Tải bản đầy đủ (.pdf) (99 trang)

Đảm bảo quyền của người chưa thành niên trong hoạt động xét xử các vụ việc hôn nhân và gia đình

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (940.62 KB, 99 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

HOÀNG VĂN QUANG

ĐẢM BẢO QUYỀN CỦA NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN
TRONG HOẠT ĐỘNG XÉT XỬ CÁC VỤ VIỆC HƠN NHÂN
VÀ GIA ĐÌNH - QUA THỰC TIỄN TÒA ÁN NHÂN DÂN
QUẬN BẮC TỪ LIÊM,
THÀNH PHỐ HÀ NỘI

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI - 2018


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

HOÀNG VĂN QUANG

ĐẢM BẢO QUYỀN CỦA NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN
TRONG HOẠT ĐỘNG XÉT XỬ CÁC VỤ VIỆC HƠN NHÂN
VÀ GIA ĐÌNH - QUA THỰC TIỄN TÒA ÁN NHÂN DÂN
QUẬN BẮC TỪ LIÊM,
THÀNH PHỐ HÀ NỘI
Chuyên ngành: Pháp luật về quyền con người
Mã số: 8380101.07

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC


Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS BÙI XUÂN ĐỨC

HÀ NỘI - 2018


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận văn là công trình nghiên cứu của
riêng tơi. Các kết quả nêu trong luận văn chưa được cơng bố trong
bất kỳ cơng trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong
luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tơi đã hồn
thành tất cả các mơn học và đã thanh tốn tất cả các nghĩa vụ tài
chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để
tơi có thể bảo vệ luận văn.
Tơi xin chân thành cảm ơn!
NGƯỜI CAM ĐOAN

Hồng Văn Quang


MỤC LỤC

Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các chữ viết tắt
Danh mục các bảng
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ ĐẢM BẢO QUYỀN CỦA

NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN TRONG HOẠT ĐỘNG XÉT
XỬ VỤ VIỆC HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH ............................................ 8
1.1.

Khái niệm, đặc điểm và sự cần thiết đảm bảo quyền của
người chưa thành niên trong hoạt động xét xử vụ việc hơn
nhân và gia đình ................................................................................ 8

1.1.1.

Sự cần thiết đảm bảo quyền của người chưa thành niên trong hoạt
động xét xử vụ việc hôn nhân và gia đình ........................................... 8

1.1.2.

Khái niệm đảm bảo quyền của người chưa thành niên trong hoạt
động xét xử vụ việc hơn nhân và gia đình ......................................... 15

1.1.3.

Đặc điểm hoạt động đảm bảo quyền của người chưa thành niên
trong hoạt động xét xử vụ việc hơn nhân và gia đình ....................... 17

1.2.

Nội dung đảm bảo quyền của người chưa thành niên trong hoạt
động xét xử các vụ việc hôn nhân và gia đình ............................... 18

1.2.1.


Đảm bảo quyền thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng ........................... 18

1.2.2.

Đảm bảo quyền được đại diện ........................................................... 22

1.2.3.

Đảm bảo quyền về tài sản .................................................................. 25

1.2.4.

Đảm bảo quyền yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con sau khi
ly hôn, hạn chế quyền của cha, mẹ đối với con chưa thành niên ...... 27

1.2.5.

Đảm bảo quyền được biểu đạt ........................................................... 30


1.3.

Các yếu tố đảm bảo quyền của người chưa thành niên trong
hoạt động xét xử các vụ việc hôn nhân và gia đình ...................... 32

1.3.1.

Yếu tố pháp luật ................................................................................. 32

1.3.2.


Hoạt động của cơ quan xét xử ........................................................... 34

1.3.3.

Yếu tố ý thức pháp luật và văn hóa pháp lý ...................................... 36

Kết luận chương 1 ......................................................................................... 39
Chương 2: THỰC TRẠNG ĐẢM BẢO QUYỀN CỦA NGƯỜI CHƯA
THÀNH NIÊN TRONG HOẠT ĐỘNG XÉT XỬ VỤ VIỆC HƠN
NHÂN VÀ GIA ĐÌNH QUA THỰC TIỄN TỊA ÁN NHÂN DÂN
QUẬN BẮC TỪ LIÊM ................................................................... 40
2.1.

Thực trạng đảm bảo quyền thăm nom, chăm sóc, ni dưỡng ....... 42

2.2.

Về đảm bảo quyền được đại diện tham gia tố tụng tại Tòa án ........ 49

2.3.

Đảm bảo quyền biểu đạt, bày tỏ nguyện vọng của người chưa
thành niên ......................................................................................... 50

2.4.

Thực trạng đảm bảo quyền về tài sản của người chưa thành niên ..... 53

2.5.


Đảm bảo quyền yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con
sau khi ly hôn; hạn chế quyền của cha, mẹ đối với con chưa
thành niên ........................................................................................ 60

Kết luận chương 2 ......................................................................................... 63
Chương 3: QUAN ĐIỂM, GIẢI PHÁP ĐẢM BẢO QUYỀN CỦA
NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN QUA THỰC TIỄN XÉT XỬ
TẠI TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN BẮC TỪ LIÊM .................... 64
3.1.

Quan điểm đảm bảo quyền của người chưa thành niên .............. 64

3.1.1.

Đảm bảo quyền của người chưa thành niên trong hoạt động xét
xử vụ việc hôn nhân và gia đình là một trong những hoạt động
góp phần bảo đảm quyền con người ở Việt Nam .............................. 64

3.1.2.

Đảo đảm quyền của người chưa thành niên trong hoạt động xét
xử vụ việc hơn nhân và gia đình nhằm đáp ứng u cầu từ thực
trạng xã hội hiện nay ......................................................................... 66


3.1.3.

Đảo đảm quyền của người chưa thành niên trong hoạt động xét
xử vụ việc hơn nhân và gia đình cần dựa trên hệ thống pháp luật

hoàn chỉnh, đồng bộ về quyền con người.......................................... 66

3.1.4.

