CHUYÊN ĐỀ BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI
MỐI QUAN HỆ
GIỮA NHÀ VĂN – CUỘC SỐNG VÀ TÁC PHẨM
1
Ngày soạn: 1/9/2018
MỐI QUAN HỆ GIỮA NHÀ VĂN – CUỘC SỐNG VÀ TÁC PHẨM
I. PHẢN ÁNH HIỆN THỰC LÀ THUỘC TÍNH CỦA VĂN NGHỆ.
Ðứng ở góc độ nhận thức luận, phản ánh hiện thực là quy luật khách quan
của văn nghệ. Cách giải quyết vấn đề cơ bản trong triết học - quan hệ giữa vật chất
và ý thức, giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội có ý nghĩa phương pháp luận cho việc
tìm hiểucơ sở khách quan của vấn đề quan hệ giữa hiện thực và văn nghệ, trong mĩ
học, trong lí luận văn nghệ.
Phản ánh luận Marx - Lénine khẳng định rằng: bản chất thế giới là vật chất,
tồn tại khách quan, độc lập với ý thức con người. Vật chất là cái có trước, ý thức là
cái có sau, vật chất quyết định ý thức. Ý thức là sự phản ánh của thế giới khách
quan vào đầu óc con người. Lénine viết:
"Kết luận duy nhất của mọi người nhất định phải rút ra trong đời sống thực
tiễn, kết luận mà chủ nghĩa duy vật lấy làm cơ sở cho nhận thức luận của mình một
cách tự giác là: có những đối tượng, vật, vật thể tồn tại ở ngoài chúng ta, và cảm
giác của chúng ta là hình ảnh thế giới ở ngồi chúng ta, và cảm giác của chúng ta
là hình ảnh thế giới bên ngồi".
Triết học Marx - Lénine đã giải thích một cách đúng đắn, sâu sắc thuộc tính
phản ánh của ý thức. ta biết rằng mọi vật chất đều có thuộc tính phản ánh. Bộ óc
con người là tổ chức cao nhất của vật chất, nó chẳng những mang thuộc tính phản
ánh chung của vật chất mà nó cịn là sự biểu hiện đầy đủ nhất, cao nhất của đặc tính
phản ánh. Ý thức con người chính là sản phẩm của bộ óc, tức ý thức con người là sự
phản ánh thế giới vật chất của bộ óc. Tiếp xúc với thế giới vật chất bên ngoài, con
người dùng các giác quan: thị giác, thính giác, xúc giác, vị giác … các giác quan những "khí quan" của bộ óc trực tiếp tiếp xúc với thế giới bên ngoài làm nảy sinh ra
kinh nghiệm cảm giác. Khơng có vật thể bên ngồi thì khơng thể có cảm giác nảy
sinh trong cơ thể con người. Chính nhờ có hiện thực khách quan và hiện thực đó
phản ánh vào óc con người thơng qua các giác quan nên người ta mới có kinh
nghiệm cảm giác. Kinh nghiệm cảm giác là tài liệu để hình thành ý thức con người.
Quan hệ giữa vật chất và ý thức, giữa tư duy và tồn tại là quan hệ giữa cái
được phản ánh và cái phản ánh. Lénine viết : "cảm giác của chúng ta, ý thức của
2
chúng ta chẳng qua là hình ảnh của thế giới bên ngồi, vả chăng, rõ ràng là khơng
có cái được phản ánh thì khơng có sự phản ánh. Nhưng cái được phản ánh tồn tại
độc lập với cái phản ánh".
Trong cơ cấu đời sống xã hội, chủ nghĩa Mác- Lênin đã chỉ ra rằng văn
chương là một hình thái ý thức xã hội thuộc thượng tầng kiến trúc, bên cạnh các
hình thái ý thức khác như triết học, khoa học, chính trị … Là một hình thái ý thức
xã hội, văn chương, như mọi hình thái ý thức khác, phản ánh tồn tại xã hội.
Quan hệ giữa văn chương và hiện thực là một biểu hiện của quan hệ giữatư
duy và tồn tại, giữa cái phản ánh và cái được phản ánh.
Như thế, hiện thực là nguồn gốc của nhận thức, của ý thức, văn chương là
một hình thái ý thức; một hình thức nhận thức; do đó, hiện thực đời sống là nguồn
gốc của văn chương, là mảnh đất ni dưỡng văn chương, là chìa khóa để giải thích
mọi hiện tượng , dù là phức tạp nhất của văn chương. Cũng chính từ cơ sở lí luận
này mà chúng ta đã hiểu vì sao đối tượng của văn chương là hiện thực khách quan,
là con người và đời sống xã hội.
Như thế, bất kỳ một nền văn chương nào cũng hình thành trên cơ sở một
hiện thực xã hội nhất định; bất kỳ một tác phẩm nào cũng là sự khúc xạ của những
vấn đề cuộc sống, bất kỳ một nhà văn nào cũng thốt thai từ một mơi trường sống
nhất định. Phản ánh hiện thực là thuộc tính tất yếu của văn chương.
Khẳng định văn nghệ phản ánh hiện thực, nhưng không được hiểu một cách
hạn hẹp khái niệm "hiện thực" để rồi hiểu sự phản ánh hiện thực của văn chương
như là sự tái hiện một cách giản đơn các hiện tượng, các sự kiện lịch sử - xã hội cụ
thể nào đó. Cần hiểu "hiện thực" là bao gồm cả tự nhiên bao quanh con người, con
người, cả môi trường xã hội, cả các quan điểm và học thuyết chính trị, xã hội, cả tư
tưởng, tâm trạng … Trung tâm hiện thực là con người, nhưng nội dung hiện thực
của tác phẩm chủ yếu không phải là ở các chi tiết xã hội, ở việc ghi chép mô tả cho
nhiều các sự kiện, hoạt động bên ngoài con người. Hiện thực độc đáo của văn nghệ
là thế giới tinh thần, tình cảm, tâm lí của con người xã hội. Con người trung tâm của
hiện thực là con người kết tinh của những quan hệ xã hội - "tổng hịa của những
quan hệ xã hội" nhưng khơng phải là con người được trừu tượng hóa với những
phẩm chất người nói chung mà là con người cá nhân, con người số phận. Việc yêu
3
cầu sáng tác hay phân tích văn nghệ theo nguyên tắc nghề nghiệp kiểu "hình tượng
người lính", "hình tượng người nơng dân", "Hình tượng người phụ nữ", truyện nơng
nghiệp, tiểu thuyết sản xuất, truyện lâm nghiệp là một cách lãng quên nhiệm vụ của
nghệ thuật - Văn nghệ hướng mục đích chủ yếu vào việc thể hiện tâm trạng, tình
cảm, quan điểm, tâm lí của những số phận.
II. NHẬN THỨC VÀ BIỂU HIỆN TƯ TƯỞNG, TÌNH CẢM
TRƯỚC HIỆN THỰC LÀ PHẨM CHẤT CỦA VĂN NGHỆ.
