TRƯỜNG ĐẠI HỌC QUẢNG BÌNH
KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ
TRỊNH THỊ NHẬT LỆ
KHĨA LUẬN TỐT NGHIỆP
THỰC TRẠNG XÂM HẠI TÌNH DỤC TRẺ EM
TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH QUẢNG BÌNH
NGÀNH: LUẬT HỌC
NIÊN KHĨA: 2014 - 2018
Quảng Bình, năm 2018
ĐẠI HỌC QUẢNG BÌNH
KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ
KHĨA LUẬN TỐT NGHIỆP
THỰC TRẠNG XÂM HẠI TÌNH DỤC TRẺ EM
TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH QUẢNG BÌNH
Ngành: Luật học
Niên khóa: 2014 - 2018
SINH VIÊN THỰC HIỆN: TRỊNH THỊ NHẬT LỆ
NGƯỜI HƯỚNG DẪN: Th.S PHÙNG THỊ LOAN
Quảng Bình, năm 2018
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan rằng số liệu và kết quả nghiên cứu trong khóa luận là trung
thực. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Khóa luận đảm bảo tính chính xác, tin cậy
và trung thực. Tơi cũng xin cam đoan rằng đây là khóa luận do tôi tự nghiên cứu
dựa trên cơ sở lý luận và thực tiễn nghiên cứu, các thơng tin trích dẫn trong khóa
luận đã được chỉ rõ nguồn gốc.
Sinh viên
Trịnh Thị Nhật Lệ
THỐNG KÊ TRÍCH DẪN
STT
Tác giả tài liệu trích dẫn
Trang Khóa
Tần suất trích
luận
dẫn
72
01
17,21
02
22
01
18
01
24
01
44
01
43,44,47,48
04
34,36,37
03
38,80
01
TS.Dương Bạch Long, TS
1
Nguyễn Xuân Anh, TS
Nguyễn Văn Hiền (2007)
2
TS. Trần Thị Cẩm Nhung
(2012)
Hội bảo vệ quyền trẻ em
3
Việt Nam phối hợp với quỹ
Nhi đồng Liên hiệp quốc (
UNICEF)
Báo cáo phân tích tình hình
4
trẻ em giữa UNICEF và Việt
Nam
5
6
TS. Nguyễn Thị Hồng Hạnh
( 2007)
TS. Lê Hà (2008)
Sở lao động và Thương binh
7
xã hội tỉnh Quảng Bình
(2016)
8
9
10
11
12
Trần Thị Hà Giang
Chương trình hành động
quốc gia vì trẻ em
Quốc hội, Bộ luật dân sự
2015
Quốc hội, Bộ luật hình sự
2015
Hiến pháp nước cộng hòa xã
9
30,31,32,33
10,9
hội chủ nghĩa Việt Nam
2013
13
14
15
17
18
19
Quốc hội, Luật trẻ em 2016
Quốc hội, Luật hơn nhân và
gia đình 2014
Cơng ước Liên hiệp quốc
1989
Chính phủ, nghị định
56/2017/NĐ - CP
Chính phủ, nghị định
91/2011/NĐ - CP
Cục thống kê tỉnh Quảng
Bình (2016)
9,17
31
9
15,30
31
34,40,41,44
05
MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN .......................................................................................................
THỐNG KẾ TRÍCH DẪN .........................................................................................
DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU ............................................................................. 9
PHẦN MỞ ĐẦU ..................................................................................................... 10
1. Tính cấp thiết của đề tài ........................................................................................ 10
2. Tình hình nghiên cứu đề tài .................................................................................. 11
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu ....................................................................... 12
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ........................................................................ 13
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu ................................................... 13
6. Cơ cấu của Khóa luận ........................................................................................... 14
NỘI DUNG .............................................................................................................. 14
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ XÂM HẠI TÌNH DỤC TRẺ EM14
1.1. Một số khái niệm ............................................................................................... 14
1.1.1. Khái niệm trẻ em và các quyền của trẻ em ..................................................... 14
1.1.2. Khái niệm về xâm hại tình dục ....................................................................... 20
1.1.3. Khái niệm xâm hại tình dục trẻ em................................................................. 21
1.1.4. Các hình thức xâm hại tình dục trẻ em. .......................................................... 23
1.2. Những ảnh hưởng từ xâm hại tình dục trẻ em ................................................... 24
1.2.1. Ảnh hưởng đối với trẻ em bị xâm hại ............................................................. 26
1.2.2. Ảnh hưởng đối với gia đình trẻ em................................................................. 29
1.2.3. Ảnh hưởng về kinh tế ..................................................................................... 29
1.2.4. Ảnh hưởng về văn hóa – xã hội ...................................................................... 30
1.2.5. Ảnh hưởng về môi trường giáo dục ................................................................ 31
1.3. Khái quát tình hình xâm hại tình dục trẻ em hiện nay và một số quy định pháp luật
về xâm hại tình dục trẻ em. ...................................................................................... 32
1.3.1. Tình hình xâm hại tình dục trẻ em ở Việt Nam hiện nay. .............................. 32
1.3.2. Quy định của pháp luật về xâm hại tình dục trẻ em. ...................................... 33
Chương 2: THỰC TRẠNG XÂM HẠI TÌNH DỤC TRẺ EM TRÊN ĐỊA BÀN
TỈNH QUẢNG BÌNH ............................................................................................. 36
2.1. Khái quát về địa bàn tỉnh Quảng Bình .............................................................. 37
2.1.1. Nguồn gốc, lịch sử, điều kiện tự nhiên ........................................................... 37
2.1.2. Đặc điểm dân cư ............................................................................................. 37
2.1.3. Kinh tế ............................................................................................................ 37
2.1.4. Về văn hóa, thơng tin...................................................................................... 38
2.1.5. Về giáo dục, y tế và chăm sóc sức khỏe ......................................................... 39
2.2. Thực trạng xâm hại tình dục trẻ em trên địa bàn tỉnh Quảng Bình ................... 40
2.2.1. Tình hình xâm hại tình dục trẻ em trên địa bàn tỉnh Quảng Bình .................. 40
2.2.2. Xét theo địa bàn cư trú ................................................................................... 42
2.3. Nguyên nhân dẫn đến xâm hại tình dục trẻ em ................................................. 54
2.3.1. Nguyên nhân khách quan ............................................................................... 55
2.3.2. Nguyên nhân chủ quan ................................................................................... 65
Chương 3: CÁC GIẢI PHÁP NHẰM HẠN CHẾ TÌNH TRẠNG XÂM HẠI
TÌNH DỤC TRẺ EM TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH QUẢNG BÌNH ......................... 69
3.1.Tăng cường sự lãnh đạo, quản lý và nâng cao trách nhiệm của chính quyền, các tổ
chức đồn thể trong thực hiện các quy định của pháp luật về xâm hại tình dục trẻ em.
.................................................................................................................................. 69
3.2. Thường xuyên tuyên truyền, phổ biến các quy định trong Luật trẻ em và các văn
bản pháp luật khác có liên quan. .............................................................................. 71
3.3. Tăng cường giáo dục kiến thức, nâng cao vai trò, trách nhiệm của gia đình và
người thân, hướng dẫn trang bị kỹ năng bảo vệ bản thân cho trẻ em và cách phịng
ngừa xâm hại tình dục. ............................................................................................. 73
3.4. Xác lập cơ chế phối hợp giữa nhà trường, gia đình và xã hội, kiện tồn ban chỉ
đạo, ban điều hành và nhóm cộng tác liên ngành bảo vệ trẻ em trong phòng ngừa, xử
lý nghiêm việc xâm hại tình dục trẻ em trên địa bàn tỉnh Quảng Bình. ................... 75
3.5. Hồn thiện các quy định của hệ thống pháp luật về xâm hại tình dục trẻ em. .. 78
KẾT LUẬN ............................................................................................................. 83
PHỤ LỤC 1: BẢNG HỎI ĐIỀU TRA VỀ NGUYÊN NHÂN TÌNH TRẠNG TẠI
QUẢNG BÌNH ......................................................................................................... 87
PHỤ LỤC 2: CÂU HỎI PHỎNG VẤN SÂU DÀNH CHO TRẺ EM TRÊN ĐỊA BÀN
TỈNH ......................................................................................................................... 91
PHỤ LỤC 3: CÂU HỎI PHỎNG VẤN DÀNH CHO CÁN BỘ CƠ QUAN CHỨC
NĂNG ....................................................................................................................... 93
KẾT QUẢ XỬ LÝ BẢNG HỎI ............................................................................... 95
DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU
Bảng 2.1: Số lượng trẻ em trên các huyện của tỉnh Quảng Bình năm 2017 ............ 40
Bảng 2.2: Thực trạng xâm hại tình dục trẻ em từ năm 2015 đến năm 2017 ............ 42
Bảng 2.3: Thực trạng xâm hại tình dục trẻ em tại Minh Hóa................................... 43
Biểu đồ 2.1: Thực trạng xâm hại tình dục trẻ em tại Minh Hóa .............................. 43
Bảng 2.4: Thực trạng xâm hại tình dục trẻ em tại huyện Tun Hóa ...................... 45
Biểu đồ 2.2: Thực trạng xâm hại tình dục trẻ em tại huyện Tuyên Hóa .................. 45
Bảng 2.5: Thực trạng xâm hại tình dục trẻ em tại Bố Trạch .................................... 46
Biểu đồ 2.3: Thực trạng xâm hại tình dục trẻ em tại Bố Trạch ................................ 47
Bảng 2.6: Thực trạng xâm hại tình dục trẻ em tại Thị xã Ba Đồn ........................... 48
......................................................................................................................................