Đảo đảm quyền của người chưa thành niên trong hoạt động xét
xử vụ việc hôn nhân và gia đình cần được thực hiện bởi hệ thống
cơ quan tiến hành tố tụng có năng lực chun mơn và kiến thức
về quyền con người, quyền trẻ em .................................................... 67

3.2.

Giải pháp tăng cường đảm bảo quyền của người chưa thành
niên trong hoạt động xét xử các vụ việc hôn nhân và gia đình ... 68

3.2.1.

Nhóm giải pháp sửa đổi, bổ sung quy định của pháp luật................. 68

3.2.2.

Nhóm giải pháp đối với gia đình và xã hội ....................................... 78

3.2.3.

Nhóm giải pháp đối với hoạt động xét xử của Tòa án ...................... 79

Kết luận chương 3 ......................................................................................... 84
KẾT LUẬN .................................................................................................... 85
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 87



DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
HN&GĐ

:

Hơn nhân và gia đình

NCTN

:

Người chưa thành niên

TAND

:

Tòa án nhân dân


DANH MỤC CÁC BẢNG

Số hiệu

Tên bảng

Trang

Bảng 2.1


Vụ việc hôn nhân và gia đình liên quan đến người
chưa thành niên

40

Bảng 2.2

Chất lượng giải quyết

41

Bảng 2.3

Yêu cầu khởi kiện liên quan đến quyền thăm nom,
chăm sóc, ni dưỡng

42

u cầu khởi kiện liên quan đến quyền, lợi ích của
người chưa thành niên

50

Yêu cầu khởi kiện liên quan đến quyền tài sản của
người chưa thành niên

54

Bảng 2.4


Bảng 2.5


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em được coi là một truyền thống tốt
đẹp của dân tộc Việt Nam. Minh chứng là khoản 1 Điều 14; khoản 1 Điều 37
Hiến pháp năm 2013, đã nêu rõ:
Ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam các quyền con
người, quyền công dân về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội
được công nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm theo Hiến pháp và
pháp luật... Nhà nước bảo hộ quyền lợi của trẻ em, trẻ em được Nhà
nước, gia đình và xã hội bảo vệ, chăm sóc và giáo dục, nghiêm cấm
những hành vi vi phạm quyền trẻ em [25].
Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/06/2005 của Bộ chính trị “Về chiến
lược cải cách tư pháp đến năm 2020” đã khẳng định:
Đòi hỏi của công dân và xã hội đối với cơ quan tư pháp ngày
càng cao; các cơ quan tư pháp phải thực sự là chỗ dựa của nhân dân
trong việc bảo vệ công lý, quyền con người, đồng thời phải là công
cụ hữu hiệu bảo vệ pháp luật và pháp chế xã hội chủ nghĩa… Xác
định rõ chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền và hoàn thiện tổ chức, bộ
máy các cơ quan tư pháp. Trọng tâm là xây dựng, hoàn thiện tổ
chức và hoạt động của Tòa án nhân dân [4].
Điều đó cho thấy vấn đề đảm bảo quyền của NCTN cũng như vai trò
của cơ quan tư pháp được Đảng và Nhà nước ta đặc biệt quan tâm và là một
trong những hoạt động trọng tâm trong công cuộc cải cách tư pháp theo
hướng xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
Quyền của NCTN đã và đang là một đề tài dành được nhiều sự quan
tâm nghiên cứu của các nhà luật học bởi nhiều lý do. Thứ nhất, ghi nhận và


1


đảm bảo quyền của NCTN ở Việt Nam là chủ trương của Đảng và Nhà nước
ta đã được khẳng định trong Hiến pháp và pháp luật. Xuất phát từ bản chất
của chế độ ta là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, “của dân, do dân và
vì dân”, quyền lợi của nhân dân, quyền con người của các cá nhân được đặt
lên hàng đầu và được pháp luật bảo vệ. Vì vậy, nghiên cứu về quyền của
NCTN có ý nghĩa trong việc định hướng, xây dựng hệ thống pháp luật nhằm
bảo đảm quyền con người ở Việt Nam. Thứ hai, Đảo đảm quyền của NCTN
là vấn đề luật học – chính trị có tính quốc tế đã và đang là mục tiêu hành động
của tất cả các Nhà nước ở các quốc gia, các vùng lãnh thổ trên thế giới. Vì
vậy, hoạt động đảm bảo quyền của NCTN ở Việt Nam trên thực tế có ý nghĩa
trong việc hịa nhập và thể hiện trách nhiệm của Việt Nam với cộng đồng
quốc tế. Thứ ba, vấn đề quyền của NCTN trên phương diện nghiên cứu luật
học cịn có những quan điểm trái chiều và không thống nhất. Không riêng ở
Việt Nam, các quan niệm về quyền của NCTN cịn có nhiều mâu thuẫn,
chung chung. Vì vậy, nghiên cứu về quyền của NCTN có ý nghĩa thực tiễn
nhằm đóng góp những ý kiến khoa học trong lý luận về quyền con người. Qua
đó nâng cao hiệu quả đảm bảo quyền con người trên thực tế.
Tuy nhiên, đảm bảo quyền của NCTN là một vấn đề sâu, rộng và liên
quan đến nhiều lĩnh vực. Việc nghiên cứu về đảm bảo quyền của NCTN phải
mang tính cụ thể, chuyên sâu và cần đến nhiều biện pháp, chiến lược cụ thể
đối với từng lĩnh vực pháp lý riêng biệt qua đó mới đạt được hiệu quả thực tế.
Với mong muốn tìm hiểu và đưa ra những giải pháp nâng cao chất lượng đảm
bảo quyền của NCTN ở Việt Nam, tác giả dành sự quan tâm đặc biệt đến lĩnh
vực đảm bảo quyền của NCTN trong hoạt động xét xử vụ việc HN&GĐ vì
những lý do sau đây:
Một là, do những đặc điểm khách quan về thể chất, nhận thức, tâm