Nói nghệ thuật phản ánh hiện thực là xác định cơ sở khách quan của nhận
thực nghệ thuật. Nhưng sẽ sai lầm nếu xem phản ánh hiện thực như là tiêu chuẩn
cao nhất để đánh giá văn nghệ. Ðứng ở góc độ mĩ học và lí luận nghệ thuật, văn
nghệ khơng nhằm mục đích phản ánh cuộc sống mà là sự nhận thức, nghiền ngẫm
về cuộc sống. Tác phẩm nghệ thuật là cả thế giới chủ quan của nghệ sĩ : tình cảm,
tâm lí, tư tưởng, ước mơ, lí tưởng, cá tính, tài năng … Tác phẩm nghệ thuật là cách
nhìn , cách đánh giá của nhà văn về cuộc sống, là sự khao khát công lí xã hội, là
tiếng nói tâm tình, là lẽ ưu tư trước cuộc đời. Biélinski đã từng khẳng định: Tác
phẩm sẽ chết nếu nó miêu tả cuộc sống để mà miêu tả, khơng có sự thơi thúc chủ
quan mạnh mẽ nào đó có cội nguồn từ trong tư tưởng bao trùm thời đại, nếu nó
khơng phải là tiếng kêu đau khổ, một lời ca sung sướng, một câu hỏi đặt ra hay câu
trả lời".
Giá trị nội dung của tác phẩm văn chương, trước hết, không phải ở sự chân
thực các chi tiết, ở những sự kiện lịch sử - xã hội được mơ tả chính xác, ở sự tái
hiện máy móc các hiện tượng, tình huống cuộc sống hay sự chuyển dịch giản đơn
những tư tưởng nào đấy sang ngôn ngữ nghệ thuật. Lénine lưu ý chúng ta câu nói
sau đây của Feuerbach: "Nghệ thuật khơng địi hỏi người ta phải thừa nhận các tác
phẩm của nó như là hiện thực". Lénine thấy rõ sự vĩ đại của L.Tolstoi không phải
chủ yếu ở chỗ nhà văn đã đưa ra được "những bức tranh vô song về đời sống Nga"
mà trước hết là ở chỗ L.Tolstoi đã thể hiện được các tư tưởng tâm trạng, sự thay đổi
quan điểm của quần chúng nhân dân Nga. Cũng cần hiểu trên tinh thần ấy ý kiến
sau đây của Lénine về L.Tolstoi: "L.Tolstoi, tấm gương phản chiếu cách mạng Nga"
và "nếu trước mắt chúng ta là một nghệ sĩ thật sự vĩ đại thì thế nào trong tác phẩm
của anh ta cũng phản ánh cho được vài ba khía cạnh của cuộc cách mạng". Lénine
4
khơng nhằm địi hỏi văn chương phải là những tấm gương phản chiếu đời sống. Bởi
chính Lénine đã khẳng định rằng Tolstoi "khơng muốn nhìn ơng ta nhắm mắt lại"
trước hiện thực. Và như mọi người đều biết, trong các sáng tác nghệ thuật của L.
Tolstoi khơng có sự phản ánh trực tiếp sự kiện cách mạng 1905 - 1907 ; nhà văn
không xây dựng trên tài liệu này một tác phẩm đáng kể nào.
Nhà văn thông qua việc phản ánh thế giới khách quan để biểu hiện thế giới
chủ quan của mình. Tác phẩm nghệ thuật là khát vọng thể hiện một quan niệm về
chân lí đời sống, về cái "chân" "thiện" "mĩ" trong tự nhiên, xã hội, trong quan hệ
giữa người với người và trong mỗi con người. Ðó là chân lí tác giả đã thể nghiệm,
tác giả muốn bày tỏ, muốn trang trải, muốn thuyết phục mọi người. Thạch Sanh và
Lí Thơng là mặt phải và mặt trái của chân lí đạo đức : "ở hiền gặp lành, ở ác gặp ác"
mà tác giả của truyện nôm khuyết danh này muốn răn dạy chúng ta. Chân lí của tính
cách Chí Phèo khơng phải ở chỗ Chí là con ác thú mà là ở chỗ con ác thú trong con
người Chí Phèo đã chịu thất bại trước bản năng nhân tính tiềm tàng của chính Chí.
Hiện thực đời sống trong tác phẩm nghệ thuật chan chứa cảm hứng Mácnh của nghệ
sĩ. Nếu thơ là cây xanh thì, theo Bạch Cư Dị, gốc của thơ là tình cảm, (căn: tình,
miêu: ngơn, hoa: thanh, thựa: nghĩa). Lê Q Ðơn cũng xem tình là điều đầu tiên
trong 3 điều chính: "Thơ có 3 điều chính: một là tình, hai là cảnh, ba là sự …" Tình
cảm trong nghệ thuật phải là sự nồng cháy, sục sôi khẳng định điều thiện, phủ nhận
điều ác, thiết tha với lẽ phải. Nguyễn Du viết Truyện Kiều là viết về "Những điều
trông thấy" với một tình cảm nhức nhối "đau đớn lịng". Ðiều đau đớn nhất đối với
Nguyễn Du là thân phận của người phụ nữ trong xã hội vạn ác.
Nguyễn Du phải thét lên :
Ðau đớn thay phận đàn bà.
Hồ Xuân Hương cũng đã nguyền rủa:
Chém cha cái kiếp lấy chồng chung.
Hiện thực trong tác phẩm bao giờ cũng được thể hiện theo một khuynh
hướng tư tưởng nhất định do những xung đột, mâu thuẫn trong đời sống gợi nên.
Không phải ngẩu nhiên mà trong mĩ học có những phạm trù : đẹp và xấu, cao cả và
thấp hèn, bi và hài … sự tồn tại những phạm trù đó trong mĩ học và nghệ thuật,
5
chứng tỏ rằng nghệ sĩ bao giờ cũng có thiên hướng trong sáng tác. Kết thúc bài thơ
"Ðời trước làm quan" Nguyễn Khuyến viết:
Có tiền việc ấy mà xong nhỉ
Ðời trước làm quan cũng thế a?
Dưới hình thức "ngâm vịnh" về chuyện ngày xửa ngày xưa ("đời trước"),
Nguyễn Khuyến đã tỏ thái độ hết sức bất bình với bọn tham quan ơ lại đồng thời.
III. TÍNH HIỆN THỰC VÀ TÍNH CHÂN THỰC CỦA VĂN NGHỆ
1. Tính hiện thực
Phản ánh hiện thực là thuộc tính, cịn biểu hiện trước hiện thực là phẩm chất
của văn nghệ. Tương ứng với đặc tính đó của văn nghệ là tính hiện thực và tính
chân thực của nó. tính hiện thực là khái niệm xác định cơ sở khách quan của nhận
thức nghệ thuật, tính chân thực lại xác định cơ sở chủ quan của nhận thức nghệ
thuật. Một bên (tính hiện thực) chỉ thuộc tính tất yếu, một bên (tính chân thực) chỉ
phẩm chất, giá trị. Tác phẩm nào cũng có tính hiện thực vì bất kỳ tác phẩm nào
cũng phản ánh hiện thực. Nhưng, khơng phải tác phẩm nào cũng có tính chân thực.
Văn nghệ có chân thực hay khơng, khơng phải tùy thuộc vào đối tượng mà tùy
thuộc vào chủ thể.
