nghề là để tìm kiếm việc làm và giảm tỉ lệ thất
nghiệp do đó việc khuyến khích sự tham gia của doanh nghiệp vào hoạt động
dạy nghề là vô cùng cần thiết. Cộng đồng doanh nghiệp với tư cách là giới
chủ sử dụng lao động có tiếng nói rất quan trọng trong q trình đào tạo dạy
nghề. Từ trước đến nay, việc dạy nghề chủ yếu là do các trường trong hệ
thống của nhà nước thực hiện. Song với yêu cầu nâng cao chất lượng nguồn
lao động về cả chất lượng và số lượng như hiện nay thì chắc chắn nhà nước
khơng thể một mình thực hiện được mà phải có sự tham gia của tồn xã hội.
Thực hiện chủ trương xã hội hóa lĩnh vực dạy nghề của Đảng và Nhà nước,
việc mở rộng đối tượng áp dụng là doanh nghiệp của pháp luật về dạy nghề đã
khuyến khích khu vực tư nhân tham gia vào đào tạo, đồng thời thể hiện chủ
trương mở cửa mời gọi đầu tư nước ngoài vào lĩnh vực này. Đồng thời, để
đảm bảo việc học viên sau đào tạo có năng lực làm việc thực tế thì việc gắn
đào tạo với nhu cầu thực tế của doanh nghiệp mới thực sự mang lại hiệu quả
cao cho công tác dạy nghề.
13
Thứ ba, mối quan hệ chặt chẽ giữa pháp luật về dạy nghề với các ngành
luật khác.
Do đặc thù về phạm vi điều chỉnh và đối tượng áp dụng nên pháp luật
về dạy nghề có mối quan hệ chặt chẽ với các ngành luật khác đặc biệt là Luật
lao động, Luật Giáo dục, Luật Việc làm.
Để đảm bảo công tác an sinh xã hội thì việc giải quyết việc làm, dạy
nghề và bảo vệ quyền lợi ích cho người lao động là những vấn đề có tính gắn
bó mật thiết với nhau, cần thiết phải tiến hành đồng bộ và triệt để, không chỉ
nhằm đảm bảo vấn đề an sinh xã hội mà cịn đảm bảo phát triển ng̀n nhân
lực bền vững. Theo quy định tại Khoản 2, Điều 9, Chương II của Bộ Luật Lao
động hiện hành thì “Nhà nước, người sử dụng lao động và xã hội có trách nhiệm
tham gia giải quyết việc làm, bảo đảm cho mọi người có khả năng lao động đều
có cơ hội có việc làm”. Ngồi việc chú trọng đến tạo điều kiện thuận lợi để phát
triển việc làm, Điều 14, Chương II - Bộ luật lao động còn quy định về chức
năng của Tổ chức dịch vụ việc làm là: “…tư vấn, giới thiệu việc làm và dạy
nghề cho người lao động; cung ứng và tuyển lao động theo yêu cầu của người
sử dụng lao động; thu thập, cung cấp thông tin về thị trường lao động và thực
hiện nhiệm vụ khác theo quy định của pháp luật”. Ngoài ra, trước tình trạng
“thừa thầy thiếu thợ” của Việt Nam như hiện nay, một trong nhưng điểm nhấn
đáng chú ý của pháp luật lao động là bảo đảm quyền học nghề và dạy nghề
của tất cả các cơng dân, đờng thời có các quy định về bời dưỡng và nâng cao
trình độ tay nghề cho người lao động, điều này thể hiện rõ nét nhất mối quan
hệ mật thiết giữa pháp luật về dạy nghề, học nghề và pháp luật về lao động.
Quyền học nghề và dạy nghề được quy định tại Điều 59 Bộ Luật Lao
động, theo đó:
Người lao động được lựa chọn nghề, học nghề tại nơi làm
việc phù hợp với nhu cầu việc làm của mình. Nhà nước khuyến
14
khích người sử dụng lao động có đủ điều kiện thành lập cơ sở dạy
nghề hoặc mở lớp dạy nghề tại nơi làm việc để đào tạo, đào tạo lại,
bồi dưỡng, nâng cao trình độ, kỹ năng nghề cho người lao động
đang làm việc cho mình và đào tạo nghề cho người học nghề khác
theo quy định của pháp luật về dạy nghề.
Người học nghề, tập nghề phải phải đủ 14 tuổi trở lên, trừ
một số nghề do Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội quy định có
thể thu nhận người học nghề có độ tuổi ít hơn, và phải có đủ sức
khỏe để phù hợp với yêu cầu của nghề theo học.