sinh lý mà giữa các nhóm đối tượng chủ thể của quan hệ pháp luật có năng

2


lực hành vi khác nhau, nên cách thức tham gia quan hệ pháp luật của họ
cũng khác nhau và khó có sự bình đẳng. Nên pháp luật cũng có những quy
định riêng đối với từng đối tượng đặc thù, điển hình trong số đó là nhóm đối
tượng NCTN.
Trong khi đó quyền của NCTN được quy định trong một số ngành luật
cịn chưa rõ ràng, khó cho Tịa án thực hiện chức năng bảo vệ quyền con
người. Hơn nữa, xuất phát từ thực tế tham gia tố tụng tại Tòa án của NCTN
với tư cách đương sự, tác giả nhận thấy việc đảm bảo quyền của NCTN trong
tố tụng dân sự, Luật HN&GĐ, Luật trẻ em cịn nhiều hạn chế. Vì vậy, việc
nghiên cứu đề tài có ý nghĩa thực tiễn sâu sắc trong việc đảm bảo quyền của
NCTN nói riêng và bảo đảm quyền con người ở Việt Nam nói chung.
Thứ hai, hoạt động nghiên cứu khoa học pháp lý về quyền của NCTN
ở Việt Nam, có ý nghĩa thực tiễn to lớn. Tuy nhiên, tác giả nhận thấy thực
trạng nghiên cứu khoa học về NCTN chủ yếu dành sự quan tâm đến đối
tượng bị can, bị cáo là NCTN. Đối với vấn đề đảm bảo quyền của NCTN
trong hoạt động xét xử vụ việc HN&GĐ còn thiếu nhiều sự nghiên cứu khoa
học pháp lý. Điều này cho thấy việc đảm bảo quyền của NCTN hiện nay
chưa thực sự đầy đủ.
Thứ ba, trong điều kiện kinh tế - xã hội ở nước ta hiện tại, nhóm đối
tượng này đang ngày càng bị xâm hại về quyền và tham gia nhiều hơn vào
quan hệ pháp luật HN&GĐ. Thực tiễn hoạt động của TAND nói chung,
TAND quận Bắc Từ Liêm, thành phố Hà Nội nói riêng cho thấy sự gia tăng
về số lượng các vụ việc HN&GĐ có sự tham gia của đương sự là NCTN, và
trong nhiều trường hợp quyền của họ chưa được đảm bảo.
Từ những thực trạng đó, việc nghiên cứu đề tài: “Đảm bảo quyền của

người chưa thành niên trong hoạt động xét xử các vụ việc hôn nhân và gia
đình - qua thực tiễn Tịa án nhân dân quận Bắc Từ Liêm, thành phố Hà Nội”
có ý nghĩa lý luận và thực tiễn sâu sắc.
3


2. Tình hình nghiên cứu
Đảm bảo quyền của người chưa thành niên là đề tài được quan tâm
nghiên cứu của nhiều người và dưới nhiều khía cạnh khác nhau. Tuy nhiên
các nghiên cứu chủ yếu tiếp cận vấn đề một cách đơn lẻ, riêng biệt theo từng
vấn đề cụ thể như các quyền về nhân thân, quyền của bị can, bị cáo, quyền
trong tố tụng dân sự. Và có thể liệt kê đến một số cơng trình nghiên cứu khoa
học tiêu biểu như:
Luận án Tiến sĩ luật học "Chế độ tài sản của vợ, chồng theo Luật Hôn
nhân và gia đình Việt Nam năm 2000", của Nguyễn Văn Cừ, Trường Đại học
Luật Hà Nội, 2004;
Luận văn Thạc sĩ luật học, "Giải quyết tranh chấp tài sản của vợ chồng
khi ly hơn theo Luật Hơn nhân và gia đình Việt Nam năm 2000”, của Bùi Thị
Mừng, Trường Đại học Luật Hà Nội;
Những luận án, luận văn trên các tác giả đi vào nghiên cứu về tài sản
của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân và ly hôn, đề cập vấn đề bảo vệ quyền
lợi của phụ nữ song chưa đề cập đến bảo vệ quyền lợi về tài sản của con.
Khóa luận tốt nghiệp “Nguyên tắc bảo vệ quyền lợi của cha, mẹ và con
trong Luật Hơn nhân và gia đình Việt Nam năm 2000", của Lê Thu Lý,
Trường Đại học Luật Hà Nội, 2008;
Khóa luận tốt nghiệp "Nguyên tắc bảo vệ quyền lợi của phụ nữ và trẻ
em khi ly hơn theo Luật Hơn nhân và gia đình Việt Nam năm 2000", của
Nguyễn Thị Phương Thảo, Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội, 2007;
Khóa luận tốt nghiệp "Bảo vệ quyền lợi của con khi cha mẹ ly hôn", của
Hồ Thị Nga, Trường Đại học Luật Hà Nội, 2007;

Luận văn thạc sĩ luật học “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về quyền
và nghĩa vụ của cha mẹ đối với con sau khi ly hôn”, của Nguyễn Thị Thúy
An, Trường Đại học Luật Hà Nội, 2017;

4


Luận văn Thạc sĩ luật học "Nguyên tắc bảo vệ quyền lợi chính đáng
của vợ và các con khi vợ chồng ly hơn theo luật Hơn nhân và gia đình Việt
Nam năm 2000", của Lê Thu Trang, 2012...Các tác giả đã nghiên cứu những
quyền lợi chính đáng của phụ nữ và trẻ em nói chung hoặc quyền lợi của trẻ
em khi vợ chồng ly hôn mà chưa đề cập tới việc đảm bảo quyền của con chưa
thành niên khi cha mẹ ly hơn theo Luật hơn nhân và gia đình năm 2014.
Bài viết “Vấn đề cấp dưỡng trong Luật HN&GĐ năm 2000”, của Tiến
sĩ Nguyễn Phương Lan – Trường Đại học Luật Hà Nội, đăng trên Tạp chí
Luật học, số 1/2001;
Bài viết “Về việc xem xét nguyện vọng của con khi giải quyết vấn đề
giao con cho ai nuôi trong các vụ án ly hôn”, của ThS. Bùi Thị Mừng –
Trường Đại học Luật Hà Nội, đăng trên Tạp chí Luật học, số 5/2004;
Bài viết “Về mức cấp dưỡng nuôi con sau khi ly hôn”, của Phạm Thanh
Hải, đăng trên Tạp chí Dân chủ và pháp luật, số 4/2001.
Qua nghiên cứu những cơng trình nêu trên cho thấy, các tác giả chỉ đề
cập mặt này hay mặt khác trong việc giải quyết hậu quả của ly hôn, mới chỉ
dừng lại ở việc phân tích, các quy định của pháp luật hơn nhân và gia đình về
quyền của con mà chưa đề cập hoặc ít đề cập đến thực tiễn thi hành các quy
định của pháp luật về vấn đề trên, cũng như chưa có cơng trình nào nghiên cứu
một cách hệ thống đầy đủ, chuyên sâu vấn đề đảm bảo quyền của người chưa
thành niên trong vụ việc hôn nhân và gia đình, đặc biệt nghiên cứu qua thực
tiễn xét xử tại Tòa án trên địa bàn thành phố Hà Nội thì hồn tồn chưa có,
khơng trùng lặp về nội dung so với các cơng trình nghiên cứu từ trước đến nay.

