1
LỜI MỞ ĐẦU
Tính cấp thiết của đề tài :
Nền kinh tế nước ta trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội là nền kinh tế
nhiều thành phần. Đó là một tất yếu khách quan và cần thiết. Đại hội Đảng lần thứ
VI- đại hội đánh dấu bước ngoặt của công cuộc đổi mới- đã khẳng định: thực hiện
nhất quán, lâu dài chính sách kinh tế nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị
trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Chủ trương
này được Đại hội VII, Đại hội VIII của Đảng tiếp tục khẳng định và bổ sung, làm
rõ thêm. Trong q trình thực hiện chính sách kinh tế nhiều thành phần, Đảng ta
luôn luôn khẳng định thành phần kinh tế nhà nước đóng vai trị chủ đạo trong nên
kinh tế quốc dân. Thực tiễn 10 năm đổi mới vừa qua, Đảng và Nhà nước ta đã có
nhiều cố gắng củng cố, nâng cao vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước và thực tế
vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước đã từng bước được khẳng định.
Nhưng trong thực tiễn quản lý vĩ mô đối với kinh tế nhà nước có những mặt
bng lỏng, có mặt thắt chặt chưa hợp lý; trong khi đó, các doanh nghiệp thuộc các
thành phần kinh tế khác phát triển nhanh và trong quá trình hội nhập khu vực và
quốc tế nảy sinh những thách thức mới. Vì vậy, nếu chúng ta khơng có biện pháp
mạnh, kiên quyết, kịp thời, hợp lý để chủ động đổi mới, nâng cao hiệu quả của
kinh tế nhà nước thì kinh tế nhà nước sẽ gặp khó khăn trong q trình thực hiện vai
trị chủ đạo của mình.
LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Nước ta đi từ xuất phát điểm thấp kém đi lên XHCN từ một nước phong kiến nghèo
nàn lạc hậu cơ sở hạ tầng thấp kém lấy nơng nghiệp là ngành chính trong nền kinh tế, trình
độ dân trí thấp, sản xuất với quy mơ vừa và nhỏ. Từ sau 1986 (đại hội VI)của Đảng ta đã
2
chỉ rõ nước ta phải phát triển nền kinh tế hàng hố nhiều thành phần định hướng XHCN
có sự quản lí của nhà nước, trong đã kinh tế nhà nước nắm vai trị chủ đạo,dẫn dắt điều
tiết. chính vì vậy tại nghị quyết đại hội X đảng đã khẳng định chủ trương nhất quán của
đảng ta là phát triển nền kinh tế nhiều thành phần ,các thành phần kinh tế kinh doanh theo
đúng pháp luật ,cùng phát triển lâu dài hợp tác cạnh tranh lành mạnh .
Cùng với thực trạng nhiều sinh viên hiện nay chưa hiểu rõ về kinh tế nhà nước nên
chúng em đã quyết định chọn đề tài “Vai trò của kinh tế nhà nước trong nền kinh tế thị
trường định hướng XHCN ở Việt Nam ” với mong muốn tìm hiểu và học hỏi về những
vấn đề của nền kinh tế, xu thế phát triển của nền kinh tế trong nước cũng như trên thế giới,
quan điểm mục tiêu phát triển của đất nước sau này.
CHƯƠNG I : Cơ sở lý luận
I , Một số khái niệm :
1.
2.
3.
4.
Kinh tế thị trường :là nền kinh tế mà trong đó người mua và người bán
tác động với nhau theo quy luật cung cầu, giá trị để xác định giá cả và số
lượng hàng hoá, dịch vụ trên thị trường .
Xã hội chủ nghĩa : là thể chế chính trị chưa xuất hiện trên thực tế, song
nó được các nước có đảng cộng sản nắm quyền lãnh đạo tuyên bố sẽ đưa
đất nước mình theo con đường xã hội chủ nghĩa. Các nước này, tạm gọi
tắt là hệ thống Xơ viết, tự gọi mình là các nước xã hội chủ nghĩa, trong
đó từ chủ nghĩa xã hội được dùng theo nghĩa giai đoạn trước chủ nghĩa
cộng sản. Các nước khác lại gọi họ là các nước cộng sản.
Thành phần kinh tế : là khu vực kinh tế, kiểu quan hệ kinh tế dựa trên
một hình thức sở hữu nhất định về tư liệu sản xuất. Thành phần kinh tế
tồn tại ở những hình thức tổ chức kinh tế nhất định, trong đó căn cứ vào
quan hệ sản xuất (mà hạt nhân là quan hệ sở hữu) nào thống trị để xác
định từng thành phần kinh tế
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa : là tên gọi mà Đảng
Cộng sản Việt Nam đặt ra cho mơ hình kinh tế hiện tại của nước Cộng
hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam. Nó được mơ tả là một nền kinh tế thị
3
trường nhiều thành phần, trong đó khu vực kinh tế nhà nước giữ vai trò
chủ đạo, với mục tiêu dài hạn là xây dựng chủ nghĩa xã hội.
II Sơ lược về các giai đoạn của kinh tế Việt Nam
1 ,Kinh tế Việt Nam trước năm 1986
Kinh tế Việt Nam Dân chủ Cộng hịa có ba thành phần chính:
1) Nơng nghiệp
2) Công nghiệp và thủ công nghệ,
3) Thương nghiệp và viện trợ của quốc tế.
Nông nghiệp : Trong thời kỳ này (1946-1954) kinh tế nơng thơn và sản xuất nơng
nghiệp có vị trí đặc biệt quan trọng. Chính phủ đã từng bước thực hiện các chính
sách về ruộng đất, giảm tơ, giảm tức.
Sau chiến tranh Đông Dương, nông nghiệp kiệt quệ . Hệ thống giao thơng và cơ sở
hạ tầng nói chung bị tàn phá nghiêm trọng. Trong năm 1954 và đầu năm 1955,
Chính phủ và Quốc hội ra chỉ thị, chủ trương khôi phục kinh tế. Kế hoạch khôi
phục kinh tế trong 3 năm (1955-1957) là phấn đấu đạt các chỉ tiêu kinh tế trước
chiến tranh.
Công nghiệp : Sau chiến tranh chống Pháp, nền công nghiệp bị tàn phá và sút
giảm mạnh .So với nông nghiệp, Việt Nam Dân chủ Cộng hịa chủ trương coi trọng
cơng nghiệp nhất là dưới diện quốc doanh. Kế hoạch 5 năm 1961-1965 đề ra chỉ
tiêu tăng sản lượng công nghiệp 150% so với năm 1960 .Các xưởng hãng tư nhân
bị loại dần, đến năm 1964 thì chỉ cịn xí nghiệp quốc doanh hoạt động.Sang thời kỳ
1965-1975, giai đoạn không quân Mỹ tiến hành oanh tạc, Giai đoạn này, thay vì
khuếch đại đầu tư vào các cơng trình mới, đường lối phát triển cơng nghiệp đặt
trọng tâm vào việc bảo tồn thiết bị sẵn có và nâng cao năng suất để duy trì mức sản
xuất. Số liệu chính thức cho thấy giá trị hàng cơng nghiệp tăng gấp ba lần từ năm
1960 đến 1975, nhưng vì các cơ sở sản xuất phải phân tán do chiến tranh và các
tuyến vận tải bị đánh phá nên giá thành bị đẩy lên cao, không thể xuất khẩu ra thị
trường quốc tế mà chủ yếu cung cấp cho nội địa.