2. Tính chân thực.
Vậy tính chân thực là gì? Tính chân thực của văn nghệ không hề đồng nghĩa
với việc phản ánh lập lại hiện thực, giống với tự nhiên, với "tính sự thực". Bởi vì,
khơng phải mọi sự thực trong đời sống đều chân thực. Có những sự thực ngẫu
nhiên, có những sự thực tất nhiên. Chỉ có sự thực trong sự vận động tất nhiên mới là
cái chân thực của đời sống. Cho nên, tính chân thực của văn nghệ, trước hết,
hàm nghĩa là sự phản ánh đúng đắn bản chất và quy luật đời sống. Nhưng đó
mới là một phương diện của tính chân thực. Tính chân thực lịch sử (Tính chân thực
lịch sử là khái niệm chỉ sự phù hợp giữa sự phản ánh của văn chương với hiện thực
đời sống). Tính chân thực của văn nghệ cịn bao hàm một phương diện khác - Tính
chân thực nghệ thuật. Tính chân thực nghệ thuật là thước đo giá trị chân thực của
cảm xúc, sự đánh giá, bày tỏ thái độ của nghệ sĩ trước hiện thực, sự thể hiện bản
lỉnh, nhân cách, cá tính độc đáo, tài năng sáng tạo của nghệ sĩ (Tính chân thực nghệ
6
thuật là khái niệm chỉ sự phù hợp giữa sự sáng tạo nghệ thuật của nhà văn với yêu
cầu tiếp thu của người thưởng thức). Như vậy, từ 2 phương diện trên,ta có thể xác
định một cách đầy đủ khái niệm Tính chân thực của văn nghệ như sau: sự thống
nhất giữa tính tất yếu và tự do sáng tạo của nghệ sĩ.
Tóm lại, cần phân biết tính hiện thực và tính chân thực trong văn nghệ để
tránh thái độ dung tục hóa văn nghệ, coi thường cá tính sáng tạo của nghệ sĩ, lãng
quên nhiệm vụ, đặc trưng của văn nghệ.
7
Ngày soạn: 4/9/2018
LUYỆN ĐỀ VỀ MỐI QUAN HỆ GIỮA NHÀ VĂN - CUỘC SỐNG VÀ TÁC
PHẨM
Đề 1:
Bàn về văn học, Hoàng Ngọc Hiến cho rằng:
“Ngoài việc phản ánh đầy đủ sự thật đời sống, văn học cịn có nhiệm vụ
buộc người đọc nhìn chăm chú hơn, nghiêm khắc hơn vào bản thân mình, từ đó
hiểu sâu sắc hơn sự thật về bản thân mình.”
Anh/chị hiểu ý kiến trên như thế nào? Hãy làm sáng tỏ bằng một đoạn trích
hoặc một tác phẩm thơ trong chương trình Ngữ văn 10.
GỢI Ý
a. Mở bài: Giới thiệu vấn đề cần nghị luận
b. Thân bài:
* Giải thích: (1.5 điểm)
- Phản ánh đầy đủ sự thật đời sống: Đây là mục đích và đối tượng quan trọng nhất
của văn học. Văn học nhận thức, khám phá bản chất quy luật của hiện thực cuộc
sống con người.
- Văn học cịn có nhiệm vụ buộc người đọc snhìn chăm chú hơn, nghiêm khắc hơn
vào bản thân mình, từ đó hiểu sâu sắc hơn sự thật về bản thân mình. Nhiệm vụ, sứ
mạng của văn học là giúp cho con người hiểu được ý nghĩa, giá trị của cuộc sống:
tốt - xấu, đúng - sai, thật - giả, thiện - ác... để có thể nhìn thấy và nhìn thấu, nhìn
chăm chú hơn vào bản thân, để khơng chỉ biết phân biệt mà cịn biết lựa chọn,
khơng chỉ đi theo mà còn biết hành động.
→ Ý kiến đề cập đến chức năng nhận thức của văn học. Văn học không chỉ nhận
thức, khám phá bản chất quy luật của hiện thực cuộc sống con người mà còn nâng
cao năng lực nhận thức và tự nhận thức cho người đọc.
* Bàn luận: (2.5 điểm)
- Khẳng định tính đúng đắn của câu nói
- Lí gải vì sao văn học cịn có nhiệm vụ buộc người đọc nhìn chăm chú hơn, nghiêm
khắc hơn vào bản thân mình, từ đó hiểu sâu sắc hơn sự thật về bản thân mình?
8
+ Sáng tạo văn học là hoạt động nhận thức về con người và cuộc sống xung quanh.
Tác phẩm văn học phản ánh q trình khám phá và lí giải cuộc sống, rồi chuyển hóa
những hiểu biết đó vào trong tác phẩm, nhằm đáp ứng nhu cầu nhận thức của con
người.
+ Tác phẩm văn học giúp con người nâng cao nhận thức, giúp người đọc có một cái
nhìn phong phú, đa dạng, chính xác về cuộc sống. Hơn thế nữa, văn học giúp cho
người đọc hiểu về con người, cuộc đời để từ đó liên hệ, so sánh, đối chiếu, nhìn
chăm chú hơn, nghiêm khắc hơn vào bản thân mình mà hiểu được chính mình. Đó
chính là q trình tự nhận thức của người đọc.
* Vận dụng vào tác phẩm: (5.0 điểm)
- Thí sinh có thể chọn một đoạn trích hoặc một tác phẩm thơ trong chương trình
Ngữ văn 10 đạt tới những yêu cầu mà nhận định nêu ra.
- Thí sinh có thể phân tích đoạn trích, tác phẩm bằng nhiều cách khác nhau nhưng
không được xa rời, trái lại phải có tác dụng soi tỏ làm rõ cho những vấn đề lí luận
- Sau đây là một vài gợi ý có tính chất định hướng:
+ Giới thiệu ngắn gọn về tác giả, tác phẩm, đoạn trích.
+ Phân tích tác phẩm (hoặc đoạn trích) để thấy được tác phẩm, đoạn trích đó
khơng chỉ phản ánh đầy đủ sự thật đời sống mà còn nâng cao năng lực nhận thức và
tự nhận thức cho người đọc.
++ Cần làm rõ những biểu hiện của quá trình nhận thức, khám phá về một vấn đề
nào đó của đời sống mà tác phẩm đã đem đến cho người đọc.
++ Đồng thời cần phân tích nổi bật tác phẩm (đoạn trích) ấy đã soi rọi ánh sáng gì
đến người đọc, giúp người đọc nhìn chăm chú hơn, nghiêm khắc hơn vào bản thân
mình, từ đó hiểu sâu sắc hơn sự thật về bản thân mình.
++ Những sự nhận thức và tự nhận thức ấy đều mang tính thẩm mĩ và được thể hiện
trong một hình thức nghệ thuật đặc sắc.
+ Đánh giá được vị trí của tác giả, tác phẩm trong nền văn học. Chỉ ra những
đóng góp của tác giả, tác phẩm đó trong việc thể hiện con người, cuộc sống; thực
hiện chức năng nhận thức và tự nhận thức.
* Đánh giá: (0.5 điểm)
Nhận định đã đặt ra yêu cầu đối với người sáng tác và người tiếp nhận:
9
- Với người sáng tác: Nhà văn phải có ý thức sâu sắc về chức năng nhận thức và tự
nhận thức của văn học. Không chỉ phản ánh đầy đủ sự thật đời sống mà cần tạo cho
tác phẩm những chiều sâu chưa nói hết, những chân trời chờ đợi để độc giả khám
phá, từ đó hiểu sâu sắc hơn sự thật về bản thân mình.