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn về quyền của
NCTN trong hoạt động xét xử vụ việc HN&GĐ qua thực tiễn TAND quận

5


Bắc Từ Liêm, thành phố Hà Nội, tác giả đề xuất những quan điểm, giải pháp
nhằm đảm bảo quyền của NCTN trong hoạt động xét xử vụ việc HN&GĐ qua
thực tiễn TAND quận Bắc Từ Liêm nói riêng và hệ thống TAND nói chung
để đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp trong hoạt động của cơ quan xét xử ở
giai đoạn mới.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để thực hiện mục đích trên, luận văn có những nhiệm vụ sau đây:
- Nghiên cứu những vấn đề lý luận về đảm bảo quyền của NCTN trong
hoạt động xét xử vụ việc HN&GĐ.
- Phân tích và làm rõ thực trạng các quy phạm pháp luật, người tiến
hành tố tụng liên quan đến đảm bảo quyền của NCTN trong hoạt động xét xử
vụ việc HN&GĐ qua thực tiễn TAND quận Bắc Từ Liêm, thành phố Hà Nội
hiện nay.
- Đề xuất một số giải pháp nhằm tăng cường đảm bảo quyền của NCTN
trong hoạt động xét xử vụ việc HN&GĐ qua thực tiễn TAND quận Bắc Từ
Liêm, thành phố Hà Nội nói riêng và hệ thống cơ quan xét xử nói chung.
4. Đối tượng nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn về
đảm bảo quyền của NCTN trong hoạt động xét xử vụ việc HN&GĐ qua thực
tiễn TAND quận Bắc Từ Liêm, thành phố Hà Nội hiện nay.
5. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu của luận văn là hoạt động đảm bảo quyền của

NCTN trong hoạt động xét xử vụ việc HN&GĐ qua thực tiễn TAND quận
Bắc Từ Liêm, thành phố Hà Nội; không bao gồm vợ, chồng là NCTN.
Về không gian và thời gian: Học viên nghiên cứu đề tài này dựa trên cơ
sở thực tiễn hoạt động giải quyết các vụ việc HN&GĐ có NCTN tham gia tố
tụng tại TAND quận Bắc Từ Liêm, thành phố Hà Nội, trong khoảng thời gian
từ tháng 1 năm 2015 đến 2017.
6


6. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn kết hợp nhiều phương pháp, bao gồm: phân tích, tổng hợp,
thống kê, luật học so sánh, phương pháp tiếp cận dựa trên quyền, để luận giải
làm rõ mục tiêu, nhiệm vụ của luận văn cũng như những vấn đề nghiên cứu
được đặt ra.
7. Ý nghĩa của đề tài
Luận văn đưa ra khái niệm bảo đảm quyền của NCTN dưới góc độ
khoa học pháp lý HN&GĐ; hệ thống hóa các quy phạm pháp luật dân sự Việt
Nam, luật HN&GĐ, luật trẻ em về đảm bảo quyền của NCTN; chỉ ra những
mặt hạn chế của thực trạng áp dụng pháp luật Việt Nam về vấn đề này; đề
xuất các giải pháp hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả hoạt động đảm
bảo quyền của NCTN trong pháp luật dân sự, luật HN&GĐ, luật trẻ em.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về đảm bảo quyền của NCTN trong
hoạt động xét xử vụ việc HN&GĐ.
Chương 2: Thực trạng đảm bảo quyền của NCTN trong hoạt động xét
xử vụ việc HN&GĐ qua thực tiễn TAND quận Bắc Từ Liêm.
Chương 3: Quan điểm, giải pháp đảm bảo quyền của NCTN trong hoạt
động xét xử vụ việc HN&GĐ.


7


Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ ĐẢM BẢO QUYỀN
CỦA NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN TRONG HOẠT ĐỘNG XÉT XỬ
VỤ VIỆC HƠN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH
1.1. Khái niệm, đặc điểm và sự cần thiết đảm bảo quyền của người
chưa thành niên trong hoạt động xét xử vụ việc hôn nhân và gia đình
1.1.1. Sự cần thiết đảm bảo quyền của người chưa thành niên trong
hoạt động xét xử vụ việc hôn nhân và gia đình
1.1.1.1. Xuất phát từ hậu quả pháp lý và xã hội của việc ly hôn
Ly hôn là một hiện tượng xã hội xuất hiện ngày càng nhiều cùng với sự
phát triển của xã hội và ngày càng được xã hội quan tâm vì những hậu quả
nặng nề, khơng mong muốn của nó [51]. Khi cuộc sống vợ chồng rơi vào tình
trạng trầm trọng, đời sống chung khơng thể kéo dài, mục đích của hơn nhân
khơng đạt được thì ly hơn là lối thốt cho cuộc sống bế tắc, khơng cịn tình
cảm của người cha, người mẹ. Nhưng hậu quả pháp lý và xã hội mà nó để lại
ảnh hưởng nghiêm trọng đến một đối tượng vốn là niềm hạnh phúc của hai vợ
chồng, đó là những con chưa thành niên.
Gia đình là tập hợp những người gắn bó với nhau do hơn nhân, quan
hệ huyết thống hoặc quan hệ nuôi dưỡng. Trên phương diện pháp lý, khi ly
hôn quan hệ hôn nhân chấm dứt, các quyền và nghĩa vụ của vợ chồng đối
với nhau khơng cịn; tuy nhiên quan hệ huyết thống hay quan hệ nuôi
dưỡng giữa cha mẹ và con, các quyền và nghĩa vụ của cha mẹ đối với con
vẫn không thay đổi.
Trên phương diện đạo đức, cha mẹ là người sinh thành ra các con, có
trách nhiệm chăm sóc, ni dưỡng khi các con chưa thể tự lo cho bản thân
mình mà khơng phụ thuộc vào hồn cảnh gia đình. Khi ly hơn, vợ chồng đã


