Tải bản đầy đủ (.docx) (11 trang)

MỸ THUẬT HỌC ĐẠI CƯƠNG: Thế nào là tính hiện đại trong mỹ thuật Việt Nam?  

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (59.35 KB, 11 trang )

Môn: MỸ THUẬT HỌC ĐẠI CƯƠNG

BÀI ĐIỀU KIỆN
Đề bài: Thế nào là tính hiện đại trong mỹ thuật Việt Nam?


Bài làm
Ở VN, nói chung tính từ Hiện đại thường được hiểu với nghĩa m ới,
hiện đại, thuộc về thời ngày nay và mặc nhiên bao hàm phẩm ch ất tiến
bộ. Không ai muốn bị xem là bảo thủ, cổ hủ, “âm lịch” cả. Phương châm
sáng tác VHNT cũng là làm sao kết hợp được “tính dân tộc và tính hi ện
đại”. Tính hiện đại ở đây tạm được hiểu là dùng nh ững y ếu t ố kỹ thu ật,
chất liệu, hình thức… (có tính cách tân) Phương Tây để chuy ển tải đ ề tài,
nội dung, tư tưởng tình cảm, “hồn dân tộc”của đời sống xã hội VN hiện t ại
vào trong tác phẩm nghệ thuật. Và như vậy dù muốn hay không, nh ững
yếu tố CNHĐ Phương Tây có thể khơng được chấp nhận một cách cơng
khai trong tồn bộ bình diện xã hội nhưng lại được chấp nhận nh ư nh ững
thủ pháp đơn lẻ ở từng cá nhân, từng tác phẩm cụ th ể đ ể đi đến nh ững
sáng tác hội đủ tính chất “Dân tộc- Hiện đại”. Tuy nhiên, đ ể đi đến s ự
nhận thức và dư luận xã hội chấp nhận những yếu tố CNHĐ hiện h ữu
trong sáng tác VHNT là một q trình khơng đơn giản, địi h ỏi n ỗ l ực c ủa
bao thế hệ nghệ sĩ vật lộn trong sáng tạo, vượt qua thử thách của thời
cuộc, định kiến… nhiều khi phải trả giá đắt cho những ước v ọng cách tân
nghệ thuật.
Trong lĩnh vực VHNT thì những sáng tác theo h ướng CNHĐ ở Mỹ
thuật có phần nổi trội hơn cả so với các ngành nghệ thuật khác.
Có thể thấy, CNHĐ trong MTVN xuất hiện vào khoảng gi ữa nh ững
năm 30 của thế kỷ XX, cùng với việc xuất hiện thế hệ hoạ sĩ tự do đầu
tiên tốt nghiệp trường MTĐD và phát triển âm thầm, bền bỉ song hành
theo tiến trình lịch sử. Tuy nhiên, do những đặc điểm th ời cuộc, chính trị
xã hội và đặc tính dân tộc, một vài trường phái nghệ thuật CNHĐ không


phát triển mạnh mẽ, đầy đủ thành trào lưu như ở xã hội Ph ương Tây mà
chỉ là những yếu tố, những cá nhân nhỏ lẻ trong hoạt động mỹ thuật ho ặc


có thời điểm dường như những sáng tác CNHĐ trong mỹ thuật tạm l ắng
xuống… Mặc dù vậy, xét tương quan xuất hiện về mặt hình th ức, khả năng
tác động trong xã hội và số lượng nghệ sĩ tham gia thì CNHĐ trong mỹ
thuật có tiềm năng và có phần gây ấn tượng mạnh mẽ, khí th ế h ơn c ả so
với các ngành VHNT khác.
Nảy sinh trên nền văn minh, văn hố nơng nghiệp lúa nước, Mỹ
thuật Việt Nam có truyền thống từ lâu đời phẩm chất trang trí, ước l ệ,
trọng hiện thực, giản dị… với một số thành tựu đặc sắc. Mỹ thuật VN hiện
đại được tính từ thời điểm sự kiện thành lập tr ường MTĐD năm 1925 ở
Hà Nội, với kiến thức tạo hình Châu Âu, quan niệm sáng tác mỹ thuật khác
các giai đoạn lịch sử trước…đã mở sang trang mới cho hoạt đ ộng mỹ thu ật
trong xã hội, chấm dứt giai đoạn khuyết danh trong sáng tác mỹ thu ật,
hình thành một lớp người mới trong xã hội: Hoạ sĩ tự do. Có th ể coi đây
cũng là mốc thời gian đánh dấu sự xâm nhập, tiếp thu nh ững luồng t ư
tưởng, quan niệm của CNHĐ trực tiếp vào trong lĩnh vực mỹ thuật song
song với chủ nghĩa cổ điển Pháp được giảng dạy trong trường MTĐD, mặc
dù trước đó qua sách báo, qua sự truyền bá của người Pháp… nh ững t ư
tưởng Tiền phong, những lý luận cách mạng đã được biết đến ít nhiều
trong xã hội.
Nhiều ý kiến của giới mỹ thuật Việt Nam đánh giá cao hi ện t ượng
lịch sử là hoạ sĩ Victor Tardieu (1870-1937)- Hiệu tr ưởng đ ầu tiên c ủa
trường MTĐD (Ông sáng tác theo chủ nghĩa Cổ điển nhưng chịu ảnh
hưởng của các hoạ sĩ Ấn tượng), mở trường vào năm 1925, truy ền th ụ
kiến thức tạo hình và quan niệm chủ nghĩa Cổ điển Pháp cho sinh viên,
giúp cho các thế hệ hoạ sĩ trường MTĐD vững vàng về cơ bản tạo hình và
sáng tác hồn tồn phù hợp với thẩm mỹ dân Việt. Nh ư vậy nh ững sáng tác