- Với người người tiếp nhận: Nhận định của Hoàng Ngọc Hiến định hướng cho
người đọc trong quá trình tiếp nhận văn học, là tiêu chí giúp họ đánh giá được giá
trị của những tác phẩm văn học chân chính. Từ đó, người đọc hướng người đọc đến
cái nhìn chăm chú hơn, nghiêm khắc hơn vào bản thân mình, sự tự nhận thức đúng
đắn về bản thân mình.
c. Kết bài
- Khẳng định tính đúng đắn của nhận định khi nhấn mạnh chức năng nhận thức và
tự nhận thức của văn học.
- Nêu ý nghĩa của nhận định.
Đề 2:
Bàn về thơ, có ý kiến cho rằng: Vì thơ là nhuỵ của cuộc sống nên nhà thơ đi hút cho
được cái nhuỵ ấy và phấn đấu sao cho cuộc đời của mình cũng có nhuỵ.
Anh, chị hiểu như thế nào về ý kiến trên ? Hãy làm sáng tỏ ý kiến đó bằng
một vài tác phẩm thơ ca dân gian, trung đại đã học.
GỢI Ý
* Giải thích
- Thơ ca là thể loại trữ tình, phản ánh thế giới tư tưởng, tình cảm con người.
Thơ có ngơn ngữ đặc biệt giàu hình ảnh, cảm xúc, giàu tính nhạc, cô đọng, hàm súc,
tinh tế.
- Thơ là nhụy của cuộc sống : Nhụy là cái đẹp tinh túy và thường ẩn kín bên
trong, khơng dễ nhận ra. Thơ ca là một trong những vẻ đẹp tinh túy nhất, sâu kín
của cuộc sống. Sự tinh túy trong thơ thể hiện ở sự hàm súc, tinh tế, sâu sắc trong cả
hai phương diện nội dung, tư tưởng và hình thức nghệ thuật.
- Nhà thơ đi hút cho được cái nhuỵ ấy : thơ ca nói riêng hay văn chương
nghệ thuật nói chung luôn nhận thức, phản ánh đời sống phong phú, muôn màu.
Nhưng đó khơng phải là sự phản ánh dễ dãi, tùy tiện, hời hợt mà phải là sự chắt lọc
10
lấy cái "nhụy của cuộc sống", tức là phải chọn lấy những điều tinh túy, sâu sắc, cao
đẹp, ý nghĩa, giá trị nhất. Sự khám phá của nhà văn, nhà thơ khơng được phép dừng
lại ở bề ngồi mà phải đi sâu vào bản chất bên trong. Điều này đúng với văn học nói
chung, đặc biệt là với thơ. Bởi thơ ln địi hỏi tính hàm súc, tinh tế cao độ. Thơ
chính là sự sống kết tinh lại. Vì thế sứ mệnh của nhà thơ là "hút nhụy" của cuộc
sống để xây dựng lên tác phẩm.
- Đồng thời với việc đi hút nhụy của cuộc sống, sứ mệnh của nhà thơ, của
người nghệ sĩ còn phải làm cho cuộc đời của mình cũng có nhụy: Khơng chỉ kiếm
tìm cái đẹp có sẵn từ cuộc sống bên ngồi, nhà thơ phải biết tự tạo nên cho tâm hồn,
cho cuộc đời của con người. Cái đích cuối cùng của văn chương là nhân đạo hóa
con người. Đây là chức năng nhận thức, giáo dục của văn chương. Riêng với người
nghệ sĩ, làm nhụy cịn có nghĩa là nhà thơ phải tạo cho mình giá trị riêng, sáng tạo
riêng phong cách nghệ thuật riêng.
=> Câu nói đề cập đến sự gắn bó chặt chẽ giữa nghệ thuật và cuộc đời, những sứ
mệnh của người nghệ sĩ và chức năng của văn chương : vừa kiếm tìm vừa sáng tạo
cái đẹp cho đời.
* Chứng minh: Thí sinh chọn một vài tác phẩm thơ ca dân gian và trung đại
phù hợp để làm sáng tỏ quá trình "hút nhụy" và "làm nhụy" của tác giả.
* Bình luận
- Muốn làm được điều đó, thơ cịn phải có sự hài hịa, thống nhất giữa nội
dung và nghệ thuật.
- Nhà thơ phải có đủ phẩm chất : tâm hồn, tài năng.
- Vai trò, giá trị , sứ mệnh của thơ ca : thể hiện con người và thời đại một
cách cao đẹp, làm bạn với con người đến ngày tận thế.
ĐỀ LUYỆN TẬP
ĐỀ 1
Có ý kiến cho rằng :
“Văn học lãng mạn không quan tâm đến thế giới như nó đang là mà
quan tâm đến thế giới như nó có thể là và phải là” (Arixtot)
11
Anh/chị hiểu như thế nào về ý kiến trên? Làm sang tỏ ý kiến qua hai tác phẩm
Hai đứa trẻ của Thạch Lam và Chữ người tử tù của Nguyễn Tuân.
GỢI Ý
I. Yêu cầu về kĩ năng
Hiểu đề, biết cách làm bài nghị luận văn học. Biết phân tích dẫn chứng để
làm sáng tỏ vấn đề. Bố cục rõ ràng, lập luận chặt chẽ. Hành văn trơi chảy. Văn viết
có cảm xúc. Không mắc các lỗi diễn đạt, dùng từ, ngữ pháp, chính tả.
Chú ý: bài viết vừa phải có sắc thái lí luận vừa thể hiện khả năng cảm thụ văn học
tinh tế, sâu sắc
II. Yêu cầu về kiến thức
Thí sinh có thể trình bày theo các cách khác nhau nhưng cần đảm bảo được các ý
sau:
1.Giải thích
- Văn học lãng mạn: Trào lưu văn học lớn xuất hiện ở Châu Âu cuối thế kỉ
XVIII, đầu thế kỉ XIX. Ở Việt Nam, văn học lãng mạn ra đời và phát triển trong giai
đoạn 1930 – 1945. Văn học lãng mạn là tiếng nói của cái tơi cá nhân giàu cảm xúc,
phát huy cao độ trí tưởng tượng, diễn tả những khát vọng, ước mơ của con người
vượt lên trên thực tại khách quan.
- Thế giới như nó đang là: thế giới của thực tại khách quan đang xảy ra, nằm
ngoài ý muốn chủ quan của con người.
- Thế giới có thể là và phải là: thế giới trong mơ ước, trong khát vọng, mong
muốn chủ quan của tác giả.
=> Như vậy, ý kiến đề cập đến một đặc điểm của văn học lãng mạn là thoát li hiện
thực khách quan, hoặc nếu có viết về hiện thực thì cũng nhằm hướng tới một thế
giới tốt đẹp hơn trong mơ ước, mong muốn hiện thực hóa thế giới mơ ước ấy theo ý
muốn chủ quan.
2. Bàn luận
- Văn học lãng mạn là tiếng nói của cái tơi tiểu tư sản, cái tơi được giải
phóng khỏi những ràng buộc của xã hội cũ, mong muốn được khẳng định mình giữa
cuộc đời.
12
- Thực tế xã hội kim tiền không cho họ thực hiện được ước mơ nên họ tìm
cách thốt li để xây dựng một thế giới mộng ảo như mình mong muốn.
- Văn học lãng mạn lánh xa những vấn đề nóng bỏng của thời đại là đấu
tranh giai cấp và cuộc sống đói nghèo của nhân dân.