8


tìm thấy lối thốt cho bản thân, mong muốn cuộc sống riêng cho mình và
khơng cịn chung sống là điều dễ hiểu; nhưng lại không thể tránh khỏi việc
gây thiệt thịi cho con - những đứa trẻ vơ tội trong sự tan vỡ của gia đình, mất
đi quyền được sống chung với cha mẹ. Vì vậy, pháp luật quy định con chỉ
được sống với một người là cha hoặc mẹ. Đó là hậu quả pháp lý mà con chưa
thành niên phải chịu, dù khơng mong muốn. Vì vậy, để đảm bảo quyền của
con chưa thành niên, pháp luật quy định con được sống với một người có khả
năng bảo đảm quyền lợi về mọi mặt cho chúng, còn người kia sẽ thực hiện
nghĩa vụ của mình một cách gián tiếp. Sự thiệt thịi, mất mát khơng chỉ dừng
lại ở việc chúng không được sống cùng cả cha và mẹ mà ngay cả sự gần gũi,
gắn bó giữa các anh, chị, em trong gia đình cũng bị chia rẽ. Bởi lẽ, khi một
người khơng đủ khả năng chăm sóc cho tất cả các con thì họ buộc phải lựa
chọn người con nào ở với mình thì quyền lợi của chúng sẽ được đảm bảo hơn.
Quyết định khó khăn đó cũng là để bảo đảm quyền lợi mọi mặt cho con,
nhưng lại làm mất đi quyền được sống trong môi trường gia đình đầm ấm,
hịa thuận với tình cảm u thương giữa các thành viên trong gia đình.
Sau khi ly hơn, quyền và nghĩa vụ giữa cha mẹ và con vẫn không hề
thay đổi nhưng do con chỉ được sống với một người nên cách thức thực hiện
các quyền và nghĩa vụ của cha mẹ cũng có sự thay đổi, đặc biệt là đối với
người không trực tiếp nuôi con. Người con chỉ nhận được sự chăm sóc, ni
dưỡng trực tiếp bởi một người và người kia thực hiện quyền và nghĩa vụ của
mình một cách gián tiếp. Đối với người khơng trực tiếp ni con, con chỉ
nhận được sự chăm sóc, nuôi dưỡng qua việc thăm nom, cấp dưỡng. Đây chỉ
là một sự cố gắng bù đắp chứ không thể đảm bảo quyền được cha mẹ trơng
nom, ni dưỡng, chăm sóc. Chính những hậu quả pháp lý đó đã gây ra
những hậu quả về mặt xã hội rất nặng nề, ảnh hưởng tới cuộc sống và sự phát

triển lành mạnh về thể chất, trí tuệ và đạo đức của con chưa thành niên.

9


Cha mẹ bất hồ ln ảnh hưởng tới sự phát triển tâm lý của con. Những
cuộc xung đột trước mặt con lúc nào cũng có hại và đó khơng phải là việc
thực hiện nghĩa vụ yêu thương con, chăm lo việc giáo dục, làm gương tốt cho
con về mọi mặt để con phát triển lành mạnh trở thành người con hiếu thảo của
gia đình, cơng dân có ích cho xã hội mà đó là những tì vết xấu, hằn sâu trong
tâm trí trẻ. Dễ rơi vào trạng thái ln lo lắng, bất an, có cảm giác bị bỏ rơi.
Khó tránh khỏi việc trẻ tự buộc tội mình có phần lỗi trong sự chia ly của cha
mẹ. Sự buồn bã, suy nhược, sự cách ly, mất ngủ, những cơn ác mộng và
những nỗi sợ hãi, ám ảnh... đều có khả năng khiến trẻ mắc tâm bệnh. Khơng ít
trường hợp trẻ chuyển sự thơ bạo trong gia đình sang những quan hệ xã hội,
sống mặc cảm, khép kín, rối loạn nhân cách dễ rơi vào con đường phạm pháp
và là nguy cơ tăng tỷ lệ trẻ em lang thang [39].
Từ những mất mát, thiệt thịi khơng dễ bù đắp, những nguy cơ khó
tránh, những hậu quả xã hội nặng nề, đảm bảo quyền của con chưa thành niên
có cha mẹ ly hơn là hoạt động cấp thiết không chỉ riêng ai mà của toàn xã hội.
Trẻ em là hạnh phúc của gia đình, là tương lai của đất nước, kế tục sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; nếu không được sự quan tâm đặc biệt và
kịp thời của xã hội, sự bảo vệ của pháp luật thì thế hệ tương lai của hôm nay
không thể trở thành những công dân có ích cho xã hội mai sau.
1.1.1.2. Tình trạng vi phạm quyền của người chưa thành niên
Tất cả NCTN có quyền được bảo vệ khỏi sự xâm hại do bất cứ ai gây ra
– dù đó là cha mẹ, thầy cô... Hành vi xâm phạm quyền NCTN bao gồm các
hành vi gây tổn hại về thể chất, tình cảm, tâm lý, danh dự, nhân phẩm... dưới
các hình thức bạo lực, bóc lột, lạm dụng, xâm hại tình dục, mua bán, bỏ rơi,
bỏ mặc và các hình thức gây tổn hại khác.