của các hoạ sỉ trường MTĐD cũng gần với truyền th ống nghệ thuật hiện
thực của VN hơn và xã hội dễ chấp nhận hơn. Trong khi vào th ời đi ểm


những năm 1920 đang là giai đoạn phát triển bùng n ổ của các trường phái
CNHĐ ở Châu Âu như chủ nghĩa Biểu Hiện (1905- 1920), chủ nghĩa Siêu
Thực (1910- 1920), chủ nghĩa Vị Lai (1910-1920). Tuy nhiên, ngay hi ện
tượng xuất hiện đường sắt xe lửa, kiến trúc thuộc địa cũng nh ư hình th ức
Hiện thực- Ấn tượng trên các sáng tác của các hoạ sĩ trường MTĐD và chất
liệu sơn dầu với Pinceau, dao vẽ…cùng với một số điêu kh ắc c ủa Vũ Cao
Đàm,. George Khánh cũng đã là “Hiện đại” so với hoàn c ảnh chung c ủa xã
hội lúc bấy giờ. Vào những năm 1940, một số sách báo xu ất b ản t ại Pháp
thường được nhập vào VN, trong đó có tờ L’ Illutration với nhiều phiên bản
in màu đẹp đẽ tranh của Picasso, Braques, Matisse…là nguồn thơng tin b ổ
ích cho các hoạ sĩ về mỹ thuật thế giới.
Do hoàn cảnh chiến tranh, điều kiện thời tiết khắc nghiệt và thói
quen không lưu giữ tư liệu của nhiều người Việt cho nên nh ững sáng tác
CNHĐ trong mỹ thuật giai đoạn 1925- 1945 cịn lại rất ít. Cơng chúng h ầu
như không được biết nhiều về các sáng tác loại này. Chỉ có thể qua một số
thơng tin từ các báo thời đó, một vài tác phẩm cịn lại rải rác trong m ột s ố
sưu tập tư nhân, bảo tàng…cũng đủ thấy số lượng hoạ sĩ th ể nghiệm và
các sáng tác theo CNHĐ là không nhiều so với số đông các ho ạ sĩ MTĐD
khác đang theo đuổi lối vẽ hiện thực. Trong hồn c ảnh đó, nh ững sáng tác
theo hướng CNHĐ của Trần Văn Luân (ở Pháp về), Tạ Tỵ *, Nguyễn Đỗ
Cung, Phạm Hầu, Vũ Dương Cư nhìn chung ít ỏi, lạc lõng, ch ưa h ợp v ới
thẩm mỹ chung, chìm nhanh trong những địi hỏi mới của thời cuộc cách
mạng và chủ nghĩa hiện thực. đủ cho thấy vị thế yếu kém của các tìm tịi
theo hướng CNHĐ thời kỳ này, trước u cầu của thực tiễn cách mạng.
Mặc dù vậy, ở vùng tạm chiếm Hà Nội, Sài Gịn ch ắc chắn vẫn có nh ững
hoạ sĩ sáng tác theo hướng CNHĐ mà đến giờ chúng ta m ới ch ỉ biết đ ược

một số tác phẩm có tính chất siêu thực của Hs. Nguyễn Tiến Chung trong
những năm 1950 , và lập thể của Hs.Tạ Tỵ…