- Tuy nhiên, có nhiều nhà văn lãng mạn có khuynh hướng đi gần với hiện
thực đời thường, song hiện thực đó cũng chưa phải là vấn đề cấp thiết nhất mà nhà
văn muốn đề cập trong tác phẩm.
3. Chứng minh qua “Hai đứa trẻ” và “Chữ người tử tù”
a. Hai đứa trẻ:
- Thế giới như nó đang là: một phố huyện nghèo xơ xác, im lìm, đầy bóng tối
với những con người sống cầm chừng, lay lắt, những đứa trẻ nghèo đáng thương.
Dù khơng thốt li hiện thực như các nhà văn lãng mạn đương thời nhưng hiện thực
mà Thạch Lam phản ánh không nhức nhối, khổ đau, cần lên án riết róng như trên
trang văn của các nhà văn hiện thực.
- Thế giới có thể là, phải là: Thế giới của hạnh phúc, sung túc, êm đềm trong
quá khứ (qua hồi ức của Liên); thế giới đông đúc, ồn ào đầy ánh sáng, niềm vui
(qua hình ảnh chuyến tàu đêm).
b. Chữ người tử tù:
- Thế giới như nó đang là: thế giới của bất công, mọi giá trị bị đảo lộn; là
nhà tù đầy bóng tối, độc ác, bẩn thỉu,…
- Thế giới có thể là, phải là: Thé giới của những bậc tài hoa, nghệ sĩ, yêu cái
đẹp, trọng cái tài, quí cái thiện lương. Đấy là thế giới của cái đẹp, chiến thắng thế
giới của cái xấu, cái ác, “chiến thắng thế giới như nó đang là”. Cảnh cho chữ diễn ra
trong một thé giới đặc biệt xưa nay chưa từng có với ánh sáng của ngọn đuốc, mùi
thơm của chậu mực, của những bậc tài hoa, nghệ sĩ trong gong cùm vẫn uy nghi,
đĩnh đạc sáng tạo cái đẹp.
4. Đánh giá
- Hai đứa trẻ và Chữ người tử tù thực sự là những tác phẩm văn học lãng
mạn, đã tạo ra được thế giới như nó có thể là, phải là – thế giới tốt đẹp trong mơ
ước của con người, đặt niềm tin vào tương lai tươi sáng, tốt đẹp hơn cho con người.
13
- Hai nhà văn đã miêu tả thế giới ấy bằng tài năng nghệ thuật độc đáo, với
những thủ pháp đặc trưng của văn học lãng mạn như tương phản, đối lập; nghệ
thuật xây dựng tình huống, nhân vật; sử dụng ngôn ngữ, chi tiết;…
- Tuy nhiên việc miêu tả thế giới như nó có thể là và phải là cũng là hạn chế
của văn học lãng mạn vì đã thốt li, quay lưng với những vấn đề nóng bỏng của xã
hội.
III. Biểu điểm:
- Điểm 11 - 12: đáp ứng đầy đủ các yêu cầu trên, bài viết sâu sắc độc đáo, diễn đạt
lưu lốt, câu văn giàu hình ảnh, cảm xúc.
- Điểm 8 - 10: Nội dung đầy đủ, có thể cịn thiếu một vài ý nhỏ, bố cục rõ ràng, diễn
đạt trơi chảy, câu văn có hình ảnh, cảm xúc.
- Điểm 5 - 7: Bài làm còn thiếu ý. Văn chưa hay nhưng rõ ý. Mắc không quá nhiều
lỗi chính tả, dùng từ, viết câu.
- Điểm 3 - 4: Trình bày ý cịn sơ sài, kết cấu khơng rõ ràng, còn nhiều lỗi diễn đạt.
- Điểm 1- 2: Khơng hiểu đề, khơng có kĩ năng nghị luận, mắc quá nhiều lỗi diễn đạt.
14
ĐỀ 2
Trong diễn từ nhận giải Nobel văn học 2016, Bob Dylan cho rằng: “Bất cứ
ai viết một cuốn sách, một bài thơ hay một vở kịch ở bất cứ đâu trên thế giới đều có
thể ni dưỡng giấc mơ bí mật từ trong sâu thẳm. Có thể nó được chơn sâu đến
mức chính họ cũng khơng nhận ra.”
Anh/chị hiểu ý kiến trên như thế nào? Hãy bình luận về giấc mơ của Thạch
Lam trong “Hai đứa trẻ” và giấc mơ của Nguyễn Tuân trong “Chữ người tử tù.”
GỢI Ý
* Giải thích
- Giấc mơ: mong muốn, khát vọng mà người nghệ sĩ gửi gắm trong sáng tác và thể
hiện trong chủ đề, tư tưởng thẩm mĩ của tác phẩm.
- Giấc mơ bí mật từ trong sâu thẳm,có thể được chơn sâu đến mức chính họ cũng
khơng nhận ra:
+ Giấc mơ của người nghệ sĩ được thốt ra từ hình tượng nghệ thuật trong tác phẩm,
có thể vượt ra ngồi ý đồ sáng tạo của tác giả.
+ Giấc mơ là ước vọng tha thiết nhất của người sáng tạo, là tiếng nói của bản thể,
đơi khi bản thân người nghệ sĩ cũng không ý thức rõ.
- Theo Bob Dylan, ý nghĩa thẩm mĩ của tác phẩm nghệ thuật nói chung, tác phẩm
văn học nói riêng vơ cùng phong phú và khơng phải lúc nào cũng gắn với dụng ý
nghệ thuật của người sáng tác.
+ Tác phẩm không chỉ thể hiện nhận thức, lí giải của nhà văn về hiện thực mà còn
chứa đựng những giấc mơ về cuộc đời, là phương tiện để tác giả thực hiện sứ mệnh
của “người dẫn đường đến xứ sở của cái đẹp.”
+ Tác phẩm nghệ thuật chứa đựng những “giấc mơ bí mật”, vì vậy nó là một “cấu
trúc mở” thu hút sự kiếm tìm, khám phá, lí giải của người đọc.
* Phân tích, bình luận
- Giấc mơ của Thạch Lam trong “Hai đứa trẻ”:
+ Giấc mơ đưa con người thoát khỏi cuộc sống thực tại tối tăm, tù đọng để đến với
cuộc sống sôi động đầy ánh sáng (phân tích bức tranh phố huyện và hình ảnh
chuyến tàu đêm, hình ảnh ánh sáng và bóng tối…); giấc mơ mỗi kiếp nhân sinh là
15
một cuộc đời có ý nghĩa chứ khơng phải là sự tồn tại leo lét, vơ danh (phân tích hình
ảnh hai đứa trẻ và cảnh chờ tàu…)
+ Giấc mơ của Thạch Lam gửi vào hình tượng hai đứa trẻ nên vừa bé nhỏ, vừa lớn
lao; vừa giàu giá trị nhân bản vừa có tính thời sự; có tác dụng thức tỉnh con người.
+ Giấc mơ của Thạch Lam chạm tới những vấn đề mang tính chất triết lí: ý nghĩa
của sự sống, tình trạng sống mịn, sống hay khơng sống...