Biều đồ 2.4: Thực trạng xâm hại tình dục trẻ em tại Thị xã Ba Đồn ....................... 49
Bảng 2.7: Thực trạng xâm hại tình dục trẻ em tại Thành phố Đồng Hới ................. 50
Biểu đồ 2.5: Thực trạng xâm hại tình dục trẻ em trên địa bàn Thành phố Đồng Hới51
PHẦN MỞ ĐẦU
1.
Tính cấp thiết của đề tài
Trẻ em sẽ là những chủ nhân chính xây dựng đất nước trong tương lai. Vì vậy
bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của mỗi quốc
gia, dân tộc. Trong thời gian qua, việc chăm sóc trẻ em ở hầu hết các quốc gia trên thế
giới đã được quan tâm ở những mức độ khác nhau, song do các yếu tố chủ quan và
khách quan như thiên tai, chiến tranh, hoặc do trình độ dân trí thấp… trẻ em vẫn cịn
phải gánh chịu những nỗi đau, những thiệt thịi, trẻ em vẫn bị đói rét và vẫn bị giết hại
trong những cuộc chiến, hoặc phải tự lao động nuôi thân quá sớm, hoặc bị mua bán,
bạo lực, xâm hại…
Việt Nam là nước đầu tiên ở Châu Á và là nước thứ hai trên thế giới phê chuẩn
Công ước về Quyền trẻ em, vào ngày 20/2/1990. Từ đó đến nay, mặc dù cịn nhiều khó
khăn, Việt Nam đã đạt nhiều tiến bộ trong việc đưa tinh thần và nội dung của Công
ước vào chiến lược phát triển kinh tế - xã hội và luật pháp quốc gia. Ví dụ: như Luật
trẻ em, Luật phổ cập giáo dục, Bộ luật lao động, Bộ luật hình sự, Bộ luật dân sự, Bộ
luật tố tụng hình sự... được ban hành hay sửa đổi đều quan tâm thích đáng đến quyền
lợi của trẻ em. Trong nhiều năm qua, Việt Nam không ngừng mở rộng các quan hệ
hợp tác quốc tế với xu hướng hội nhập, đa dạng, đa phương, chia sẻ và phát triển. Sự
hợp tác này đã đưa đến các bước tiếp cận mới trong quá trình lập kế hoạch phát triển
kinh tế - xã hội ở cấp quốc gia, cấp địa phương và có ảnh hưởng lớn trong nhiều lĩnh
vực ở Việt Nam. Trong đó có phương pháp tiếp cận bảo vệ, chăm sóc trẻ em dựa trên
quyền trẻ em, phát triển hệ thống bảo vệ, chăm sóc trẻ em ở các cấp độ khác nhau.
Công tác lập pháp và giám sát về bảo vệ, chăm sóc, giáo dục trẻ em của Quốc hội
được tăng cường. Công ước Liên Hiệp Quốc về Quyền trẻ em và Luật trẻ em cũng
từng bước đi vào cuộc sống.
Trên thực tế hiện nay, tình trạng trẻ em bị xâm hại xảy ra ở mọi quốc gia trên thế
giới trong đó có Việt Nam và cả trẻ em gái và trẻ em trai đều là nạn nhân. Đặc biệt là
tình trạng xâm hại tình dục trẻ em xảy ra nhiều ln tiềm ẩn yếu tố gia tăng. Tình trạng
trẻ em bị xâm hại tình dục đang là hồi chng báo động cho sự suy thoái, đồi trụy về
đạo đức gây bức xúc trong dư luận, gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến trật tự an toàn xã
hội. Hằng ngày chúng ta vẫn phải chứng kiến những trẻ em bị xâm hại tình dục trên
mọi miền tổ quốc. Càng xót xa và đau lịng hơn khi trẻ em bị xâm hại bới chính những
người thân quen. Trẻ em phải chịu nỗi đau về thể xác lẫn tinh thần và đó cịn là nỗi
đau khơng phai mờ trong gia đình dịng họ của trẻ em, trong ký ức cộng đồng nơi trẻ
em bị gây hại mà nạn nhân cùng chung sống.