Thương nghiệp : Ngoại thương của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa gặp nhiều trở
ngại ở cả ba khâu nguyên liệu, vận chuyển và sản xuất
sản xuất rất khả quan nhưng xét về mức sinh hoạt và nhu cầu của người dân thì
cuộc sống vẫn rất thiếu thốn vì hàng tiêu dùng khan hiếm (do phần lớn nguồn lực
được đầu tư cho công nghiệp nặng, rồi sau lại được ưu tiên cho quân đội khi chiến
4
tranh xảy ra). Tình trạng này diễn ra ngay từ trước khi chiến tranh ảnh hưởng đến
các phương tiện sản xuất và phân phối.
Sự tàn phá của chiến tranh
Bắt đầu từ năm 1964, Hoa Kỳ bắt đầu tiến hành chiến tranh không quân và hải
quân chống Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Cuộc chiến tranh được Mĩ tiến hành chủ
yếu bằng không quân và một bộ phận hải quân
Thiệt hại vật chất Hoa Kỳ gây ra là rất lớn
Viện trợ
Ngay từ năm 1957, thu nhập từ thuế của Việt Nam Dân chủ Cộng hịa khơng đủ
cung cấp 50% chi tiêu ngân sách nhà nước. Khi cường độ cuộc chiến Việt Nam leo
thang thì kinh tế Việt Nam Dân chủ Cộng hịa bị dao động mạnh. Chi phí cho chiến
cuộc tiêu hao một phần rất lớn ngân sách. Những năm 1965-1967, viện trợ của
riêng hai nước Liên Xô và Trung Quốc chiếm 60% chi tiêu ngân sách. Khoản viện
trợ kinh tế lên tới 68,9% ngân sách quốc gia năm 1968 và tình trạng phụ thuộc viện
trợ kéo dài sang thập niên 1970. Vào thời điểm năm 1974, ngay trước khi chiến
tranh kết thúc thì tổng thu nội địa chỉ trang trải 39,4% chi tiêu. Còn lại là
60,6% ngân sách nhà nước trông vào viện trợ kinh tế của khối xã hội chủ nghĩa.
Chính sách kinh tế của nhà nước lúc bấy giờ là kiểm sốt lượng tiền lưu thơng và
nắm quyền điều khiển số tiền thặng dư hầu tiến lên xã hội chủ nghĩa.
2. Kinh tế Việt Nam từ năm 1986 đến nay
• Khái quát kinh tế Việt Nam trong giai đoạn 1986-2006
Trong 25 năm từ thời kỳ đổi mới toàn diện đất nước mơ hình phát triển kinh tế - xã
hội đã có nhiều thay đổi quan trọng phù hợp với các điều kiện trong nước và quốc
tế vì vậy nước ta đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng nâng cao đời sống nhân
dân, nâng cao vị thế quốc gia trên quốc tế. Có thể khái quát bởi hai mơ hình phát
triển theo thời gian như sau:
•
Từ 1986 - 1997
Mơ hình tăng trưởng kinh tế giai đoạn này là khắc phục khủng hoảng của mơ hình
kế hoạch hóa tập trung. Đặc điểm quốc tế của giai đoạn này là hệ thống các nước
XHCN bị tan rã, nước ta bị cơ lập về kinh tế do chính sách cấm vận của Mỹ. Trong
khi đó ở trong nước, mơ hình phát triển kinh tế dựa trên mối quan hệ toàn diện
trong khối SEV (Hội đồng tương trợ kinh tế ) mất dần sự hỗ trợ từ Liên Xô cũ và
các nước XHCN Đơng Âu nên nền kinh tế gặp khó khăn, không đáp ứng được nhu
5
cầu của nhân dân, lạm phát tăng cao cộng với việc điều chỉnh kinh tế vĩ mô chậm
được đổi mới để phù hợp với tình hình thực tế. Trong thời kỳ này, mục tiêu của mơ
hình tăng trưởng kinh tế là: đáp ứng các yêu cầu ổn định đời sống nhân dân, ổn
định kinh tế, ổn định chính trị đưa đất nước ra khỏi khủng hoảng.
Các đột phá cơ bản đã được áp dụng trong giai đoạn này bao gồm:
- Đột phá về tư duy chính trị, tư duy kinh tế để xóa bỏ các ràng buộc về thể chế
quản lý kinh tế, quản lý nhà nước từ mơ hình kinh tế kế hoạch hóa tập trung.
- Nơng nghiệp được coi trọng đổi mới thơng qua các chính sách như Chỉ thị 100,
Khoán 10 với mục tiêu trong thời gian một nhiệm kỳ Đại hội cơ bản ổn định được
đời sống của nhân dân.
- Ngành sản xuất hàng tiêu dùng được chọn làm một bước đột phá với mục tiêu là
thay thế hàng nhập khẩu.
- Thực hiện tổng thể các biện pháp chống cấm vận thông qua bước đột phá là thúc
đẩy thương mại Việt – Trung.
- Thực hiện đột phá, đổi mới về nhân sự.
Các biện pháp đột phá được chọn đã phát huy được tác dụng. Chỉ trong vịng 5
năm đã ổn định được kinh tế vĩ mơ, đời sống nhân dân được cải thiện đáng kể. Cụ
thể, từ một nước nhập khẩu lương thực Việt Nam đã trở thành nước xuất khẩu gạo
thứ 3 trên thế giới. Ổn định và mở quan hệ Việt – Trung sang một trang mới, tạo
tiền đề quan trọng trong việc Mỹ xóa bỏ cấm vận năm 1994 và Việt Nam tham gia
Hiệp hội các nước Đông Nam Á (ASEAN) một năm sau đó. Tăng trưởng kinh tế
đã góp phần ổn định xã hội, ổn định chính trị và bảo vệ CNXH.
•
Giai đoạn 1998 -2006
Mơ hình tăng trưởng kinh tế giai đoạn này là: tận dụng thời cơ hướng tới xuất
khẩu.Giai đoạn này, tình hình quốc tế có đặc điểm là thế giới 2 cực bị phá vỡ, mơ
hình đa cực chưa hình thành, kinh tế khu vực rơi vào khủng hoảng tài chính tiền tệ
(bắt đầu từ Thái Lan năm 1997). Ở trong nước, đời sống nhân dân được nâng cao,
tích lũy của cải trong xã hội được đầu tư cho phát triển do các nhà đầu tư cảm nhận
được sự thơng thống trong chính sách.
6
Mục tiêu của mơ hình tận dụng thời cơ hướng tới xuất khẩu là tận dụng mọi lợi thế
so sánh và điều kiện mở của thị trường Mỹ để phát triển nuôi trồng thủy sản, các
ngành công nghiệp chế biến thu hút nhiều lao động với yêu cầu tay nghề thấp.