Giai đoạn 1954- 1975, đất nước bị chia cắt thành hai mi ền, chi ến
tranh và chế độ chính trị khác nhau đã đẩy hoạt động VHNT hai miền sang
những thái cực khác nhau. Ở miền Bắc, trong hoàn cảnh chiến tranh, đi ều
kiện kinh tế thiếu thốn và tâm lý chung của cả xã hội đang h ừng h ực khí
thế cách mạng, chiến đấu giải phóng miền Nam thì VHNT cũng là m ột
phương tiện tuyên truyền cho mục đích chung đó. Chủ nghĩa HTXHCN v ới
tinh thần phơi phới, lạc quan cách mạng trở thành cách diễn đạt chung
nhất cho mọi hoạt động VHNT, những sáng tác theo hướng CNHĐ khơng
được Đảng, nhà nước, các đồn thể xã hội cổ vũ, trở thành cá biệt, th ường
không có cơ hội xuất hiện cơng khai trong dịng ch ảy chung. Ng ười VN có
đặc tính khơng bao giờ tiếp thu, ảnh hưởng toàn bộ một luồng t ư t ưởng
triết học, một chủ thuyết nào một cách trọn vẹn mà chỉ rút tỉa, r ồi tiếp
biến, ứng dụng những gì phù hợp cho những mục đích tr ước mắt c ủa
mình. Trong quá trình hướng về truyền thống dân tộc, v ới s ự t ự tơn văn
hố sâu sắc, một số hoạ sĩ thế hệ MTĐD với kinh nghiệm nghề nghiệp già
dặn, học vấn uyên bác như Nguyễn Tư Nghiêm, Nguyễn Tiến Chung,
Nguyễn Đỗ Cung...và người có cá tính nghệ thuật rất mạnh như Nguyễn
Sáng bằng những sáng tác cụ thể đã chỉ ra con đường kết hợp giữa tính
Dân tộc và tính Hiện Đại, để từ đó nhiều thế hệ hoạ sĩ tiếp tục tìm kiếm,
đào xới con đường họ đã phát quang. Các hoạ sĩ tìm th ấy nh ững y ếu t ố
tương đồng nghệ thuật lập thể trong trang trí nghệ thuật đồ đồng Đơng
Sơn, điêu khắc Đình Làng, tính chất thơ mộc, giản dị của hình tượng, màu
ngun sắc trang trí, rực rỡ…của phái Dã thú trong tranh dân gian Đơng
Hồ, tính chất kỳ bí, tượng trưng, siêu thực tâm linh trong các điêu kh ắc tôn
giáo cũng như tượng nhà mồ Tây Nguyên lại gợi những liên hệ đến tr ường
phái nghệ thuật lập thể, nghệ thuật ngây th ơ…điều này d ẫn đến nh ững

biểu đạt khác lạ nhất định về mặt hình thức trong một số sáng tác theo
chủ nghĩa HTXHCN, cũng như vài yếu tố của nghệ thuật CNHĐ có c ơ h ội


góp mặt vào dịng chảy chung của hình thức HTXHCN ở VN. Hoạ sĩ
Nguyễn Tư Nghiêm từng nói, đại ý: Khi quay trở về tìm hiểu, sáng tác theo
nghệ thuật điêu khắc Đình Làng, tơi gặp Picasso...
Mặt khác, những tìm tịi có tính chất riêng tư về CNHĐ vẫn xuất
hiện (thường chỉ giới thiệu trong nhóm bạn bè thân, gia đình, thậm chí có
người cịn khơng dám ký tên vào tác phẩm…) trong m ột s ố sán Nhiều khi
vẽ theo CNHĐ trở thành một thứ thời thượng, khoe nhau thì thào bí m ật
như đồ “quốc cấm”. Và chưa cần biết chất lượng nghệ thuật xấu đẹp th ế
nào, những người tạo nên nó thì vẫn cứ hơn người khác ở ch ỗ “hi ện đại,
cách tân” chịu chơi đi trước thời đại. Chính ở trong hồn cảnh này , m ới
bộc lộ nhân cách nghệ sĩ của từng con người.
Có lẽ ảnh hưởng nghệ thuật của “đồng chí” Picasso v ới nh ững tìm
tịi CNHĐ ở miền Bắc là đáng kể nhất, bên cạnh những danh hoạ c ủa ch ủ
nghĩa HTXHCN như Gerasimov, Deneyka, Sarian… và các điêu khắc gia Friz
Kremer; E.V Vuchechiv; Salikhanov được nhiều nghệ sĩ VN h ọc hỏi.
Ở miền Nam, lối sống Phương Tây được du nhập cởi m ở cùng
nhiêù dạng thức văn hố của nó. Các trường phái CNHĐ nh ư Siêu th ực,
Biểu hiện, Lập thể, Đađa, Pop art…đều được các nghệ sĩ trẻ tham khảo
mặc dù lối dạy của trường MT Gia Định vẫn trường quy không khác nhi ều
với chương trình học của trường MTĐD. Những năm 1960, m ột số ho ạ sĩ,
nhà điêu khắc, kiến trúc sư VN du học từ Châu Âu tr ở về Sài Gòn, mang
theo những quan niệm của CNHĐ, tạo nên sự đa dạng trong đ ời s ống mỹ
thuật.Sau năm 1975, đất nước thống nhất, hoạ sĩ hai miền có đi ều ki ện
giao lưu, trao đổi và nghệ thuật cũng dần tr ở lại khơng khí đ ời s ống th ời
bình hơn. Trong khi chủ nghĩa HTXHCN được khuy ến khích và ảnh h ưởng
đến các sáng tác VHNT của nghệ sĩ miền Nam thì sách báo Ph ương Tây,