Người sử dụng lao động tuyển người vào học nghề, tập nghề
để làm việc cho mình thì khơng phải đăng ký hoạt động dạy nghề
và khơng được thu học phí. Hai bên phải ký kết hợp đồng đào tạo
nghề. Hợp đồng đào tạo nghề phải làm thành 02 bản, mỗi bên giữ
01 bản. Trong thời gian học nghề, tập nghề, nếu người học nghề,
tập nghề trực tiếp hoặc tham gia lao động làm ra sản phẩm hợp quy
cách, thì được người sử dụng lao động trả lương theo mức do hai
bên thoả thuận. Hết thời hạn học nghề, tập nghề, người sử dụng lao
động phải ký kết hợp đồng lao động khi đủ các điều kiện theo quy
định của pháp luật.
Thông qua mối liên hệ chặt chẽ giữa pháp luật về dạy nghề với pháp
luật về lao động và việc làm cho thấy sự gắn kết giữa yêu cầu tạo việc làm
cho người lao động, dạy nghề cho người lao động và giải quyết các vấn đề
nảy sinh trong quan hệ lao động theo hướng bảo vệ người lao động.
1.4. Vai trò của pháp luật về dạy nghề
1.4.1. Pháp luật về dạy nghề tạo cơ sở pháp lý cho hoạt động giáo
dục, đào taọ nghề cho một bộ phận không nhỏ người lao đôṇ g ở nước ta
Pháp luật về dạy nghề đóng vai trị quan trọng đố i với hoa ̣t đô ̣ng da ̣y
15
nghề ở nước ta . Tồn cầu hố kinh tế đang là xu thế tất yếu khách quan, tạo
cơ hội phát triển nhưng đờng thời cũng tiềm ẩn nhiều khó khăn, thách thức
lớn cho các quốc gia, nhất là những nước đang phát triển như Việt Nam. Cạnh
tranh kinh tế - thương mại giữa các nước ngày càng gay gắt, lợi thế cạnh tranh
sẽ thuộc về quốc gia nào có nguồn nhân lực chất lượng cao.
Đối với Việt Nam, xu thế tồn cầu hóa giúp cho đội ngũ lao động nước
ta được tham gia vào thị trường lao động của khu vực và thế giới nên đó tạo
cơ hội phát triển về số lượng, nâng cao về chất lượng của lực lượng lao động,
nhưng đồng thời họ sẽ phải hứng chịu những thách thức gay gắt về sự cạnh
tranh với lao động nước ngồi khơng những ở phạm vi thị trường lao động thế
giới mà còn ngay ở thị trường lao động trong nước. Nhưng về cơ bản, hội
nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng là cơ hội tốt để dạy nghề Việt Nam
nhanh chóng tiếp cận với các thành tựu và kinh nghiệm dạy nghề của các
nước. Cách mạng khoa học phát triển với tốc độ nhanh và có bước nhảy vọt,
với việc sử dụng ngày càng nhiều công nghệ mới, tiên tiến, hiện đại, nhiều
ngành nghề mới xuất hiện đòi hỏi người lao động phải thường xuyên bổ sung,
cập nhật kiến thức, kỹ năng nghề nghiệp để có đủ năng lực thích ứng với
những u cầu thay đổi nhanh chóng trong sản xuất, kinh doanh và dịch vụ.
Tình hình kinh tế - xã hội Việt Nam trong những năm qua đã xuất hiện
nhiều yếu tố có ảnh hưởng sâu sắc đến chất lượng nguồn nhân lực nói
chung, đến cơng tác đào tạo nghề nói riêng. Trong những năm từ 20012008, nền kinh tế nước ta đó đạt tốc độ tăng trưởng khá cao, GDP tăng
bình quân trên 7%/năm [18]; cơ cấu kinh tế có bước chuyển dịch mạnh theo
hướng cơng nghiệp hố, hiện đại hố. Các vùng kinh tế trọng điểm, các khu
công nghiệp, khu chế xuất, các ngành kinh tế mũi nhọn ngày càng phát triển;
đầu tư trong nước, quốc tế thời gian qua và dự kiến trong thời gian tới ngày
càng tăng; công nghệ mới được đưa vào sản xuất ngày càng nhiều; đòi hỏi
16
nguồn nhân lực phải tăng nhanh về số lượng và nâng cao chất lượng, hợp lý
về cơ cấu ngành nghề đào tạo và cơ cấu trình độ đào tạo. Hiện tại, tỷ lệ lao
động qua đào tạo nghề ở nước ta cịn thấp (khoảng 26%) [18], tình trạng các
doanh nghiệp, nhất là các doanh nghiệp trong các khu chế xuất, khu cơng
nghiệp, doanh nghiệp có vốn đầu tư của nước ngồi “khát lao động có kỹ
thuật cao” ngày càng trầm trọng. Chất lượng nguồn nhân lực của Việt Nam
hiện nay chưa cao (theo đánh giá của Ngân hàng thế giới thì chất lượng ng̀n
nhân lực của Việt Nam chỉ đạt 3,79/10 điểm) [18] nên năng lực cạnh tranh
của nền kinh tế Việt Nam không cao. Nếu chất lượng nguồn nhân lực khơng
được cải thiện thì năng lực cạnh tranh của nền kinh tế nước ta trong tiến trình
hội nhập kinh tế quốc tế thời gian tới sẽ gặp khó khăn lớn. Bối cảnh quốc tế
và trong nước nói trên địi hỏi chúng ta phải phát huy lợi thế, tranh thủ thời cơ
để đổi mới và phát triển hệ thống dạy nghề tiên tiến, hiện đại nhằm đào tạo và
cung cấp ng̀n nhân lực có chất lượng cao phục vụ sự nghiệp cơng nghiệp
hố, hiện đại hố đất nước, xuất khẩu lao động và đáp ứng nhu cầu hội nhập
kinh tế quốc tế.