Các hình thức xâm hại mà các em phải hứng chịu đều có hại, bất kể
tính chất hoặc mức độ nghiêm trọng của hành vi xâm hại. Ngoài những tổn

10


thương và đau đớn không mong muốn, các hành vi xâm hại còn làm giảm ý
thức của trẻ về giá trị bản thân và cản trở sự phát triển của các em. Tuy
nhiên, người ta thường lấy lý do rằng bạo lực đối với các em là cần thiết
hoặc không thể tránh khỏi. Bạo lực có thể được ngầm chấp nhận do thủ
phạm thường là người thân, hoặc được coi như là việc nhỏ, không quan
trọng. Xấu hổ hoặc sợ bị trả thù là nguyên nhân che giấu ký ức về bạo lực
hoặc ngăn cản tố cáo bạo lực. Do thủ phạm không bị trừng phạt và bạo lực
kéo dài khiến nạn nhân tin rằng bạo lực là chuyện bình thường. Như vậy,
bạo lực được che giấu, ngụy trang, khiến cho công tác phát hiện, ngăn chặn
và chấm dứt bạo lực trở nên khó khăn.
Bạo lực trong cuộc sống của NCTN có thể được khái quát dưới bốn
dạng: Kỷ luật bạo lực và xâm hại trong gia đình; bạo lực học đường; tử vong
do bạo lực và xâm hại tình dục. Số liệu thống kê cho thấy NCTN bị bạo lực
trong nhiều hoàn cảnh khác nhau và thường là do chính bàn tay của những
người đang được tin tưởng giao phó chăm sóc– những người các em tương
tác hàng ngày [6].
Tại Lễ phát động tháng hành động vì trẻ em năm 2017, Phó chủ tịch
nước Đặng Thị Ngọc Thịnh cho rằng: Luật Trẻ em là cơ sở pháp lý quan
trọng để đảm bảo thực hiện quyền trẻ em trong tình hình mới và trách nhiệm
thực hiện các cam kết theo Công ước của Liên hợp quốc về quyền trẻ em của
Việt Nam. Theo bà Thịnh, hiện nay tình trạng bạo lực, xâm hại trẻ em là vấn
nạn toàn cầu, trong đó, châu Á là một trong các khu vực có tỷ lệ bạo lực, xâm
hại trẻ em cao. Ở Việt Nam, tình trạng trẻ em bị bạo lực, xâm hại tồn tại và có
xu hướng ngày càng tăng. Đặc biệt, gần đây, xâm hại tình dục trẻ em có chiều

hướng diễn biến phức tạp và gây bức xúc trong dư luận xã hội. Tình trạng trẻ
em bệnh tật, bỏ học, lao động sớm, bị tai nạn thương tích, đuối nước... cịn rất
nhiều, nhất là các em trong gia đình nghèo, thiếu sự chăm sóc, giáo dục và
bảo vệ của gia đình.
11


Ông Youssouf Abdel - Jelil, Trưởng đại diện UNICEF Việt Nam chia
sẻ: Bạo lực, xâm hại trẻ em là một vấn đề tồn cầu. Ơng đã tiết lộ một con số
lớn kinh ngạc: Trên thế giới, ước tính được cơng bố gần đây cho thấy có 120
triệu trẻ em gái và 73 triệu trẻ em trai là nạn nhân bị bạo lực tình dục và gần
một tỷ trẻ em thường xuyên phải chịu hình phạt thể chất. Ở châu Á, với trẻ
em 2 -17 tuổi, cứ 3 trẻ thì có 2 em từng chịu ít nhất một hình thức bạo lực,
xâm hại nghiêm trọng. Việt Nam cũng khơng nằm ngồi hiện tượng này. Ơng
Abdel - Jelil thơng tin: Theo Báo cáo điều tra đánh giá các mục tiêu trẻ em và
phụ nữ Việt Nam (báo cáo MICS) năm 2014, 68% trẻ em dưới 15 tuổi đã phải
chịu hình thức kỷ luật thể chất nào đó trong gia đình, khoảng 20% trẻ em gái
và trẻ em trai 8 tuổi nói rằng các em bị trừng phạt thân thể ở trường; 3% phụ
nữ đã bị xâm hại tình dục trước năm 15 tuổi [5].
Ở Việt Nam, vấn đề bạo lực, xâm hại trẻ em, đặc biệt là xâm hại tình
dục trẻ em có những diễn biến mới, phức tạp. Năm 2017, các vụ xâm hại tình
dục trẻ em mang tính loạn ln và vi phạm nghiêm trọng đạo đức đang có xu
hướng tăng, đồng thời đã xuất hiện thêm các nguy cơ xâm hại tình dục trẻ em
thơng qua mạng xã hội, người Việt Nam ra nước ngồi xâm hại tình dục trẻ
em, người nước ngồi vào Việt Nam xâm hại tình dục trẻ em, xâm hại tình
dục trẻ em trai. Trong năm 2017, các vụ việc bạo lực trẻ em trong cơ sở giáo
dục mầm non, bạo lực nghiêm trọng trong gia đình do cha, mẹ gây ra tiếp tục
gây bức xúc dư luận. Số trẻ em dưới 4 tuổi bị bạo lực có số lượng lớn nhất.
Theo thống kê, mỗi năm ở Việt Nam có khoảng 4.000 vụ đánh đập, ngược
đãi, bạo hành trẻ em. Trong đó có khoảng 100 trẻ bị thiệt mạng do bạo hành.

Nhiều trường hợp không chỉ ảnh hưởng đến sức khỏe, thể xác, để lại thương
tật nặng mà thậm chí cịn gây tổn hại tâm lý hoặc dẫn đến tử vong [18].
Điều đó cho thấy bạo lực, xâm hại NCTN khơng chỉ tác động lên
chính bản thân các em và gia đình bị ảnh hưởng mà còn cả xã hội. Vấn nạn