Quảng Bình là một tỉnh duyên hải thuộc vùng Bắc Trung Bộ Việt Nam cũng
khơng ngoại lệ, tình trạng xâm hại tình dục trẻ em vẫn đang diễn ra, ngày càng gia
tăng, diễn biến phức tạp gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến sự phát triển kinh tế của địa
phương, xã hội và văn hóa.
Xuất phát từ thực tế cũng như sự hiểu biết và đặc biệt là trách nhiệm của sinh
viên ngành Luật, tôi nhận thấy xâm hại tình dục trẻ em là một vấn nạn xã hội cần có sự
chung tay góp sức để giải quyết. Đồng thời thơng qua khóa luận này tôi muốn chia sẻ
những nỗi đau về thể xác, sức khỏe lẫn tinh thần mà các em phải gánh chịu. Đồng thời
tơi hy vọng việc thực hiện khóa luận này góp phần thể hiện được trách nhiệm của gia
đình, nhà trường và xã hội trong việc chăm sóc, giáo dục và bảo vệ trẻ em trên địa bàn
tỉnh Quảng Bình hiện nay. Chính vì những lý do đó tơi đã lựa chọn đề tài “Thực trạng
xâm hại tình dục trẻ em trên địa bàn tỉnh Quảng Bình” làm đề tài khóa luận tốt nghiệp.
2.
Tình hình nghiên cứu đề tài
Ở Việt Nam, vấn nạn xâm hại tình dục trẻ em đã có nhiều đề tài, bài nghiên cứu
tham luận, báo cáo của các cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội, trường đại học, học viện,
viện nghiên cứu quan tâm.
Trong thời gian qua, ở nước ta có những cơng trình nghiên cứu về tình hình xâm
hại tình dục trẻ em tiêu biểu như sau:
Về sách có “Quyền trẻ em - Quyền của chúng mình” tại Hội Bảo vệ quyền trẻ
em Việt Nam phối hợp với Quỹ Nhi đồng Liên Hợp Quốc (UNICEF) và Đại sứ quan
Na Uy tại Việt Nam. Cuốn sách được chuyển thể dựa trên nguyên bản Công ước Quốc
tế về Quyền trẻ em của Liên Hiệp Quốc.
Về báo cáo có “Báo cáo phân tích tình hình trẻ em ở Việt Nam” được xây dựng
62 năm với sự cộng tác chặt chẽ giữa UNICEF và Chính phủ Việt Nam. Nghiên cứu,
phân tích và báo cáo ban đầu được thực hiện bởi một nhóm chuyên gia bao gồm Tiến
sỹ Rebeca Rios Kohn, Tiến sỹ Vũ Xuân Nguyệt Hồng và ông Nguyễn Tam Giang.
Phân tích này đã lấy cách tiếp cận dựa trên quyền con người, xem xét tình hình trẻ em
dựa trên quan điểm các nguyên tắc chính về quyền con người như bình đẳng, khơng
phân biệt đối xử và trách nhiệm giải trình. Do đó phân tích tình hình trẻ em đóng góp
đáng chú ý cho việc hiểu về tình hình trẻ em – nam và nữ, nông thôn và thành thị, dân
tộc Kinh và dân tộc thiểu số, trẻ em giàu và trẻ em nghèo hiện nay ở Việt Nam.
Về đề tài nghiên cứu khoa học có “Một số biện pháp giúp học sinh phòng tránh
bị xâm hại” do sinh viên Trần Thị Thanh Trà – Trường Đại học Sư phạm Hà Nội thực
hiện, năm 2014.
Về luận văn có “Rèn luyện kỹ năng phòng chống xâm hại cho học sinh trung học
cơ sở tại Trung tâm KTTH – HN số 3” do Vũ Thị Thu Trang – Học viện quản lý giáo
dục thực hiện.
Những nghiên cứu trên đã có những đóng góp lớn trong việc chăm sóc, giáo dục
và bảo vệ trẻ em bị xâm hại tại Việt Nam. Tuy nhiên, những nghiên cứu chưa thực sự
đưa ra được những khuyến nghị, chưa tập trung đánh giá một cách toàn diện thực trạng
và các nguyên nhân chủ yếu của tình trạng xâm hại tình dục trẻ em. Vì vậy, việc
nghiên cứu, tìm ra các giải pháp phù hợp nhằm hạn chế tình trạng xâm hại tình dục trẻ
em là hết sức cần thiết về lý luận và thực tiễn.