Ngoại lực là quan trọng, nội lực là quyết định. Các đột phá chính trong thời kỳ này
có thể nêu ra:
- Tiếp tục chính sách mở cửa thu hút vốn đầu tư nước ngồi và đẩy mạnh q trình
cải cách hành chính.
- Đẩy mạnh cơng tác cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước.
- Ưu đãi với doanh nghiệp chế biến thủy sản xuất khẩu, dệt may, da giày xuất khẩu.
Thành tựu của giai đoạn này là đã góp phần đưa tổng kim ngạch XNK dần vượt
qua giá trị GDP cả nước, hàng hóa có xuất xứ từ Việt Nam được thị trường quốc tế
chấp nhận. Đời sống nhân dân tiếp tục được cải thiện, thành tích xóa đói giảm
nghèo được cộng đồng quốc tế ghi nhận. Tạo được bước đi vững chắc cho nước ta
trở thành thành viên của WTO.
3. Quan điểm xây dựng mơ hình phát triển trong giai đoạn 2012-2020
Để mơ hình có thể tạo ra một bước đột phá trong phát triển kinh tế - xã hội thì cần
được xây dựng trên những vấn đề cơ bản như sau:
- Huy động được tổng lực mọi thành phần kinh tế đầu tư phát triển kinh tế - bảo vệ
môi trường - ổn định xã hội.
- Tận dụng được các lợi thế của đất nước trong 10 năm tới là ổn định chính trị, giá
nhân cơng hợp lý (lương thấp cộng chi phí đào tạo thấp).
- Tận dụng được bối cảnh quốc tế: các nước ASEAN khủng hoảng kéo dài; kinh tế
khu vực và thế giới vẫn bị ảnh hưởng từ khủng hoảng tài chính năm 2008 và khủng
khoảng nợ công ở châu Âu từ năm 2011.
- Sử dụng mơ hình tam giác phát triển: kinh tế - bảo vệ môi trường - đảm bảo an
sinh xã hội để xây dựng mục tiêu ngắn và trung hạn nhằm tăng cường thông tin 2
chiều giữa vĩ mô và vi mô, tạo sự đồng thuận trong xã hội và công tác đánh giá
hiệu quả của cơ quan điều hành vĩ mô.
7
- Bám sát Cương lĩnh xây dựng CNH - HĐH năm 2011 đã được Đại hội Đảng toàn
quốc lần thứ XI thông qua.
- Tăng cường hợp tác quốc tế để tận dụng được sự giúp đỡ của các đối tác quốc tế
vào phát triển kinh tế Việt Nam
CHƯƠNG II : Kinh tế nhà nước Việt Nam
I, Kinh tế nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
1, Nguyên nhân thành phần kinh tế nhà nước trong nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa có vai trị quan trọng
Từ những ngày đầu giai cấp vơ sản giành được chính quyền và bắt tay vào xã hội
mới với một nền kinh tế mới. Đảng ta đã lãnh đạo nhân xây dựng đất nước theo
con đường XHCN, thực hiện mục tiêu “Dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng,
dân chủ và văn minh”. Để xây dựng nền chính trị XHCN thì địi hỏi phải có nền
kinh tế đặc trưng cho hình thái chính trị ấy - một nền kinh tế có thành phần chính
hình thành trên chế độ công hữu. Trong lúc bấy giờ, nền kinh tế Việt Nam dựa trên
chế độ tư hữu, đó là sở hữu tư nhân của những người sản xuất nhỏ và sở hữu tư
nhân của CNTB. Đối với hình thức này, nhà nước đã tiến hành cải tổ, sắp xếp để
phát triển thành phần kinh tế cá thể tiểu thủ công nghiệp và thành phần kinh tế tư
bản tư nhân - là đại diện của quan hệ sản xuất cũ CNTB. Vậy để xây dựng một nền
kinh tế mới XHCN, nhà nước đã đầu tư xây dựng các doanh nghiệp của mình trong
các nghành kinh tế, kết quả là hình thành nên một thành phần kinh tế mới – KTNN.
2,Quan điểm, mục tiêu, chủ trương của Đảng từ đại hội IX đến đại hội XII
•
Đại hội IX
Kinh tế nhà nước phát huy vai trò chủ đạo trong nền kinh tế, là lực lượng vật chất
quan trọng và là công cụ để Nhà nước định hướng và điều tiết vĩ mô nền kinh tế.
Doanh nghiệp nhà nước giữ những vị trí then chốt; đi đầu ứng dụng tiến bộ khoa
học và công nghệ; nêu gương về năng suất, chất lượng, hiệu quả kinh tế - xã hội và
chấp hành pháp luật.
Trong 5 năm tới, cơ bản hoàn thành việc củng cố, sắp xếp, điều chỉnh cơ cấu, đổi
mới và nâng cao hiệu quả hoạt động các doanh nghiệp nhà nước hiện có, đồng thời
phát triển thêm doanh nghiệp mà Nhà nước đầu tư 100% vốn hoặc có cổ phần chi
phối ở một số ngành, lĩnh vực then chốt và địa bàn quan trọng. Xây dựng một số
tập đoàn kinh tế mạnh trên cơ sở các tổng công ty nhà nước, có sự tham gia của
8
các thành phần kinh tế. Khẩn trương cải thiện tình hình tài chính và lao động của
các doanh nghiệp nhà nước; củng cố và hiện đại hoá một bước các tổng công ty
nhà nước.
Phân biệt quyền của chủ sở hữu và quyền kinh doanh của doanh nghiệp. Thực hiện
chế độ quản lý công ty đối với các doanh nghiệp kinh doanh dưới dạng công ty
trách nhiệm hữu hạn một chủ sở hữu là Nhà nước và công ty cổ phần có vốn Nhà
nước; giao cho hội đồng quản trị doanh nghiệp quyền đại diện trực tiếp chủ sở hữu
gắn với quyền tự chủ trong kinh doanh; quy định rõ quyền hạn và trách nhiệm của
các cơ quan quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp.
Tiếp tục đổi mới cơ chế, chính sách đối với doanh nghiệp nhà nước để tạo động lực
phát triển và nâng cao hiệu quả theo hướng: xố bao cấp; doanh nghiệp cạnh tranh
bình đẳng trên thị trường, tự chịu trách nhiệm về sản xuất, kinh doanh; nộp đủ thuế
và có lãi. Thực hiện tốt quy chế dân chủ trong doanh nghiệp. Có cơ chế phù hợp về
kiểm tra, kiểm soát, thanh tra của Nhà nước đối với doanh nghiệp.
Nhà nước tạo môi trường pháp lý thuận lợi, bình đẳng cho các doanh nghiệp cạnh
tranh và hợp tác để phát triển; khai thác hợp lý các nguồn lực của đất nước, bảo
đảm cân đối vĩ mô nền kinh tế, điều tiết thu nhập; kiểm tra, kiểm soát, thanh tra
mọi hoạt động kinh doanh theo quy định của pháp luật, chống buôn lậu, làm hàng
giả, gian lận thương mại
• Đại hội X
Trên cơ sở ba chế độ sở hữu (tồn dân, tập thể, tư nhân), hình thành nhiều hình
thức sở hữu và nhiều thành phần kinh tế: kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế
tư nhân (cá thể, tiểu chủ, tư bản tư nhân), kinh tế tư bản nhà nước, kinh tế có vốn
đầu tư nước ngoài. Các thành phần kinh tế hoạt động theo pháp luật đều là bộ phận
hợp thành quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, bình
đẳng trước pháp luật, cùng phát triển lâu dài, hợp tác và cạnh tranh lành mạnh.
Kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, là lực lượng vật chất quan trọng để Nhà nước
định hướng và điều tiết nền kinh tế, tạo môi trường và điều kiện thúc đẩy các thành
phần kinh tế cùng phát triển.
Doanh nghiệp cổ phần ngày càng phát triển, trở thành hình thức tổ chức kinh tế
phổ biến, thúc đẩy xã hội hoá sản xuất kinh doanh và sở hữu.
Xoá bỏ mọi sự phân biệt đối xử theo hình thức sở hữu; Nhà nước chỉ thực hiện sự
ưu đãi hoặc hỗ trợ phát triển đối với một số ngành, lĩnh vực, sản phẩm; một số mục
tiêu như xuất khẩu, tạo việc làm, xố đói giảm nghèo, khắc phục rủi ro; một số địa
bàn, các doanh nghiệp nhỏ và vừa.
Thực hiện Chiến lược quốc gia về phát triển doanh nghiệp. Xây dựng một hệ thống
doanh nghiệp Việt Nam nhiều về số lượng, có sức cạnh tranh cao, có thương hiệu
9
uy tín, trong đó chủ lực là một số tập đồn kinh tế lớn dựa trên hình thức cổ phần.
Nhà nước định hướng, tạo mơi trường để phát triển có hiệu quả các doanh nghiệp
theo cơ chế thị trường; bồi dưỡng, đào tạo và tơn vinh các doanh nhân có tài, có
đức và thành đạt.
Tiếp tục đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà nước
Hoàn thiện cơ chế, chính sách để các doanh nghiệp nhà nước thực sự hoạt động
trong môi trường cạnh tranh, công khai, minh bạch, nâng cao hiệu quả. Xoá bỏ độc
quyền và đặc quyền sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp nhà nước. Gắn trách
nhiệm, quyền hạn và lợi ích của người quản lý doanh nghiệp với kết quả hoạt động
của doanh nghiệp. Chăm lo đào tạo đội ngũ quản trị giỏi đáp ứng tốt yêu cầu quản
lý công ty theo chế độ hiện đại.
Đẩy mạnh việc sắp xếp, đổi mới và nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà nước,
trọng tâm là cổ phần hoá. Cơ cấu lại doanh nghiệp nhà nước, tập trung chủ yếu vào
một số lĩnh vực kết cấu hạ tầng, sản xuất tư liệu sản xuất và dịch vụ quan trọng của
nền kinh tế, vào một số lĩnh vực cơng ích. Đẩy mạnh và mở rộng diện cổ phần hố
doanh nghiệp nhà nước, kể cả các tổng cơng ty nhà nước. Đề phòng và khắc phục
những lệch lạc, tiêu cực trong q trình cổ phần hố doanh nghiệp nhà nước.
Thúc đẩy việc hình thành một số tập đồn kinh tế mạnh, tầm cỡ khu vực, có sự
tham gia cổ phần của Nhà nước, của tư nhân trong và ngồi nước, các cơng ty bảo
hiểm, các quỹ đầu tư..., trong đó Nhà nước giữ cổ phần chi phối
• Đại hội XI
Tiếp tục thể chế hoá quan điểm của Đảng về phát triển đa dạng các hình thức sở
hữu, các thành phần kinh tế, các loại hình doanh nghiệp; bảo hộ các quyền và lợi
ích hợp pháp của chủ sở hữu tài sản thuộc các hình thức sở hữu, các loại hình
doanh nghiệp trong nền kinh tế; xây dựng, hồn thiện luật pháp về sở hữu đối với
các loại tài sản mới như sở hữu trí tuệ, cổ phiếu, trái phiếu, tài nguyên nước..., quy
định rõ quyền, trách nhiệm của các chủ sở hữu đối với xã hội.
Đổi mới, hoàn thiện luật pháp, cơ chế, chính sách về sở hữu đối với đất đai, tài
nguyên, vốn và các loại tài sản công khác để tài nguyên, vốn và các tài sản cơng
được quản lý, sử dụng có hiệu quả, khắc phục tình trạng thất thốt, lãng phí. Các
chủ thể có quyền và nghĩa vụ như nhau trong sử dụng có hiệu quả các nguồn lực
của Nhà nước. Khắc phục tình trạng bộ máy quản lý hành chính tham gia trực tiếp
vào các hoạt động kinh doanh thông qua mệnh lệnh hành chính.
Đẩy mạnh đổi mới, sắp xếp và nâng cao hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp nhà
nước. Khẩn trương cơ cấu lại ngành nghề kinh doanh của các tập đồn kinh tế và
các tổng cơng ty nhà nước, tập trung vào một số ngành, lĩnh vực then chốt của nền
kinh tế. Từng bước xây dựng các doanh nghiệp mang tầm khu vực và toàn cầu.
10
Xác định đúng đắn, cụ thể hơn quyền hạn, trách nhiệm của hội đồng quản trị và
giám đốc doanh nghiệp đối với vốn và tài sản nhà nước tại doanh nghiệp, vừa bảo
đảm quyền chủ động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, vừa bảo toàn, nâng
cao hiệu quả sử dụng vốn và tài sản nhà nước.
Đẩy mạnh đổi mới tổ chức, cơ chế hoạt động của các đơn vị dịch vụ công phù hợp
với kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Các đơn vị này có quyền chủ
động và được khuyến khích, tạo điều kiện thuận lợi để tham gia thị trường, cung
cấp ngày càng nhiều và tốt hơn dịch vụ công cho xã hội, nhất là dịch vụ y tế, giáo
dục, đào tạo, khoa học, cơng nghệ..