12


này làm cản trở tăng trưởng kinh tế do mất năng suất lao động, khuyết tật và
giảm chất lượng cuộc sống. Tất cả những yếu tố này cản trở một quốc gia
phát triển tồn diện [12]. Vì vậy đảm bảo quyền của NCTN ở cấp độ phòng
ngừa là mục tiêu được ưu tiên trước nhất. Chúng ta phải phòng ngừa từ khi
các em chưa bị xâm hại, chứ không phải để đến khi các em bị xâm hại rồi
mới can thiệp. Do đó việc phân giải giao con cho ai trực tiếp chăm sóc ni
dưỡng để đảm bảo quyền lợi tốt nhất cho trẻ là một trọng trách lớn mà tồn
xã hội đặt niềm tin ở Tịa án.
1.1.1.3. Ý nghĩa của việc điều chỉnh bằng pháp luật trong việc đảm bảo
quyền của người chưa thành niên
- Là cơ sở pháp lý để nâng cao trách nhiệm của cha mẹ: Cha mẹ là
người sinh thành ra các con, cho con sự sống, vì vậy cha mẹ cũng là người có
trách nhiệm ni dưỡng con. Dù cuộc sống khó khăn hay đầy đủ, cha mẹ có
hạnh phúc hay đã ly hơn cũng khơng từ chối được trách nhiệm của mình.
Trong gia đình, việc cùng nhau chăm sóc, dạy dỗ con là hạnh phúc của vợ
chồng. Sự vất vả, bận rộn luôn được động viên bởi ý nghĩ là để đem lại sự đầy
đủ, niềm vui cho con. Tuy nhiên, khi mục đích của hơn nhân khơng đạt được,
vợ chồng ly hơn thì người con cũng rất dễ rơi vào tình trạng bị bỏ rơi hoặc chỉ
nhận được một nửa sự yêu thương. Vì vậy, để bảo vệ quyền lợi cho con pháp
luật đã quy định nuôi dưỡng con không chỉ là quyền mà cịn là nghĩa vụ của
cha mẹ. Ni dưỡng con là một nghĩa vụ luật định nhằm nâng cao ý thức
trách nhiệm của người cha, người mẹ, đặc biệt là khi họ đã ly hơn. Đó cũng là

cơ sở pháp lý để bảo vệ quyền lợi cho con khi người làm cha làm mẹ không
thực hiện đúng nghĩa vụ của mình [2].
- Sự cụ thể hóa ngun tắc bảo vệ quyền lợi của NCTN trong trường
hợp đặc biệt
Trách nhiệm bảo đảm cho NCTN có sự bảo vệ cần thiết thuộc về gia

13


đình, xã hội và Nhà nước. Trách nhiệm này đặc biệt thuộc về cha mẹ, những
người tạo điều kiện, khuyến khích sự phát triển hài hịa về nhân cách của trẻ
và giúp các em được hưởng các quyền của mình [48]. Vì vậy bảo vệ NCTN
ln là điều được xã hội quan tâm, nhất là trong giai đoạn hiện nay. Cả xã hội
đã luôn cố gắng tạo điều kiện cho NCTN được phát triển một cách toàn diện.
Nhà nước đã đưa ra rất nhiều chủ trương, chính sách và nâng lên thành luật.
Rất nhiều quyền lợi của NCTN được pháp luật bảo vệ như quyền được cha
mẹ chăm sóc, ni dưỡng, được học hành, được vui chơi và phát triển tồn
diện... NCTN có cha mẹ ly hơn, bị mất mơi trường gia đình là một đối tượng
đặc biệt so với những NCTN khác, các em phải chịu nhiều thiệt thòi và bất
hạnh. Do vậy, pháp luật đã có những quy định để đảm bảo quyền lợi cho các
em. Những quy định của Luật HN&GĐ về trách nhiệm của cha mẹ khi ly hơn
và những quyền lợi của NCTN chính là sự cụ thể hoá của nguyên tắc bảo vệ
NCTN trong trường hợp đặc biệt.
- Tiếp nối truyền thống đạo đức tốt đẹp của dân tộc: Truyền thống tình
mẫu tử, tình phụ tử ln chiếm một vị trí thiêng liêng trong trái tim người
Việt. Trước bất cứ hoàn cảnh nào, cuộc sống dù vất vả, lam lũ, đất nước chiến
tranh liên miên nhưng giữa những khó khăn ấy vẫn thấm đượm tình thương
yêu, sự hy sinh của cha mẹ cho con cái; giá trị tốt đẹp ấy đã trở thành truyền
thống dân tộc. Khi xã hội càng phát triển, yêu cầu của nhà nước pháp quyền
ngày càng cao thì sự quan tâm của xã hội đến con chưa thành niên càng được

chú trọng [20]. Sự ghi nhận nghĩa vụ nuôi dưỡng con của cha mẹ trong pháp
luật là một trong những biểu hiện của sự tiếp nối truyền thống đạo đức dân
tộc, đặc biệt là trong Luật HN&GĐ.
- Thể hiện tính công bằng, dân chủ, nhân đạo của pháp luật xã hội chủ
nghĩa: Việc quy định căn cứ ly hôn đã hạn chế được rất nhiều trường hợp
mâu thẫn vợ chồng chưa đến mức trầm trọng thì khơng có căn cứ để Tòa án

14


cho ly hơn. Điều đó đã giảm thiểu được số con chưa thành niên phải chịu hậu
quả của việc ly hôn do những xung đột nhất thời của cha mẹ cũng vì thế mà
giảm đi. Cịn khi đã đủ căn cứ ly hơn, việc duy trì một cuộc hơn nhân đầy
mâu thuẫn sẽ ảnh hưởng xấu đến con chưa thành niên thì việc ly hơn của cha
mẹ ở khía cạnh nào đó cũng là bảo vệ cho con chưa thành niên trước những
hậu quả xấu được tạo ra từ gia đình đầy mâu thuẫn.
Bên cạnh đó quy định về giao con cho ai ni dưỡng vì lợi ích của con
đã thể hiện tính nhân đạo của pháp luật và trong mọi trường hợp thì quyền lợi
của con chưa thành niên luôn được đặt lên hàng đầu, cũng thể hiện được bản
chất nhân đạo của pháp luật xã hội chủ nghĩa.
1.1.2. Khái niệm đảm bảo quyền của người chưa thành niên trong
hoạt động xét xử vụ việc hôn nhân và gia đình
1.1.2.1. Khái niệm người chưa thành niên
- NCTN là những người chưa hoàn toàn phát triển đầy đủ về nhân
cách (thể chất và tinh thần), chưa có đầy đủ quyền lợi và nghĩa vụ của một
công dân. Sự phát triển dần hồn thiện cả về thể chất và trí tuệ của con
người dựa vào độ tuổi. Ở mỗi độ tuổi khác nhau (giữa người thành niên và
chưa thành niên) có sự nhận thức khác nhau; từ đó có khả năng thực hiện
những hành vi ở mức độ khác nhau. Do đó, một người dù khỏe mạnh, có trí
tuệ phát triển bình thường; khơng mắc các bệnh tâm thần hoặc bệnh khác mà