Cho đến nay, tại Quảng Bình chưa có cơng trình nghiên cứu nào về thực trạng
xâm hại tình dục trẻ em tại Quảng Bình. Do vậy, tơi lựa chọn đề tài nghiên cứu: “Thực
trạng xâm hại tình dục trẻ em trên địa bàn tỉnh Quảng Bình” với hy vọng đóng góp
một phần nhỏ bé vào các nghiên cứu về vấn đề xâm hại trẻ em.
3.
Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Nhiệm vụ nghiên cứu
Nghiên cứu lý luận về xâm hại tình dục trẻ em.
Tìm hiểu thực trạng và những hậu quả của tình trạng xâm hại tình dục trẻ em.
Phân tích ngun nhân dẫn tới tình trạng xâm hại tình dục trẻ em.
Đề xuất ra các giải pháp nhằm góp phần hạn chế tình trạng xâm hại tình dục trẻ
em, đồng thời bổ sung kiến thức trong việc chăm sóc, giáo dục và bảo vệ trẻ em.
3.2.
Mục đích nghiên cứu
Đưa ra những cơ sở lý luận phù hợp, đánh giá được mức độ nghiêm trọng của
xâm hại tình dục trẻ em. Khóa luận là nguồn tư liệu cần thiết cho việc nghiên cứu và
giảng dạy, tuyên truyền về phòng chống xâm hại tình dục trẻ em.
Việc thực hiện nghiên cứu này sẽ giúp hiểu rõ hơn về thực trạng và nguyên nhân
vấn nạn xâm hại tình dục trẻ em đang diễn ra trên địa bàn tại tỉnh Quảng Bình. Từ đó,
để cộng đồng nhận thức đầy đủ hơn về những ảnh hưởng nghiêm trọng của tình trạng
xâm hại tình dục trẻ em đối với sự phát triển kinh tế - xã hội. Ngồi ra, có thể cung cấp
cho chính quyền địa phương những tư liệu cần thiết để có những đánh giá chính xác
hơn về cơng tác phịng chống xâm hại tình dục trẻ em.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng: Thực trạng xâm hại tình dục trẻ em tại tỉnh
4.1.
Quảng Bình.
4.2.
Phạm vi nghiên cứu
Về nội dung: Nghiên cứu thực trạng xâm hại tình dục trẻ em và đề xuất ra các
giải pháp.
Về không gian: Đề tài được thực hiện trên địa bàn tỉnh Quảng Bình.
Về thời gian nghiên cứu: Từ năm 2015 đến năm 2017
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác –
Lênin.
Phương pháp duy vật lịch sử
Nghiên cứu vấn nạn xâm hại tình dục trẻ em đặt trong bối cảnh lịch sử, thông qua
các giai đoạn phát triển khác nhau của lịch sử Việt Nam nói chung cũng như ở tỉnh
Quảng Bình nói riêng.
Phương pháp duy vật biện chứng
Nghiên cứu vấn nạn xâm hại tình dục trẻ em nhưng không tách biệt ra từng
ngành, từng lĩnh vực cụ thể mà đặt chung trong tổng thể sự phát triển chung của nền
kinh tế - chính trị - xã hội của đất nước tác động đến đến vấn nạn xâm hại tình dục trẻ
em và ngược lại, xâm hại tình dục ảnh hưởng như thế nào đến sự ổn định và phát triển
của kinh tế - chính trị - xã hội của đất nước.
5.2.
Phương pháp nghiên cứu, phân tích tài liệu
Để nghiên cứu đề tài chúng tơi đã chọn và phân tích một số tài liệu có liên quan
đến vấn nạn xâm hại tình dục để làm sáng tỏ cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn của đề
tài.
5.3.
Phương pháp so sánh, tổng hợp số liệu
Tôi đã so sánh và tổng hợp những số liệu đã thu thập, điều tra được để làm cơ sở
thực tiễn về tình trạng xâm hại tình dục trên địa bàn tỉnh.
5.4.
Phương pháp điều tra bằng bảng hỏi
Đề tài sử dụng bảng hỏi cho các đối tượng nghiên cứu nhằm thu thập thông tin
liên quan đến đề tài. Bảng hỏi được dùng chung cho những đối tượng nghiên cứu nằm
trong danh sách điều tra. Phương pháp này được thực hiện lồng ghép trong các buổi
khảo sát, điều tra.
5.5.