• Đại hội XII
Văn kiện Đại hội XII đã nêu phương hướng hoàn thiện thể chế, phát triển kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa trong nhiệm kỳ tới, trong đó có những
điểm mới như sau:
Tiếp tục thống nhất nhận thức nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa;
có giá trị định hướng, cần được tiếp tục cụ thể hóa, thể chế hóa phù hợp với từng
giai đoạn phát triển trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Đại hội XII đã có bước phát triển mới rất rõ nét, xác định đặc trưng cơ bản của nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam như sau: "Nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nền kinh tế vận hành đầy đủ,
đồng bộ theo các quy luật của kinh tế thị trường, đồng thời bảo đảm định hướng xã
hội chủ nghĩa phù hợp với từng giai đoạn phát triển của đất nước. Đó là nền kinh tế
thị trường hiện đại và hội nhập quốc tế; có sự quản lý của Nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo, nhằm mục tiêu "dân giàu,
nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh"
Văn kiện Đại hội cũng đã nêu khái quát những nội dung quan trọng về các bộ phận
cấu thành, vai trò của thị trường, vai trò của Nhà nước, vai trò của nhân dân và
mục tiêu bảo đảm tiến bộ và công bằng xã hội trong phát triển nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa: "Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa Việt Nam có quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp với trình độ phát triển của
lực lượng sản xuất; có nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, trong đó
kinh tế nhà nước giữ vai trị chủ đạo, kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng
của nền kinh tế; các chủ thể thuộc các thành phần kinh tế bình đẳng, hợp tác và
cạnh tranh theo pháp luật; thị trường đóng vai trị chủ yếu trong huy động và phân
bổ có hiệu quả các nguồn lực phát triển, là động lực chủ yếu để giải phóng sức sản
xuất; các nguồn lực nhà nước được phân bổ theo chiến lược, quy hoạch, kế hoạch
11
phù hợp với cơ chế thị trường. Nhà nước đóng vai trị định hướng, xây dựng và
hồn thiện thể chế kinh tế, tạo mơi trường cạnh tranh bình đẳng, minh bạch và lành
mạnh; sử dụng các cơng cụ, chính sách, các nguồn lực của Nhà nước để định
hướng và điều tiết nền kinh tế, thúc đẩy sản xuất kinh doanh và bảo vệ môi trường;
thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội trong từng bước, từng chính sách phát triển.
Phát huy vai trò làm chủ của nhân dân trong phát triển kinh tế- xã hội”
Cách thể hiện như trên đã khái quát rõ nét những vấn đề cơ bản kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa, trong đó vấn đề định hướng xã hội chủ nghĩa thể hiện
ở năm điểm: có sự quản lý của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa; do Đảng
Cộng sản Việt Nam lãnh đạo; phát huy vai trò làm chủ của nhân dân trong phát
triển kinh tế - xã hội; xác lập quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp để thúc đẩy phát
triển mạnh lực lượng sản xuất; và nhất là: thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội trong
từng bước, từng chính sách phát triển.
Vấn đề “kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo” đã được thống nhất nêu rõ trong
Cương lĩnh và Hiến pháp. Trong khi khẳng định nền kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa có nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế thì cũng xác
định: “kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo”. Kinh tế nhà nước gồm nguồn lực nhà
nước và doanh nghiệp nhà nước. Doanh nghiệp nhà nước, cũng như doanh nghiệp
thuộc các thành phần kinh tế khác nhau đều phải hoạt động theo cơ chế thị trường,
bình đẳng và cạnh tranh theo pháp luật. Trong Văn kiện Đại hội XII đã nêu: “Tiếp
tục đẩy mạnh cơ cấu lại doanh nghiệp nhà nước theo hướng: doanh nghiệp nhà
nước tập trung vào những lĩnh vực then chốt, thiết yếu; những địa bàn quan trọng
và quốc phòng, an ninh; những lĩnh vực mà doanh nghiệp thuộc các thành phần
kinh tế khác khơng đầu tư. . Cịn các nguồn lực nhà nước (tài nguyên, đất đai, ngân
sách nhà nước, các quỹ dự trữ quốc gia,...), cùng với các cơng cụ, chính sách được
Nhà nước sử dụng để định hướng, điều tiết nền kinh tế, thực hiện tiến bộ và công
bằng xã hội.
Mục tiêu
Đại hội XII xác định mục tiêu đến năm 2020 là: "phấn đấu cơ bản hoàn thiện đồng
bộ hệ thống thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa theo các tiêu
chuẩn phổ biến của nền kinh tế thị trường hiện đại và hội nhập quốc tế; bảo đảm
tính đồng bộ giữa thể chế kinh tế và thể chế chính trị, giữa Nhà nước và thị trường;
bảo đảm sự hài hoà giữa tăng trưởng kinh tế với phát triển văn hoá, phát triển con
người, thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội, bảo đảm an sinh xã hội, bảo vệ môi
trường, phát triển xã hội bền vững; chủ động, tích cực hội nhập kinh tế quốc tế gắn
12
với xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ; bảo đảm tính cơng khai, minh bạch, tính
dự báo được thể hiện trong xây dựng và thực thi thể chế kinh tế, tạo điều kiện ổn
định, thuận lợi cho phát triển kinh tế - xã hội”
-
Chủ trương :
-
Tập trung hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường đồng bộ, hiện đại trên cơ sở
tuân thủ đầy đủ các quy luật của kinh tế thị trường và hội nhập kinh tế quốc
tế sâu rộng.
-
Tiếp tục hoàn thiện khung pháp lý, cơ chế, chính sách, thực hiện đồng bộ
các giải pháp để phát triển, vận hành thông suốt, hiệu quả, đồng bộ và khả
thi các loại thị trường và bảo đảm cạnh tranh bình đẳng, minh bạch.
-
Việc xây dựng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, phân bổ nguồn lực cho sản
xuất kinh doanh và quản lý giá phải theo cơ chế thị trường.
-
Đồng thời, Nhà nước sử dụng thể chế, nguồn lực, cơng cụ điều tiết, cơ chế,
chính sách phân phối, phân phối lại để phát triển văn hóa, thực hiện dân chủ,
tiến bộ, công bằng xã hội, bảo đảm an sinh xã hội, giảm nghèo, từng bước
nâng cao phúc lợi xã hội và đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân.
II, Vai trò của thành phần kinh tế nhà nước trong nền kinh tế thị trường định
hướng XHCN
1.Thứ nhất, vai trị chủ đạo của kinh tế nhà nước khơng chỉ biểu hiện ở số
lượng doanh nghiệp nhà nước, tỷ trọng đóng góp giá trị sản lượng trong GDP, mà
trước hết là ở trình độ quản lý, điều tiết năng lực cạnh tranh và hiệu quả phát
triển, chất lượng sản phẩm. Đầu tư vào những dự án lớn, đòi hỏi vốn lớn mà thời
gian thu hồi vốn lại chậm…
Phân tích vai trị :
Cùng với cơng cuộc Đổi mới, nhận thức về vai trị chủ đạo của kinh tế nhà nước
cũng có sự phát triển và điều chỉnh linh hoạt thích hợp với cơ chế thị trường và yêu
cầu hội nhập quốc tế sâu, rộng, đầy đủ và nghiêm túc của Việt Nam.
Nếu trước Đổi mới, ở Việt Nam chỉ có thành phần kinh tế nhà nước là chủ yếu, nên
doanh nghiệp nhà nước cũng đồng thời có vai trị chủ đạo trong khu vực doanh
nghiệp xã hội.
Ngày nay, cùng với sự phát triển kinh tế đa thành phần và quá trình hội nhập, khu
vực các doanh nghiệp nhà nước sẽ ngày càng giảm tỷ trọng và do đó giảm dần vai
13
trò chủ đạo theo nghĩa truyền thống và biến đổi theo huớng, từ chủ đạo tuyệt đối về
lượng, lĩnh vực kinh doanh, sang chỉ chủ đạo, then chốt trong một số lĩnh vực mà
thôi, tập trung vào những lĩnh vực mà nhà nước cần độc quyền và tư nhân không
thể, khơng muốn đảm nhiệm.