hàng hoá tiêu dùng, những quan niệm của ngh ệ thuật CNHĐ… cũng theo
những đoàn tàu hỏa xâm nhập dần ra Bắc. Các hoạ sĩ miền Nam vất v ả


làm quen trước chủ nghĩa HTXHCN, trứơc đối tượng nghệ thuật mới và c ố
gắng sáng tác nhập cuộc với khơng khí xã hội đương th ời nh ưng v ới th ời
gian nhìn lại thì rõ ràng q ít sáng tác thành cơng. S ự khơng thành cơng
này có thể có nhiều nguyên nhân: từ quan niệm của nghệ sĩ, ngỡ ngàng
trước yêu cầu và đối tượng mới của nghệ thuật hoặc là cách sáng tác b ị
đóng khung trong “tháp ngà”, thậm chí có th ể đào tạo trong tr ường mỹ
thuật miền Nam trước đây không chú trọng đến các v ấn đề bố cục, ánh
sáng, dáng động…của con người hiện thực trong bối cảnh thiên nhiên?.
Trong khi đó, các hoạ sĩ miền Bắc, đặc biệt là lớp hoạ sĩ thế hệ th ứ ba của
MTVN hiện đại lại hân hoan dò dẫm, thể nghiệm những yếu tố hình th ức
CNHĐ trong sáng tác của mình. Và họ đã thành công, bước đầu mang l ại
cho mỹ thuật một sắc thái mới ngay cả trong nh ững tranh v ề đề tài cơng
nơng binh. Có thể thấy rõ những yếu tố CNHĐ như lập th ể, siêu th ực, đ ồng
hiện, biểu hiện, trừu tượng,…
Nhìn chung, chưa bao giờ CNHĐ chiếm ưu thế so với nghệ thuật
hiện thực trong MTVN hiện đại. CNHĐ vào VN không phát tri ển đ ược có
thể vì hai ngun nhân:
- Điều dễ nhận thấy nhất là thắng lợi của lực lượng Cách m ạng
cùng những tư tưởng của Đảng Cộng Sản với quan điểm Nghệ thuật Vị
Nhân Sinh khiến cho CNHĐ khơng phát triển trong VHNT nói chung và mỹ
thuật nói riêng. Có thời kỳ Kim chỉ nam của nghệ thuật cách mạng là ph ải
ưu tiên phục vụ quần chúng, phục vụ công nông binh. Nghệ thuật tr ở
thành một vũ khí chính trị phục vụ sự nghiệp giải phóng dân t ộc, gi ải
phóng giai cấp, diễn đạt các đường lối của Đảng Cộng Sản c ầm quy ền.
Điều đó dẫn đến vị thế độc tơn của chủ nghĩa hiện thực XHCN.
- Nguyên nhân sâu xa phải xét trên hoàn cảnh của VN giai đoạn

1920-1980 với chiến tranh liên miên, kinh tế kiệt quệ, c ơ s ở vật ch ất
KHKT lạc hậu, dân trí thấp. Xã hội phát triển thiên lệch, gần nh ư “bế quan