Phương pháp quan sát
Mục đích sử dụng phương pháp quan sát trong nghiên cứu đề tài này là nhằm tìm
hiểu thực tế tình trạng xâm hại tình dục trẻ em trực tiếp bị xâm hại và những người
thân trong gia đình nạn nhân trên địa bàn tỉnh Quảng Bình.
6. Cơ cấu của Khóa luận
Ngồi phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung khóa luận
gồm có 3 chương:
Chương 1. Những vấn đề lý luận về xâm hại tình dục trẻ em
Chương 2. Thực trạng xâm hại tình dục trẻ em trên địa bàn tỉnh Quảng Bình
Chương 3. Các giải pháp nhằm hạn chế tình trạng xâm hại tình dục trẻ em trên
địa bàn tỉnh Quảng Bình
NỘI DUNG
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ XÂM HẠI TÌNH DỤC TRẺ EM
1.1.
Một số khái niệm
1.1.1.Khái niệm trẻ em và các quyền của trẻ em
Tương lai của mỗi dân tộc và của toàn nhân loại phụ thuộc vào sự chăm sóc, giáo
dục, bảo vệ thế hệ trẻ, phụ thuộc vào sức khỏe, trí tuệ, năng lực của thế hệ trẻ. Đặc
biệt, trẻ em là người sẽ quyết định tương lai, vị thế của mỗi dân tộc trên trường quốc
tế.
Theo quy định tại Điều 1 của Liên hiệp quốc về Quyền trẻ em 1989 có quy định:
“Trẻ em có nghĩa là bất kỳ người nào dưới 18 tuổi, trừ trường hợp pháp luật có thể
được áp dụng với trẻ em đó quy định tuổi thanh niên sớm hơn”[18]. Như vậy, đây là
quy định chung của Liên hiệp quốc về độ tuổi của trẻ em được áp dụng cho tất cả các
quốc gia, tức là quy định độ tuổi trẻ em của các quốc gia không được vượt quá quy
định chung của Liên hợp quốc. Tuy nhiên, với đặc trưng của mỗi quốc gia khác nhau
về đặc điểm kinh tế, xã hội, văn hóa,… mỗi quốc gia có hệ thống pháp luật riêng, có
những quy định riêng, vậy nên việc quy định độ tuổi trẻ em cũng có sự chênh lệch
khác nhau.
Tại Việt Nam, Hiến pháp năm 2013 quy định: “Trẻ em được gia đình, nhà nước
và xã hội bảo vệ, chăm sóc và giáo dục”[15]. Bộ luật dân sự năm 2015, tại điều 20 quy
định: “Người từ đủ 18 tuổi trở lên là người thành niên”, điều 21: “Người chưa đủ 18
tuổi là người chưa thành niên”[13].
Theo Điều 1 Luật trẻ em 2016 quy định “ Trẻ em là người dưới 16 tuổi”[16].
Như vậy, về cơ bản quy định của pháp luật Việt Nam về độ tuổi trẻ em đều tương
thích với quy định của Liên hợp quốc về quyền trẻ em, phù hợp và không gây mâu
thuẫn với pháp luật quốc tế.
Nhìn chung, theo tinh thần pháp luật Việt Nam “Trẻ em là người dưới 16 tuổi”.
Đây là độ tuổi đang trong quá trình phát triển về mặt tâm sinh lý và nhận thức cịn
chưa hồn thiện. Trẻ em ln vận động và phát triển theo một quy luật riêng của mình.
Bên cạnh đó, tâm lý học lứa tuổi lại xác định những giai đoạn khác nhau trong lứa tuổi
trẻ em như: tuổi sơ sinh, tuổi hài nhi, tuổi mẫu giáo nhỏ, tuổi mẫu giáo lớn, tuổi nhi
đồng, tuổi thiếu niên. Vì vậy, trẻ em cần được quan tâm và chăm sóc đặc biệt về mọi
mặt cả về vật chất lẫn tinh thần từ phía gia đình, nhà trường và xã hội.
Đề hiểu rõ được khái niệm Quyền trẻ em, trước hết cần hiểu như thế nào là
Quyền? Theo Đại Từ điển Tiếng Việt, quyền là “cái mà luật pháp, xã hội, phong tục
hay lẽ phải cho phép được hưởng thụ, được vận dụng, được thực hành,….và nếu thiếu
thì được phép yêu cầu để có đầy đủ, nếu bị tước đoạt có thể địi hỏi để giành lại”. Như
vậy, khái niệm Quyền chủ yếu liên quan đến việc hành động, cụ thể là tự do hành
động. Theo đó, một người được phép làm những việc trong khuôn khổ nhất định mà
không bị cưỡng ép, áp đặt, và không ai được vi phạm vào các quyền đó.