Nghị định 99/2012/NĐ-CP của Chính phủ khẳng định, Chính phủ thống nhất quản
lý và thực hiện chức năng chủ sở hữu đối với doanh nghiệp nhà nước và vốn nhà
nước đầu tư vào doanh nghiệp.
Nhà nước chỉ đầu tư vốn, tài sản vào doanh nghiệp hoạt động trong những ngành,
lĩnh vực, khâu then chốt, cung cấp sản phẩm, dịch vụ cơng ích thiết yếu cho xã hội
và quốc phòng, an ninh, làm nòng cốt để kinh tế nhà nước thực hiện được vai trò
chủ đạo, là lực lượng vật chất quan trọng để Nhà nước định hướng, điều tiết nền
kinh tế và ổn định kinh tế vĩ mơ.
Nói cách khác, doanh nghiệp nhà nước nói riêng, vai trị kinh tế nhà nước nói
chung ngày càng giảm dần vai trị của mình trong nền kinh tế vì lợi nhuận, ngày
càng thu hẹp sự chủ đạo từ phạm vi tồn bộ nền kinh tế chỉ cịn tập trung vào một
số lĩnh vực, ngành kinh tế chủ chốt.
Đồng thời, vai trò chủ đạo của khu vực kinh tế nhà nước trong thời gian tới cũng
cần được nhấn mạnh vào các nội dung và mục tiêu: Nắm giữ các tài sản, tổ chức
các hoạt động độc quyền thuộc lĩnh vực đảm bao an ninh quốc gia và trật tự an
toàn xã hội; chủ động giữ vững các cân đối cơ cấu lớn, liên ngành, cấp quốc gia và
ở địa phương, địa bàn cần thiết; chủ động và trực tiếp đảm nhận đầu tư vào những
dự án, địa bàn không hấp dẫn hoặc cần thiết để định hướng, mở rộng đầu tư phát
triển từ các nguồn vốn ngoài ngân sách nhà nước.
Trên thực tế, vai trò chủ đạo của khu vực kinh tế nhà nước trong nền kinh tế quốc
dân sẽ ngày càng linh hoạt và dịch chuyển theo hướng thu hẹp dần cả về quy mô,
tỷ trọng và phạm vi hoạt động; từ chiếm hầu như địa vị thống trị trong toàn bộ nền
kinh tế trong nền kinh tế đơn thành phần, sang giảm dần tỷ trọng trong kinh tế đa
thành phần; và từ có mặt ở tất cả các ngành, nghề, lĩnh vực trên phạm vi toàn quốc,
sẽ ngày thu hẹp chủ đạo vào một số lĩnh vực, ngành kinh tế chủ chốt; ngày càng
được nhấn mạnh vào các nội dung và mục tiêu vì lợi ích quốc gia và hỗ trợ tối đa
kinh tế tư nhân phát triển.
Thành tựu :
Theo tổng điều tra của Tổng cục thống kê năm 2016, Bình qn một DNNN đóng
góp nhiều nhất cho ngân sách nhà nước: “Kết quả TĐT cho thấy, trong năm 2016
mặc dù số lượng DNNN ít nhưng thuế và các khoản đã nộp ngân sách bình quân
một DN của khu vực DNNN đạt cao nhất với 104 tỷ đồng/DN cao hơn rất nhiều so
với DN FDI là 18 tỷ đồng/DN và DN ngoài nhà nước là 1 tỷ đồng/DN. Mức thuế
và các khoản đã nộp ngân sách của các DN lớn chiếm tới 67,5%, các doanh nghiệp
nhỏ chiếm 19,4% còn lại là các DN vừa và DN siêu nhỏ. Xét theo quy mơ DN thì
14
mức thuế và các khoản đã nộp ngân sách bình quân trên một DN ở các DN lớn đạt
57,8 tỷ đồng/DN, DN vừa là 8 tỷ đồng/DN và DN siêu nhỏ đóng góp ít nhất với
122 triệu đồng/DN”1.
Hơn nữa, sự chủ đạo của kinh tế nhà nước khơng có nghĩa là kinh tế nhà nước lấn
át, đè nén và đối lập với kinh tế tư nhân, càng khơng có nghĩa là doanh nghiệp nhà
nước hưởng mọi ưu đãi vô điều kiện, mà cần sự bình đẳng giữa doanh nghiệp nhà
nước với các doanh nghiệp khác đã đuợc xác định trong nhiều luật định khác hiện
hành (nhất là Luật Doanh nghiệp, Luật Đấu thầu, Luật Đầu tư công...)
2.Thứ hai:
Trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, kinh tế nhà n ước phải
là trụ cột để đẩy lùi các nguy cơ chệch hướng XHCN, tụt h ậu xa hơn v ề
kinh tế, đồng thời phải là cơ sở vững chắc để khắc phục những h ạn
chế, khuyết điểm của cơ chế thị trường.
Phân tích vai trị :
Trong cơ cấu kinh tế nhiều thành phần, kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo là đòi
hỏi cấp thiết của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, là chế độ sở hữu phù
hợp với xu hướng xã hội hóa của lực lượng sản xuất, bảo đảm cho nền kinh tế
tránh được nguy cơ chệch hướng.
Mục tiêu vận động của nền kinh tế nước ta là đi lên chủ nghĩa xã hội, vì vậy, vai
trò của các thành phần kinh tế trong tiến trình vận động là khơng thể ngang bằng
nhau. Kinh tế nhà nước nắm giữ những vị trí then chốt, yết hầu, xương sống của
nền kinh tế, do đó nó có khả năng, có điều kiện chi phối hoạt động của các thành
phần kinh tế khác, quyết định phương hướng vận động phát triển của toàn bộ nền
kinh tế.
Kinh tế nhà nước là lực lượng bảo đảm cho sự phát triển ổn định của nền kinh tế;
vừa là công cụ kinh tế quan trọng nhất để củng cố và xây dựng nhà nước XHCN
ngày càng vững mạnh, từng bước hình thành trật tự kinh tế, văn hóa xã hội theo
định hướng XHCN.
Kinh tế nhà nước có thể tác động tới các thành phần kinh tế khác không chỉ bằng
các công cụ và đòn bẩy kinh tế, mà còn bằng con đường gián tiếp, thông qua
những thiết chế và hoạt động của kiến trúc thượng tầng xã hội chủ nghĩa.
1
15
Kinh tế nhà nước là lực lượng nịng cốt hình thành các trung tâm kinh tế, đô thị
mới; là lực lượng có khả năng đầu tư vào những lĩnh vực có vị trí quan trọng.
Về mặt thực tiễn, q trình phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở
nước ta những năm qua đã khẳng định rõ Đảng và Nhà nước ta thực hiện nhất quán
chủ trương phát triển nền kinh tế nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường
có sự quản lý của Nhà nước, theo định hướng xã hội chủ nghĩa, nhờ đó huy động
được nhiều nguồn lực của mọi thành phần kinh tế vào mục tiêu tăng trưởng kinh tế,
làm cho tỷ lệ tiết kiệm và đầu tư trên GDP đều tăng nhanh.