Trước những cơ hội và thách thức đối với dạy nghề Việt Nam, Luật Dạy
nghề được Quốc hội thông qua tháng 11 năm 2006 và có hiệu lực từ ngày 01
tháng 6 năm 2007 thực sự là cơ sở pháp lý quan trọng cho hoạt động dạy nghề
phát triển mạnh mẽ. Lần đầu tiên hệ thống dạy nghề với 3 cấp trình độ dạy
nghề (sơ cấp nghề, trung cấp nghề, cao đẳng nghề) được hình thành, ổn định,
phát triển ở Việt Nam và bước đầu đã đáp ứng nhu cầu nhân lực trực tiếp
phục vụ các ngành sản xuất, kinh doanh, dịch vụ với chất lượng cao, góp phần
đáng kể vào sự nghiệp cơng nghiệp hố, hiện đại hố đất nước và yêu cầu hội
nhập kinh tế quốc tế.
Luật Giáo dục nghề nghiệp được Quốc hội khóa XIII thơng qua tại Kỳ
họp thứ 8 ngày 27 tháng 11 năm 2014 có hiệu lực thi hành từ 01 tháng 7 năm
17
2015 với rất nhiều đổi mới tích cực đã thể chế hóa mạnh mẽ chủ trương đổi
mới căn bản, tồn diện giáo dục nói chung, giáo dục nghề nghiệp nói riêng
theo tinh thần Nghị quyết Hội nghị lần thứ 8, Ban Chấp hành Trung ương
Khóa XI, giải quyết nhiều bất cập trong thực tiễn, tạo nên một diện mạo mới
của hệ thống dạy nghề ở Việt Nam.
1.4.2. Pháp luật về dạy nghề tạo cơ sở pháp lý cho việc huy động các
nguồ n lực xã hội tham gia vào hoaṭ động daỵ nghề
Pháp luật về dạy nghề đã mở ra cơ hội cho hoạt động dạy nghề nói
chung và các cơ sở dạy nghề nói riêng được tiếp cận với các ng̀n vốn được
đầu tư trong và ngồi nước, thu hút khu vực tư nhân tham gia mạnh mẽ vào
việc đầu tư phát triển các trường dạy nghề ngồi cơng lập, góp phần to lớn
vào việc thiện thay đổi diện mạo của lĩnh vực dạy nghề trong 10 năm vừa qua.
Đối với các nhà đầu tư thực hiện xã hội hóa dạy nghề được hưởng nhiều
chính sách ưu đãi, như được Nhà nước giao đất, cho thuê đất đã hoàn thành
giải phóng mặt bằng; được hỗ trợ kinh phí bời thường, giải phóng mặt bằng
đối với các dự án đầu tư đã tự thực hiện công tác đền bù, giải phóng mặt
bằng; được hưởng mức ưu đãi về thuế thu nhập doanh nghiệp; được tham gia
cung cấp các dịch vụ công do Nhà nước tài trợ, đặt hàng; tham gia đấu thầu
nhận các hợp đồng, dự án sử dụng nguồn vốn trong và ngoài nước phù hợp
với chức năng, nhiệm vụ hoạt động theo quy định của pháp luật; được đối xử
bình đẳng đối với các sản phẩm và dịch vụ của cơ sở thực hiện xã hội hóa,…..
Đối với việc thu hút đầu tư từ nước ngồi, các chính quyền địa phương luôn
luôn tạo điều kiện về vốn đối ứng các các thủ tục để tiếp nhận và sử dụng các
ng̀n vốn đầu tư từ nước ngồi vào Việt Nam trong lĩnh vực dạy nghề. Đặc
biệt kể từ năm 2008 cho đến nay, trên cơ sở pháp luật về dạy nghề và các văn
bản hướng dẫn thi hành đồng bộ đã giúp cho việc triển khai và thực hiện
thành công nhiều dự án từ nguồn vốn vay ODA và các nguồn vốn viện trợ
18