Quyền trẻ em về cơ bản là một thuật ngữ pháp lý, được xem như một biện pháp
của pháp luật để bảo vệ trẻ em, quyền trẻ em là những đặc quyền tự nhiên, cơ bản và
chính đáng mà trẻ em được hưởng, được làm được tơn trọng và thực hiện nhằm bảo
đảm sự sống cịn, tham gia và phát triển toàn diện, quyền trẻ em chính là biện pháp
nhằm đảm bảo cho trẻ em khơng những là những người tiếp thu thụ động tình thương
hay lòng tốt của bất cứ ai, mà trở thành chủ thể của quyền trẻ em.
Việt Nam là nước đầu tiên ở Châu Á và nước thứ hai trên thế giới phê chuẩn
Công ước của Liên Hiệp quốc về Quyền trẻ em vào ngày 20/02/1990. Nội dung quyền
trẻ em trong công ước của Liên hiệp quốc đươc phân thành 4 nhóm: nhóm quyền được
sống hay được tồn tại, nhóm quyền được bảo vệ, nhóm quyền được phát triển và nhóm
quyền được tham gia.
Ở Việt Nam, quyền trẻ em được quy định rất nhiều trong các văn bản pháp luật
quốc tế và các ngành luật trong hệ thống pháp luật Việt Nam. Trong Hiến pháp năm
1946 (trực tiếp là các Điều 14, 15 và được hàm chứa trong một số điều khác), và trong
tất cả các Hiến pháp năm 1959, năm 1980, năm 1992 (gồm cả lần sửa đổi, bổ sung vào
năm 2001), năm 2013. Trong Hiến pháp năm 1992, quyền trẻ em được chế định trực
tiếp trong Điều 40 và được hàm chứa trong một số điều khác (Điều 50,...). Quyền trẻ
em cũng được thể chế hóa trong nhiều bộ luật và luật, mà tập trung là Luật trẻ em
2016, Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 và trong Hiến pháp năm 2013, quyền trẻ
em được quy định trực tiếp tại khoản 1, Điều 37[15]. Cụ thể:
Thứ nhất, quyền được khai sinh và có quốc tịch
Mọi trẻ em khi sinh ra đều có quyền được khai sinh. Giấy khai sinh là giấy tờ hộ
tịch gốc của mỗi cá nhân. Giấy khai sinh có giá trị tồn cầu. Mọi hồ sơ, giấy tờ của cá
nhân sau này mà có nội dung ghi về họ, tên, chữ đệm; ngày, tháng, năm sinh; giới tính;
dân tộc; quốc tịch; quê quán; quan hệ cha, mẹ, con phải phù hợp với Giấy khai sinh.
Thứ hai, quyền được chăm sóc, ni dưỡng
Trẻ em có quyền được chăm sóc, ni dưỡng, để phát triển thể chất, trí tuệ, tinh
thần và đạo đức. Cha mẹ có nghĩa vụ và quyền thương u, trơng nom, ni dưỡng,
chăm sóc, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của con; tơn trọng ý kiến của con; chăm lo
việc học tập và giáo dục để con phát triển lành mạnh về thể chất, trí tuệ và đạo đức, trở
thành người con hiếu thảo của gia đình, cơng dân có ích cho xã hội, theo đó:
Cha mẹ có nghĩa vụ và quyền cùng nhau chăm sóc, nuôi dưỡng con chưa thành
niên hoặc con đã thành niên bị tàn tật, mất năng lực hành vi dân sự, khơng có khả năng
lao động và khơng có tài sản để tự ni mình.
Cha mẹ tạo điều kiện cho con được sống trong mơi trường gia đình đầm ấm, hịa
thuận; làm gương tốt cho con về mọi mặt; phối hợp chặt chẽ với nhà trường và các tổ
chức xã hội trong việc giáo dục con.
Cha mẹ hướng dẫn con chọn nghề; tôn trọng quyền chọn nghề, quyền tham gia
hoạt động xã hội của con.
Khi con gặp khó khăn khơng thể tự giải quyết được, cha mẹ có thể đề nghị cơ
quan, tổ chức hữu quan giúp đỡ để thực hiện việc giáo dục con.
Cha mẹ là người đại diện theo pháp luật của con chưa thành niên, con đã thành
niên mất năng lực hành vi dân sự.
Cha mẹ phải bồi thường thiệt hại do con chưa thành niên, con đã thành niên mất
năng lực hành vi dân sự gây ra.