Nền kinh tế nước ta là nền kinh tế nhiều thành phần, các thành phần kinh tế không
tồn tại biệt lập, mỗi thành phần kinh tế là một bộ phận cấu thành của nền kinh tế
quốc dân thống nhất, nhưng lại dựa trên một hình thức sở hữu nhất định về tư liệu
sản xuất.
Các thành phần kinh tế hoạt động theo pháp luật đều là bộ phận cấu thành quan
trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, bình đẳng trước
pháp luật, hợp tác và cạnh tranh lành mạnh, cùng phát triển lâu dài. Trong đó kinh
tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, là lực lượng vật chất quan trọng để Nhà nước định
hướng và điều tiết nền kinh tế, tạo môi trường và điều kiện thúc đẩy các thành
phần kinh tế cùng phát triển; phát triển kinh tế tư nhân là vấn đề chiến lược lâu dài
trong phát triển nền kinh tế nhiều thành phần định hướng xã hội chủ nghĩa; nguồn
lực của các nhà đầu tư nước ngoài được thu hút mạnh; kinh tế cổ phần ngày càng
phát triển, trở thành hình thức tổ chức kinh tế phổ biến, thúc đẩy xã hội hóa sản
xuất và đầu tư.
Trong những năm qua, mặc dù số lượng doanh nghiệp nhà nước có giảm đi, nhưng
vẫn góp phần quan trọng để kinh tế nhà nước thực hiện vai trò chủ đạo, ổn định và
phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm an sinh xã hội và nhu cầu quốc phòng, an ninh.
Nhà nước tạo lập khung khổ pháp lý cho hoạt động sản xuất kinh doanh diễn ra
hiệu quả. Chỉ duy nhất nhà nước có được chức năng này. Hệ chuẩn pháp luật kinh
tế của nhà nước càng được xây dựng đồng bộ, đúng đắn, nhất qn và kịp thời bao
nhiêu, càng có tác động tích cực tới sự vận hành của nền kinh tế bấy nhiêu. Song,
tự nó, pháp luật kinh tế khơng gây ra những biến đổi trong hiện thực kinh tế. Để
cho các luật kinh tế trở thành tác nhân kích thích phát triển kinh tế, chúng phải
được đưa vào vận hành. Nhà nước chính là thiết chế chủ yếu đảm đương nhiệm vụ
này. Năng lực điều hành kinh tế bằng pháp luật là một thước đo đánh giá sự trưởng
thành và vai trò của nhà nước trong kinh tế.
16
Vai trò của nhà nước đối với sự phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa cũng thể hiện ở việc nhà nước góp phần đắc lực vào việc tạo môi trường
cho thị trường phát triển, như tạo lập kết cấu hạ tầng kinh tế cho sản xuất, lưu
thơng hàng hóa; tạo lập sự phân cơng lao động theo ngành, nghề, vùng kinh tế qua
việc nhà nước tiến hành quy hoạch phát triển kinh tế theo lợi thế từng vùng, ngành
và nhu cầu chung của xã hội… Là chủ thể trực tiếp sở hữu hoặc quản lý, khai thác
những cơ quan truyền thông mạnh nhất của quốc gia, nhà nước góp phần cung cấp
thơng tin thị trường cho các chủ thể kinh tế để các chủ thể này chủ động lựa chọn
phương án sản xuất kinh doanh, đối tác kinh tế, thời điểm thực hiện các giao dịch
kinh tế, cách thức sản xuất kinh doanh có hiệu quả nhất trong điều kiện cụ thể của
mình…
Muốn sản xuất phải có an tồn về mơi trường xã hội, mơi trường kinh doanh, môi
trường an ninh – trật tự, an toàn trong quan hệ giữa người và người, giữa doanh
nghiệp và các cơ quan cơng quyền… Ngồi những nỗ lực của nhà nước trong sự
đồng tình của nhân dân, khơng lực lượng nào khác có thể tạo lập được những yêu
cầu an toàn như vậy.
Thành tựu : Trong xu thế tồn cầu hóa hiện nay, sự giao lưu kinh tế, hội nhập kinh
tế quốc tế của mọi quốc gia chỉ có hiệu quả cao, khi có tác nhân khởi thủy từ phía
nhà nước, được hỗ trợ đắc lực từ phía nhà nước. Bằng chính sách hội nhập đúng
đắn và năng lực tổ chức thực hiện có hiệu quả chính sách đó, nhà nước góp phần
khởi đầu và có tác động tích cực vào q trình thiết lập quan hệ quốc tế.
Đại diện cho đất nước tham gia vào các quá trình soạn thảo và thơng qua chuẩn
mực luật pháp kinh tế, các hiệp định kinh tế, các nghị định thư…, Nhà nước ta góp
phần tạo cho chủ thể kinh tế của đất nước vị trí có lợi trong quan hệ kinh tế quốc
tế. Sự kiện đàm phán gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) thành công là
chứng minh rõ rệt cho điều này.
3.Thứ ba:
kinh tế nhà nước phải đi đầu trong việc kết hợp với quốc phòng, an
ninh để bảo đảm hài hòa theo quan điểm phát triển và ổn định c ủa
Đảng trong mọi hoàn cảnh, điều kiện. Đây là vai trò đ ộc quy ền, ch ủ
đạo, kéo theo sự tham gia của các thành phần kinh t ế khác.
Phân tích vai trị : Đúng thật như vậy, phát triển kinh tế nhà nước đi đôi với tăng
cường sức mạnh an ninh - quốc phòng.Một đất nước ổn định chính trị, quốc phịng,
an ninh sẽ là điều kiện thuận lợi cho phát triển kinh tế - xã hội. Các tập đồn kinh
tế, tổng cơng ty nhà nước, ngoài nhiệm vụ kinh tế cần tham gia nhiệm vụ an ninh,
quốc phịng và thực hiện chính sách an sinh xã hội. Không chỉ chú trọng vào nhiệm
17
vụ sản xuất, kinh doanh, các tập đoàn kinh tế, tổng cơng ty nhà nước cần nâng cao
vai trị trong chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, vừa là nhân tố trọng
yếu để thực hiện mục tiêu phát triển kinh tế nhanh, bền vững ở nước ta hiện nay.
Phát triển kinh tế nhà nước là cơ sở tăng cường quốc phịng, an ninh, xây dựng mơi
trường kinh tế ổn định, xây dựng kết cấu hạ tầng bền vững, phát triển lực lượng
sản xuất hiện đại, quan hệ sản xuất phù hợp.
Bảo vệ Tổ quốc khơng cịn bó hẹp trong lĩnh vực quân sự, quốc phòng, an
ninh mà được mở rộng đến tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội... theo quan
điểm của Đảng ta là kết hợp kinh tế, văn hóa, xã hội với quốc phòng, an ninh; quốc
phòng, an ninh với kinh tế, văn hóa, xã hội.
Tăng cường quốc phịng, an ninh phải đặt lợi ích quốc gia - dân tộc lên hàng
đầu, phải tạo được một mơi trường hịa bình, ổn định, trật tự và an toàn xã hội, tạo
điều kiện cho mọi thành phần kinh tế phát triển, mọi công dân yên tâm sản xuất,
phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, lấy đó làm điểm tương đồng trong nhận thức và
hành động bảo vệ Tổ quốc của mọi giai cấp, tầng lớp, trong đó nâng cao vai trị
chủ đạo của kinh tế nhà nước.