toả cảng” đối với thế giới bên ngoài, tàn dư của một nếp sống ti ểu nông,
của chế độ phong kiến, thuộc địa khá nặng nề, các điều kiện dân ch ủ c ủa
một xã hội dân sự kiểu Phương Tây rất hạn chế…
Mặt khác, dân trí, tâm lý thụ cảm thẩm mỹ của phần lớn người dân
(nông dân chiếm tới hơn 80%) vẫn ưa chuộng nh ững hình th ức ngh ệ
thuật dễ hiểu, có tính hiện thực, màu sắc trong sáng, nh ẹ nhàng. N ếu có
tính chất trang trí, ước lệ hay đơi chút phẩm chất siêu th ực, t ượng tr ưng
cũng chẳng sao, cái cần nhất của tác phẩm nghệ thuật là phải có hình
tượng nhân vật rõ ràng, cụ thể, có tích truyện, hiện th ực, mang đến nh ững
ước vọng lạc quan về một đời sống thanh bình. Điều đó d ẫn đ ến h ệ q ủa là
sự thống trội hiển nhiên của nghệ thuật hiện th ực- ấn t ượng th ời kỳ
trường MTĐD những năm 1925-1945 và chủ nghĩa hiên th ực xã hội ch ủ
nghĩa sau này. (Đã có nhiều ý kiến chỉ rõ trong suốt tiến trình l ịch s ử
MTVN, rất hiếm gặp những hình ảnh về sự đau khổ, vất vả, về chi ến
tranh tàn khốc đầu rơi, máu chảy, về cái chết…ngay khi th ời kỳ 19301945, văn học VN hiện đại đã có những tác ph ẩm hiện th ực phê phán c ủa
Ngô Tất Tố, Nguyễn Công Hoan, Nguyên Hồng…nhưng các tác phẩm mỹ
thuật VN thời kỳ này vẫn tìm kiếm vẻ đẹp mơ màng, hồi niệm bình lặng).
Rõ ràng, tính chất lạc quan phơi phới, dễ hiểu của hình th ức HTXHCN đã
tìm được một chỗ dựa vững chắc “thuận lý” của tâm lý thụ c ảm th ẩm mỹ
nông dân. Những năm sau 1975, CNHĐ có cơ h ội phát tri ển h ơn giai đo ạn
trước một chút vì điều kiện kinh tế, KHKT có cải thiện, thơng tin VHNT
nước ngồi vào VN có nhiều hơn và đặc biệt vì hình th ức ch ủ nghĩa
HTXHCN sau một giai đoạn dài phát huy tác d ụng đã b ộc l ộ m ột s ố nh ược
điểm như công thức, sơ lược…dẫn đến các nghệ sĩ muốn tìm nh ững cách
thức biểu đạt khác để phù hợp hơn với tâm thế xã hội đã thay đổi.
Ảnh hưởng và tiếp biến văn hố ln là nền tảng phát triển của

văn học NT với cơ chế riêng của nó, nhiều khi khơng vận hành song trùng


với điều kiện kinh tế, xã hội. Khi người Pháp thành lập trường MTĐD năm
1925 được cho là mở đầu cho MTVN hiện đại thì lúc đó c ơ s ở xã h ội,
phương thức sản xuất ở VN vẫn còn ở giai đoạn phong kiến, ch ưa bước
sang thời kỳ hiện đại hoá.
Như vậy thời kỳ 1925-1945 được coi là những năm hình thành nền
mỹ thuật Việt Nam hiện đại. Qua các thầy giáo người Pháp tại tr ường, th ế
hệ họa sĩ trẻ Việt Nam lúc đó học được rất nhiều từ kỹ thuật hội h ọa
phương Tây cũng như cách áp dụng những kỹ thuật ấy vào mỹ thuật
truyền thống Việt Nam. Dựa trên nền tảng của th ế hệ h ọa sĩ đầu tiên ấy,
các thế hệ họa sĩ Việt Nam sau đó tiếp tục sáng tác nh ững tác ph ẩm yêu
nước trong suốt cuộc kháng chiến chống Pháp, rồi chống Mỹ.
Trong suốt 20 năm hoạt động (1925-1945), trường đã đào tạo h ơn
100 họa sĩ, nhà điêu khắc và kiến trúc sư Việt Nam, nh ững ng ười đi tiên
phong trong nền mỹ thuật Việt Nam hiện đại. Mặc dù, truy ền th ống Vi ệt
Nam vẫn là động lực chủ yếu thúc đẩy những họa sĩ tiên phong ấy, một s ố
người vẫn cho rằng trường có sự gắn bó chặt chẽ v ới ch ủ nghĩa th ực dân
Pháp nên không đáng được nói đến.
Ngày 9/5/2000, Trường Đại học Mỹ thuật Hà Nội cùng v ới nh ững
cơ sở nghệ thuật khác tại Hà Nội đứng ra tài trợ một buổi h ọp mặt gi ữa
học sinh của trường Cao đẳng trước kia và người thân c ủa h ọ đ ể k ỷ niệm
75 năm thành lập trường. Các nhà nghiên cứu nghệ thuật Hà Nội đã đi đến
nhất trí coi ngày thành lập Trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông D ương vào
năm 1925 là cột mốc đánh dấu sự ra đời của nền mỹ thuật hiện đ ại Vi ệt
Nam.




Hết



×