- Giấc mơ của Nguyễn Tuân trong “Chữ người tử tù”
+ Giấc mơ về sự chiến thắng của cái đẹp, sự song hành của cái thiện và cái đẹp
trong cuộc đời (phân tích tình huống gặp gỡ giữa Huấn Cao và quản ngục, cảnh cho
chữ, lời khuyên của ông Huấn…), giấc mơ phục hưng nét đẹp của nền văn hóa cổ
truyền.
+ Giấc mơ của Nguyễn Tuân được kí thác vào bộ ba nhân vật mang vẻ đẹp lí tưởng:
Huấn Cao, quản ngục, thầy thơ lại, thể hiện khao khát hướng thiện và hướng thượng
của con người.
+ Giấc mơ của Nguyễn Tuân giàu giá trị nhân văn, là khao khát muôn thuở mà nhân
loại theo đuổi; giấc mơ thể hiện cái tâm, cái tầm của một nhà văn lớn.
- So sánh
+ Giống nhau: Đó là những giấc mơ của người nghệ sĩ lãng mạn, muốn phủ định
thực tại, hướng tới lẽ sống nhân đạo và những giá trị cao quý.
+ Khác nhau: Mỗi nhà văn thể hiện giấc mơ của mình theo một lối riêng (giấc mơ
của Thạch Lam sâu lắng như một bài thơ trữ tình đượm buồn, được thể hiện qua
tình huống tâm lí và giọng tâm tình nhẹ nhàng; giấc mơ của Nguyễn Tuân mang vẻ
đẹp cao khiết, được thể hiện qua tình huống giàu kịch tính và lối viết tài hoa uyên
bác của nhà văn “suốt đời đi tìm cái đẹp”)
* Mở rộng, nâng cao.
- Ý nghĩa của nhận định: Những giấc mơ bí mật được chơn giấu làm cho tác phẩm
văn học có chiều sâu vơ tận, luôn luôn mới mẻ và hấp dẫn.
- Trong diễn từ nhận giải Nobel, giấc mơ bí mật mà Bob đề cập cịn có thể hiểu là
giấc mơ được sáng tạo, được khẳng định và ghi nhận của nghệ sĩ muôn đời.
Đề 3
16
“Điều quan trọng hơn hết trong sự nghiệp của những nhà văn vĩ đại ấy lại là
cuộc sống, trường đại học chân chính của thiên tài. Họ đã biết đời sống xã hội của
thời đại, đã sâu sắc cảm thấy mọi nỗi đau đớn của con người trong thời đại, đã
rung động tận đáy tâm hổn với những nỗi lo âu, bực bội, tủi hổ và những ước mong
tha thiết nhất của lồi người. Đó chính là cái hơi thở, sức sống của những tác phẩm
vĩ đại.”
(Đặng Thai Mai, Công việc viết văn)
Bằng hiểu biết của anh/chị về văn học hiện thực phê phán 1930-1945, hãy bình luận
ý kiến trên.
GỢI Ý
a. Yêu cầu về kĩ năng:
- Thí sinh phải nắm vững kĩ năng làm bài nghị luận về một vấn đề lí luận văn
học, vận dụng tốt các thao tác giải thích, phân tích, bình luận và chứng minh vấn đề
qua một hệ thống tác phẩm cụ thể.
- Bố cục rõ ràng, chặt chẽ, khoa học, hợp lí. Diễn đạt trơi chảy, lưu lốt, văn
viết giàu hình ảnh và cảm xúc. Khơng mắc lỗi chính tả, dùng từ, ngữ pháp…
b. Yêu cầu về kiến thức:
- Học sinh phải biết vận dụng kiến thức lí luận văn học và kiến thức về một
hệ thống tác phẩm để giải thích, bình luận và chứng minh vấn đề.
- Thí sinh có thể đưa ra những ý kiến, trình bày theo nhiều cách khác nhau,
nhưng cần chính xác, hợp lí, rõ ràng, thuyết phục… và nêu được các ý cơ bản sau:
1. Giải thích, bình luận:
- Điều quan trọng hơn hết trong sự nghiệp của những nhà văn vĩ đại ấy lại
là cuộc sống, trường đại học chân chính của thiên tài: Tài năng và tâm huyết là
những yếu tố quan trọng làm nên tầm vóc của một nhà văn chân chính. Nhưng
khơng một nhà văn tài năng nào có thể sáng tạo nên tác phẩm mà thoát li hiện thực
đời sống, cội nguồn, gốc rễ và cũng là mảnh đất nuôi dưỡng văn chương. Chính
những trải nghiệm từ hiện thực đời sống đã đem đến nguồn tư liệu, vốn sống sâu
sắc, cũng như đã nuôi dưỡng tâm hồn người nghệ sĩ.
- Họ đã biết đời sống xã hội của thời đại, đã sâu sắc cảm thấy mọi nỗi đau
đớn của con người trong thời đại, đã rung động tận đáy tâm hồn với những nỗi lo
17
âu, bực bội, tủi hổ và những ước mong tha thiết nhất của loài người: Hiện thực đời
sống đã bồi đắp ở nhà văn tấm lịng chan chứa tình u thương, biết đồng cảm, xót
thương, sẻ chia với những nỗi khổ đau, bi kịch của con người. Nhà văn phải là
người “cho máu”; Văn chương xuất phát từ tư tưởng, tình cảm của con người. Bởi
thế, tư tưởng tình cảm càng chân thực, sâu sắc, mãnh liệt thì tác phẩm càng có giá
trị. Trong nỗi đau, cảm xúc của con người thường dâng lên tận cùng của sự chân
thực, sâu sắc, mãnh liệt. Vì thế, có thấu hiểu được những nỗi đau ấy, nhà văn mới
tạo nên những sáng tác giá trị.
- những tác phẩm vĩ đại: Là những tác phẩm có giá trị lớn lao, đích thực, thể
hiện được những chức năng và sứ mệnh của văn chương với cuộc đời (nhận thức,
giáo dục, thẩm mĩ…)
Nhận định của Đặng Thai Mai đã đề cao vai trị, vị trí quan trọng của hiện
thực đời sống trong việc bồi đắp tư tưởng, tình cảm của những nhà văn thiên tài,
trong việc tạo nên hơi thở, sức sống của các tác phẩm vĩ đại…
2. Chứng minh:
Học sinh có thể chọn một số tác phẩm văn học hiện thực phê phán giai đoạn
1930 - 1945 để chứng minh như:
- Chí Phèo, Đời thừa của Nam Cao
- Số đỏ của Vũ Trọng Phụng
- Tắt đèn của Ngô Tất Tố….
- Lưu ý:
+ Học sinh khơng cần lấy q nhiều tác phẩm, chỉ có tính hệ thống, lựa chọn
được các tác phẩm thực sự tiêu biểu, phù hợp.
+ Khuyến khích các bài có ý so sánh, đối chiếu giữa các tác phẩm để làm rõ
thêm nét chung và nét riêng nhưng chỉ cần ở mức độ vừa phải.
3. Mở rộng, nâng cao:
- Khẳng định vấn đề
- Bài học với người sáng tạo và người tiếp nhận
ĐỀ 4
18
Nhà thơ Tố Hữu từng cho rằng: “Văn học thực chất là chuyện đời. Văn học
sẽ chẳng là gì cả nếu khơng vì cuộc đời mà có. Cuộc đời là nơi xuất phát và cũng là
đích đi tới của văn học.”