Thành tựu : Các lực lượng quân đội tham gia phát triển kinh tế biển, nhất là các
đội tàu đánh bắt cá xa bờ đã kết hợp tốt giữa sản xuất kinh tế với bảo đảm quốc
phòng - an ninh trên các vùng biển và làm chỗ dựa tin cậy cho ngư dân và các lực
lượng khác của ta phát triển kinh tế biển, đặc biệt là ở các vùng biển, đảo xa bờ.
4.Thứ tư:
kinh tế nhà nước là yếu tố bảo đảm cho nền kinh tế phát tri ển b ền
vững, cạnh tranh lành mạnh, có trách nhiệm điều phối ho ạt động c ủa
các thành phần kinh tế khác theo đường l ối phát triển kinh t ế - xã h ội
của Đảng. Đặc biệt trong các lĩnh vực chủ chốt, vĩ mô c ủa n ền kinh t ế
thị trường định hướng XHCN, như xây dựng chiến lược phát triển kinh
tế, xây dựng kết cấu hạ tầng, dịch vụ cơng, tạo điều kiện kích thích các
thành phần kinh tế khác cùng phát triển.
Phân tích vai trị : Nhìn tổng thể thì nhà nước đang dần tạo một sân chơi
bình đẳng cho tất cả các thành phần kinh tế. Nhưng trên thực tế kinh tế nhà nước
vẫn có nhiều lợi thế hơn so với các thành phần kinh tế khác đang cùng tồn tại. Có
nhiều nguyên nhân, song có thể thấy một nguyên nhân rất quan trọng là nền kinh tế
của Việt Nam phát triển theo định hướng XHCN, mà trong đó kinh tế nhà nước là
nền tảng, giữ vai trò chủ đạo. Với quan điểm đó, kinh tế nhà nước ln được chú ý
18
đặc biệt trong hầu hết các lĩnh vực, nhất là các lĩnh vực chủ yếu, then chốt của nền
kinh tế.
Do đó, có thể tồn tại và phát triển, các thành phần kinh tế khác sẽ phải tìm
cách để hạn chế và khắc phục sự bất cập so với kinh tế nhà nước do cơ chế đem lại
cho kinh tế nhà nước. Vì vậy cần có cơ chế đa dạng hóa các hình thức sở hữu trong
từng doanh nghiệp để có thể huy động tốt nhất các nguồn lực trong và ngồi nước.
Kinh tế nhà nước giữ vai trị chủ đạo, nhưng tùy từng hồn cảnh cụ thể, khơng nên
máy móc, câu nệ về tỷ lệ giữa các loại hình sở hữu. Sự đan xen các hình thức sở
hữu ở các doanh nghiệp, các ngành, các vùng có thể khác nhau, miễn sao phát triển
được lực lượng sản xuất và cải thiện được đời sống của nhân dân.
Hoạt động của doanh nghiệp nhà nước sắp xếp, đổi mới và nâng cao hiệu
quả . Thực chất của việc cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước là chuyển đổi sở hữu
tài sản của Nhà nước cho các cổ đơng sở hữu. Đó là một trong các hình thức đa
dạng hóa sở hữu các doanh nghiệp nhà nước, nhằm xây dựng nền kinh tế nhiều
thành phần, phát triển theo định hướng XHCN.
Ngoài ra, các hình thức khác, như khốn, cho th tài sản, cửa hàng, sát
nhập và liên doanh cũng là những hình thức được sử dụng khá phổ biến và làm cho
mức đa dạng hóa các sở hữu doanh nghiệp nhà nước thêm phong phú và mang lại
hiệu quả tích cực cho sự phát triển của nền sản xuất xã hội. Đặc biệt là trong khu
vực nông, lâm, ngư nghiệp và dịch vụ.
Tiếp tục đẩy mạnh cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước, kể cả các tập đồn
kinh tế và tổng cơng ty nhà nước, tập trung tháo gỡ tình trạng cổ phần hóa mang
tính khép kín, khắc phục những vướng mắc, tiêu cực khi tính giá thương hiệu,
quyền sử dụng đất, tài sản doanh nghiệp và lợi ích nhóm trong q trình cổ phần
hóa. Ban hành các quy định, hướng dẫn cụ thể để thực hiện việc sắp xếp lại doanh
nghiệp nhà nước theo ngành, lĩnh vực kinh doanh không phân biệt cấp, cơ quan
quản lý. Tiếp tục nghiên cứu mơ hình tổ chức thực hiện các quyền, trách nhiệm,
nghĩa vụ của chủ sở hữu nhà nước đối với doanh nghiệp nhà nước bảo đảm phù
hợp, hiệu quả.
Thành tựu: Xây dựng đường cao tốc Bắc- Nam. Dự án đường ôtô cao tốc Bắc –
Nam CT.01 có tổng chiều dài 1.811 km, với điểm đầu là nút giao Pháp Vân (Hà
Nội) điểm cuối là nút giao Chà Và (Cần Thơ).
19
KẾT LUẬN
Tư duy về kinh tế của Đảng được đổi mới bắt đầu t ừ khi ch ấp nh ận phát
triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận động theo cơ chế th ị
trường, có sự quản lý của Nhà nước ở Đại hội VI và qua các kỳ Đại h ội tiếp
theo đã liên tục đổi mới.
Nhưng hiện nay, năng lực cạnh tranh c ủa n ền kinh t ế n ước ta ch ậm
được cải thiện. Tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế cũng đã ch ậm l ại.
Xã hội có khơng ít vấn đề bức xúc. Một trong những nguyên nhân là động l ực
mà những cải cách trước đây tạo ra đã khơng cịn đủ mạnh đ ể thúc đẩy phát
triển.
Đảng Cộng sản Việt Nam cần đổi mới mạnh mẽ để có thêm động lực
làm cho nền kinh tế có tăng trưởng nhanh và phát triển bền vững. Ngu ôn
động lực cho phát triển chỉ có thể đến từ đổi mới mạnh mẽ th ể chế chính tr ị,
thể chế kinh tế và phát huy mạnh mẽ quyền làm chủ của Nhân dân.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, n ền kinh t ế th ị tr ường
định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam với kinh tế nhà n ước làm ch ủ đ ạo sẽ
là một nền kinh tế ở đó có thể chế kinh tế tối ưu nhất, bảo đảm cho các y ếu
tố thị trường phát triển đầy đủ, sự phân bổ nguôn l ực hiệu quả đ ược th ực
hiện triệt để theo cơ chế thị trường và hàm chứa đầy đủ tính ưu việt c ủa ch ủ
nghĩa xã hội.
Tài liệu tham khảo :
- Bách khoa toàn thư về kiến thức kinh tế
- Bài chi tiết: Đồng (tiền Việt Nam Dân chủ Cộng hịa)
- Giáo trình : “ Đường lối cách mạng của Đảng cộng sản Việt Nam”- Book
giáo dục và đào tạo
- Thống kê của tổng cục thống kê Việt Nam
- Báo điện tử , báo mạng …
20
Mục lục