khơng có khả năng nhận thức, làm chủ được hành vi của mình nhưng chưa
đủ 18 tuổi, được coi là NCTN.
Ở Việt Nam, độ tuổi NCTN được xác định thống nhất trong Hiến năm
2013, Bộ luật Dân sự, Bộ luật Hình sự, Bộ luật tố tụng hình sự, Bộ luật Lao
động, Luật xử lý vi phạm hành chính và một số văn bản quy phạm pháp luật
khác. Tất cả các văn bản pháp luật đó đều quy định tuổi của NCTN là dưới 18
tuổi và quy định riêng những chế định pháp luật đối với NCTN trong từng lĩnh

15


vực cụ thể và phù hợp Điều 1 Công ước quốc tế về quyền trẻ em được Đại hội
đồng Liên hợp quốc thông qua ngày 20/11/1989: “Trong phạm vi Công ước
này, trẻ em có nghĩa là người dưới 18 tuổi, trừ trường hợp luật pháp áp dụng
đối với trẻ em có quy định tuổi thành niên sớm hơn” [15, Điều 1].
Tóm lại, khái niệm NCTN được xây dựng dựa trên sự phát triển về tâm
sinh lý của con người và được cụ thể hoá bằng giới hạn độ tuổi trong các văn
bản pháp luật. Theo đó, pháp luật quy định những quyền và nghĩa vụ cụ thể
của NCTN.
Như vậy, khái niệm: NCTN là người dưới mười tám tuổi, chưa phát
triển hồn thiện về thể chất và tinh thần, chưa có đầy đủ các quyền và nghĩa
vụ pháp lý như người đã thành niên.
1.1.2.2. Khái niệm đảm bảo quyền của NCTN trong hoạt động xét xử vụ
việc HN&GĐ
- Khái niệm đảm bảo: Theo Đại từ điển tiếng việt, đảm bảo có nghĩa:
“Làm cho có được điều gì, có đủ, trọn vẹn các điều quy định” [46, tr. 79].
Điều 16 Bộ luật dân sự quy định: “Năng lực pháp luật dân sự của cá
nhân là khả năng của cá nhân có quyền dân sự và nghĩa vụ dân sự... Năng
lực pháp luật dân sự của cá nhân có từ khi người đó sinh ra và chấm dứt khi
người đó chết” [28]. Quy định này là tiền đề pháp lý cần thiết để cá nhân

tham gia các quan hệ pháp luật dân sự nói chung, quan hệ pháp luật HN&GĐ
nói riêng. Tuy nhiên, khả năng thực hiện các quyền, nghĩa vụ của các chủ thể
này, hay nói cách khác là năng lực hành vi tố tụng dân sự của họ là khác
nhau. Theo đó, đương sự chưa đủ 18 tuổi thì khơng có năng lực hành vi tố
tụng dân sự đầy đủ, họ thực hiện quyền của mình thơng qua người đại diện.
Từ đó, có thể đưa ra khái niệm: Đương sự chưa thành niên trong vụ
việc HN&GĐ là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan chưa đủ mười tám
tuổi, tính đến thời điểm họ tham gia vào quan hệ pháp luật tố tụng dân sự bị
xâm phạm về quyền, lợi ích hợp pháp.
16


Bảo đảm quyền con người trong vụ việc HN&GĐ là hoạt động của các
cơ quan tiến hành tố tụng tạo ra các tiền đề, các điều kiện pháp lý nhằm đảm
bảo quyền con người của đương sự trong quan hệ pháp luật HN&GĐ nói
chung và đương sự là NCTN nói riêng.
Luật HN&GĐ có nhiều quy định đối với con chưa thành niên nhưng lại
không quy định như thế nào là con chưa thành niên. Tuy nhiên có quy định
dẫn chiếu đến Bộ luật dân sự. Theo quy định tại khoản 1 Điều 21 Bộ luật dân
sự: “NCTN là người chưa đủ mười tám tuổi” [33]. Như vậy có thể khái niệm:
Con chưa thành niên là con chưa đủ mười tám tuổi.
Từ những phân tích trên, tác giả đưa ra khái niệm “Đảm bảo quyền của
NCTN trong hoạt động xét xử vụ việc HN&GĐ” như sau:
Đảm bảo quyền của NCTN trong vụ việc HN&GĐ là hoạt động của cơ
quan tiến hành tố tụng thực hiện các hoạt động tố tụng nhằm tôn trọng, bảo
vệ hoặc tạo ra điều kiện cho đương sự là người chưa đủ mười tám tuổi thực
hiện các quyền con người của mình trong quan hệ pháp luật HN&GĐ.
1.1.3. Đặc điểm hoạt động đảm bảo quyền của người chưa thành
niên trong hoạt động xét xử vụ việc hôn nhân và gia đình
Một là, chủ thể của hoạt động bảo đảm quyền của NCTN là cơ quan

tiến hành tố tụng. Hoạt động bảo đảm quyền con người của đương sự là
NCTN, về bản chất là việc tuân theo pháp luật tố tụng dân sự tạo ra những
điều kiện nhằm thực hiện và bảo vệ quyền con người. Muốn vậy, chủ thể tiến
hành hoạt động này phải mang quyền lực Nhà nước, để bảo đảm sự cưỡng chế
hoặc sự áp dụng pháp luật có hiệu quả.
Hai là, khách thể của hoạt động bảo đảm quyền của NCTN trong pháp
luật HN&GĐ là quyền con người của đương sự chưa thành niên. NCTN là
nhóm đối tượng được sự ưu tiên và bảo vệ trong quan hệ pháp luật nói chung
và quan hệ pháp luật tố tụng dân sự nói riêng. Các quan hệ pháp luật nội dung

17


×