Anh (chị) hiểu như thế nào về ý kiến trên? Hãy làm sáng tỏ bằng một truyện ngắn
trong chương trình Ngữ văn lớp 11.
GỢI Ý
Nhà thơ Tố Hữu từng cho rằng: “Văn học thực chất là chuyện đời. Văn học sẽ
chẳng là gì cả nếu khơng vì cuộc đời mà có. Cuộc đời là nơi xuất phát và cũng là
đích đi tới của văn học.”
I.
-
Yêu cầu về kĩ năng
Biết kết hợp các thao tác lập luận để làm bài văn nghị luận tổng hợp về một vấn đề
-
văn học.
- Bố cục hợp lí, lập luận chặt chẽ, rõ ràng, diễn đạt lưu lốt, giàu sức thuyết phục,
II.
biết cách phân tích tác phẩm để làm sáng tỏ vấn đề.
Không mắc lỗi diễn đạt, dùng từ, ngữ pháp.
Yêu cầu kiến thức
Học sinh có thể trình bày theo nhiều cách khác nhau miễn là đáp ứng được các ý
sau:
1. Giải thích câu nói
+ Văn học bắt nguồn từ cuộc sống hiện thực, là mảnh đất cung cấp chất liệu, đề tài,
cảm hứng cho văn học.
+ “…. Cuộc đời là nơi xuất phát và cũng là đích đi tới của văn học.”: Văn học
khơng thể thoát li hiện thực, quay lưng lảng tránh cuộc đời. Tố Hữu dùng lối nói
phủ định là để phê phán lối văn chương tiêu cực, thoát li hiện thực đời sống và
khẳng định chức năng của văn chương cao quý.
+ Cuộc sống là nguồn cảm hứng bất tận, là mảnh đất nuôi dưỡng văn chương nghệ
thuật và ngược lại văn chương nghệ thuật được viết lên để phục vụ cuộc sống con
người… Từ những chất liệu cuộc sống nhà văn sáng tạo tác phẩm văn chương đem
đến những giá trị chân – thiện – mĩ cho cuộc đời.
-
Ý nghĩa vấn đề
Câu nói khẳng định mối quan hệ gắn kết khó tách rời giữa văn học và đời sống, vai
trị trách nhiệm của nhà văn trong sáng tạo nghệ thuật, phê phán loại văn chương
19
tiêu cực thoát li hiện thực,đồng thời đề cao thiên chức cao quý của văn chương chân
chính và trách nhiệm người cầm bút.
2. Phân tích tác phẩm để chứng minh
Học sinh có thể chọn một trong các tác phẩm ( Đời thừa, Chí Phèo…) chương trình
Ngữ Văn 11 để làm sáng tỏ nhận định.
3. Đánh giá
- Khẳng định: Mục đích cuối cùng của văn chương là phục vụ con người, phục vụ đời
-
sống xã hội.
Con người là đối tượng chính của văn học. Văn học chú trọng phả ánh tâm tư, tình
cảm của con người. Nhà văn chân chính phải biết đem tài năng và tâm huyết sáng
-
tạo văn chương có ích cho đời.
Nhờ phản ánh trung thành thực tế đời sống, tác phẩm phải đấu tranh cho quyền sống
con người, cho thấy những trăn trở đau đớn của một nhà văn nặng lịng với cuộc
•
đời. Đó là giá trị nhân văn cao cả mà nhà văn mong muốn hướng tới.
Qua đó ta thấy rõ được trách nhiệm của người nghệ sĩ, người viết văn
Lưu ý: Trên đây là một số gợi ý. Học sinh có thể kết hợp phân tích q trình
bàn luận nhưng phải chú trọng làm sáng tỏ ý trọng tâm đã nêu trên.
ĐỀ 5
Nhà thơ nổi tiếng người Đức Bertold Brecht cho rằng: Cái đẹp của thơ
khơng nên chỉ làm nên ánh sáng kỳ bí của ma trơi hay ánh sáng nhân tạo rực rỡ
của pháo hoa, của đèn màu cầu kỳ nhuộm hàng trăm sắc. Ðẹp nhất là khi anh tạo
nên được ánh sáng ban ngày, thứ ánh sáng tưởng như không màu, không sắc nhưng
đó chính là ánh sáng mạnh mẽ và hữu ích nhất cho con người.
Anh/Chị hiểu ý kiến trên như thế nào? Qua hai bài thơ Thương vợ của Tú
Xương và Tương tư của Nguyễn Bính, hãy làm sáng tỏ.
GỢI Ý
Ý
1
2
Nội dung
Dẫn dắt và giới thiệu vấn đề
Giải thích
* Cắt nghĩa ý kiến:
- Cái đẹp của thơ không nên chỉ làm nên ánh sáng kỳ bí của ma trơi hay
ánh sáng nhân tạo rực rỡ của pháo hoa, của đèn màu cầu kỳ nhuộm hàng
20
Điểm
0,5
4.0
0,5
trăm sắc: giá trị của thơ ca không chỉ tạo ra những nét đẹp “kì bí”, khơng chỉ
là sự trau chuốt ngôn từ hay tạo ra vẻ đẹp mới lạ về hình thức.
0,5
- Ðẹp nhất là khi anh tạo nên được ánh sáng ban ngày, thứ ánh sáng
tưởng như không màu, không sắc: giá trị lớn nhất của tác phẩm thơ ca chính là
cái đẹp chân thực, mộc mạc, gần gũi với đời thường. Là ánh sáng mạnh mẽ và
hữu ích nhất cho con người: cái đẹp giản dị của thơ ca sẽ soi sáng tâm hồn con
1,0
người, mang lại ý nghĩa thiết thực cho đời sống.
=> Nhà thơ nổi tiếng người Đức Bertold Brecht đã đưa ra một trong
những tiêu chí quan trọng đối với tác phẩm thơ hay: chân thực, dung dị cả về
nội dung lẫn hình thức. Đó chính là một trong những điều quan trọng làm nên
giá trị, sức mạnh của thơ ca.
* Lí giải ý kiến:
Ý kiến của Bertold Brecht đúng đắn và xác đáng vì:
- Xuất phát từ quy luật sáng tạo của văn chương nói chung và thơ ca nói
riêng: Văn học bắt nguồn từ hiện thực đời sống, từ những vui buồn, đau khổ,
0,75
hạnh phúc của cuộc đời, của số phận cá nhân con người. Vì thế, cái hay của
một tác phẩm văn học, một bài thơ được tạo nên từ chính cái đẹp chân thực,
mộc mạc, dung dị, gần gũi với đời thường, thể hiện trên cả hai phương diện
nội dung và hình thức nghệ thuật. Thơ khơng như thứ rượu quỳnh tương, nấu
lâu, cất kĩ, rót ra chén ngọc rồng mà như nước suối thiên nhiên chảy ra trong
0,75
mát nơi khe núi. (Phạm Thế Ngũ).
- Xuất phát từ đặc trưng của thơ trữ tình: Sự chân thực, giản dị của cảm
xúc và ngơn ngữ là một đặc tính cơ bản của thơ: cảm xúc nảy nở từ lòng thi
nhân một cách chân thành, thắm thiết; câu chữ không cần trau chuốt hay “thần
bí hóa”; ngơn ngữ dễ hiểu, cơ đúc, trong sáng.
- Xuất phát từ chức năng của văn học, trong đó có thơ ca: Thơ khởi
nguyên là sự lên tiếng của trái tim, là sự rung động tâm hồn của nhà thơ nhưng
trở thành tiếng lịng chung của mn người, tiếng gọi đàn, thành tiếng nói
đồng ý, đồng chí, đồng tình với người đọc, thơ là một ngọn lửa nhen lên trong
lòng người, một ngọn lửa đốt cháy, sưởi ấm và soi sáng, là ánh sáng mạnh mẽ
hướng con người đến vẻ đẹp của chân, thiện, mĩ.
21
0,5
3
Chứng minh
a. Bài thơ Thương vợ của Tú Xương
* Nội dung:
6,0
1,5
- Sự chân thực, dung dị thể hiện ở chất trữ tình, chất tự trào hóm hỉnh và
những cung bậc của tình yêu thương dành cho người vợ của nhà thơ. Qua cái
nhìn vừa trân trọng vừa xót xa, chân dung bà Tú hiện lên hồn chỉnh. Bên cạnh
hình ảnh bà Tú với những nỗi vất vả, gian truân trong cuộc sống là một bà Tú
với những đức tính cao đẹp: đảm đang, tháo vát, chịu thương, chịu khó, hết
lịng vì chồng con, giàu đức hi sinh thầm lặng. Hình ảnh bà Tú trong thơ Tú
Xương mang vẻ đẹp điển hình của người phụ nữ Việt Nam.
- Đằng sau lời tự trào là cả một tấm lòng yêu thương, quý trọng, tri ân vợ của
Tú Xương. Qua những lời tự trào, tự trách, thậm chí tự xỉ vả bản thân, ta thấy
được tâm sự và nhân cách của Tú Xương: một nhà nho đầy tự trọng trong
sáng, vị tha khi ông từ bỏ vẻ cao đạo của thói thường để thấu hiểu cuộc sống
đời thường và sẻ chia, cảm thông với vợ. Đó là một người đàn ơng có tâm, có
ý thức, trách nhiệm.
- Từ hồn cảnh riêng, Tú Xương lên án thói đời bạc bẽo nói chung. Đây chính
là ý nghĩa xã hội chân thực của bài thơ.
* Nghệ thuật:
1,0
- Vẻ đẹp giản dị được biểu hiện ở màu sắc dân gian từ đề tài cho đến bút pháp.
Sự kết hợp giữa giọng điệu trữ tình và giọng điệu trào phúng thâm thúy một
cách tự nhiên đã thể hiện rõ phong cách thơ Tú Xương: cảm xúc chân thành,
lời thơ giản dị mà sâu sắc
- Sử dụng tiếng Việt giản dị, tự nhiên, giàu sức biểu cảm: Cả tám câu thơ
khơng có từ nào cầu kì, khó hiểu. Tất cả đều gần gũi, quen thuộc như lời nói
trong cuộc sống thường ngày. Sử dụng thành ngữ dân gian, cách nói khẩu ngữ:
tiếng chửi được sử dụng rất tự nhiên mà hàm chứa ý nghĩa sâu sắc.
- Tiếp thu một cách có sáng tạo hình ảnh trong thơ ca dân gian (hình ảnh con
cị, thân cị) để xây dựng hình tượng người phụ nữ vừa mang vẻ đẹp truyền
thống lại vừa có những nét riêng độc đáo.
* Thương vợ của Tú Xương là bài thơ soi sáng tâm hồn con người, mang lại ý
nghĩa thiết thực cho đời sống. Bài thơ giúp người đọc thấy được vẻ đẹp đáng trân
22
0,5
trọng của bà Tú nói riêng và vẻ đẹp người phụ nữ Việt Nam nói chung, đồng thời,
thấy được vẻ đẹp nhân cách của nhà nho chân chính – Tú Xương. Bên cạnh đó,
bài thơ có tác dụng bồi đắp những tình cảm tốt đẹp cho con người: biết thấu hiểu,
tri ân trong cuộc sống.
b. Bài thơ Tương tư của Nguyễn Bính
* Nội dung:
1,5
- Sự dung dị thể hiện ở tiếng nói tình u đơn phương chân thực, mộc mạc mà
khơng kém phần mãnh liệt của nhân vật trữ tình. Điều này được thể hiện qua việc
nhà thơ dựng lên khung cảnh làng quê Việt nam với những hình ảnh gần gũi, thân
quen như cây đa, bến đị, mái đình, vườn trầu, hàng cau…
- Trên nền bức tranh khung cảnh ấy là cả một dòng tâm trạng tương tư với nhiều
cung bậc cảm xúc đan xen và hơn tất cả là niềm khát khao được người mình yêu
đáp lại, thấu hiểu để có được tình u trọn vẹn, khát khao chung tình, hướng đến
hơn nhân.
- Tương tư là một bài thơ hay viết về tình yêu – một thứ tình yêu trong sáng,
đơn phương và rất mãnh liệt. Hồn quê Việt thấm đượm trong từng dịng thơ, thể
hiện tình cảm chân thành của nhà thơ đối với những nét đẹp văn hóa dân gian.
* Nghệ thuật: Mặc dù có những nét độc đáo, mới mẻ của Thơ mới, nhưng bao
1,0
trùm cả bài thơ là sự dung dị được biểu hiện qua thể thơ lục bát mang đậm
phong vị ca dao; tâm trạng của nhân vật trữ tình được phơ diễn một cách chân
thành, mộc mạc, da diết qua cách nói truyền thống gần gũi với dân gian; nghệ
thuật tạo hình ảnh độc đáo; chất liệu ngôn từ chân quê đậm chất dân gian; nghệ
thuật tả cảnh ngụ tình.
* Với thứ ánh sáng tưởng như không màu, không sắc, sự xuất hiện của Tương
0,5
Tư giữa phong trào Thơ mới vốn đầy ắp sự cách tân, đổi mới đã thực sự làm
lay động tâm hồn người đọc, giúp ta hiểu được hồn thơ của Nguyễn Bính (tìm
về chân q như một chốn bình yên trong tâm hồn). Bài thơ cho ta cảm nhận
vẻ đẹp của những cung bậc cảm xúc trong tình yêu đơn phương, khơi gợi tình
4
yêu quê hương đất nước.
Đánh giá, nâng cao vấn đề
- Ý kiến của Bertold Brecht cho ta hiểu thêm về giá trị và cái đẹp của thơ ca
1,5
đích thực. Bài thơ Thương vợ của Tú Xương và Tương tư của Nguyễn Bính
0,75
chứa đựng vẻ đẹp giản dị và có cảm xúc chân thành, đó là yếu tố tạo nên giá trị
23
độc đáo cho hai thi phẩm. Hai bài thơ là những minh chứng tiêu biểu cho ý
kiến của Bertold Brecht.
- Nhà thơ nói riêng, người nghệ sĩ nói chung muốn có chỗ đứng, muốn thể hiện
và khẳng định được mình phải sáng tác những tác phẩm có giá trị, tạo nên được
ánh sáng ban ngày, thứ ánh sáng tưởng như khơng màu, khơng sắc nhưng đó
chính là ánh sáng mạnh mẽ và hữu ích nhất cho con người. Người đọc phải cảm
nhận được vẻ đẹp chân thực, mộc mạc, giản dị của tác phẩm văn chương mới
thấy hết được giá trị đích thực của một tác phẩm văn học chân chính.
24
0,75