Cha mẹ Không được phân biệt đối xử với con trên cơ sở giới hoặc theo tình trạng
hơn nhân của cha mẹ; khơng được lạm dụng sức lao động của con chưa thành niên,
con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự hoặc khơng có khả năng lao động;
khơng được xúi giục, ép buộc con làm việc trái pháp luật, trái đạo đức xã hội, tùy theo
tính chất, mức độ vi phạm mà có thể bị xử phạt vi phạm hành chính hoặc truy cứu
trách nhiệm hình sự, nếu gây thiệt hại thì phải bồi thường.
Thứ ba, quyền được sống chung với cha mẹ
Trẻ em có quyền sống chung với cha mẹ. Khơng ai có quyền buộc trẻ em phải
cách ly cha mẹ, trừ trường hợp vì lợi ích của trẻ em. Các trường hợp trẻ em buộc phải
cách ly cha mẹ được pháp luật quy định, gồm:
Cha và mẹ đang bị tạm giữ, tạm giam hoặc đang phải chấp hành hình phạt tù.
Cha mẹ bị Tòa án quyết định hạn chế quyền của cha mẹ đối với con chưa thành
niên hoặc quyết định khơng cho cha mẹ chăm sóc, ni dưỡng, giáo dục con.
Trẻ em bị quyết định đưa vào trường giáo dưỡng, cơ sở giáo dục…
Khi phải sống cách ly cha mẹ, quyền được chăm sóc, ni dưỡng của trẻ em
được bảo đảm như sau:
Trong trường hợp, cha và mẹ đang bị tạm giữ, tạm giam hoặc đang phải chấp
hành hình phạt tù, thì trẻ em phải sống cách ly cha, mẹ và được các cơ quan nhà nước
có thẩm quyền và các tổ chức chính trị - xã hội chăm sóc, ni dưỡng thay thế, trừ trẻ
em dưới ba mươi sáu tháng tuổi.
Trong trường hợp bị Tòa án quyết định hạn chế quyền của cha mẹ đối với con
chưa thành niên, thì trong thời gian thi hành quyết định của Tòa án, trẻ em được giúp
đỡ, bảo vệ lợi ích; Trong trường hợp xét thấy cả cha và mẹ đều khơng đủ điều kiện
trực tiếp ni con, thì Tịa án quyết định giao con cho người giám hộ theo quy định
của Bộ luật Dân sự.
Trong các trường hợp này, Ủy ban nhân dân các cấp có trách nhiệm tổ chức việc
chăm sóc, ni dưỡng thay thế cho trẻ em phải sống cách ly cha mẹ theo các hình thức
giao cho người thân thích của trẻ em, giao cho gia đình thay thế hoặc cơ sở trợ giúp trẻ
em tại địa phương để chăm sóc, ni dưỡng thay thế.
Cơ quan có chức năng bảo vệ và chăm sóc trẻ em các cấp có trách nhiệm xác
minh điều kiện, hoàn cảnh sống, khả năng kinh tế của người thân thích, gia đình thay
thế, cơ sở trợ giúp trẻ em để đề xuất người chăm sóc, ni dưỡng thay thế đối với trẻ
em phải sống cách ly cha mẹ; liên hệ và thực hiện quyết định của Ủy ban nhân dân
cùng cấp trong việc chăm sóc, ni dưỡng thay thế; thường xuyên kiểm tra điều kiện
sống của trẻ em phải sống cách ly cha mẹ sau khi giao cho người chăm sóc, ni
dưỡng thay thế.
Trong thời gian trẻ em ở trường giáo dưỡng hoặc cơ sở cai nghiện, cha mẹ, người
giám hộ của trẻ em này có trách nhiệm thường xuyên thăm hỏi, động viên, giúp đỡ;
trường giáo dưỡng, cơ sở cai nghiện phải tạo điều kiện để trẻ em giữ mối liên hệ với
gia đình, gia đình thay thế; Ủy ban nhân dân, các cơ quan, đoàn thể nhân dân, tổ chức
xã hội cấp xã, nơi có trẻ em vào trường giáo dưỡng hoặc cơ sở cai nghiện, có biện
pháp cụ thể để giúp đỡ trẻ em tiến bộ và tái hịa nhập gia đình, cộng đồng khi trở về.
Thứ tư, quyền được tơn trọng, bảo vệ tính mạng, thân thể nhân phẩm và danh
dự.,
Trẻ em được gia đình, Nhà nước và xã hội tơn trọng, bảo vệ tính mạng, thân thể,
nhân phẩm và danh dự; thực hiện các biện pháp phòng ngừa tai nạn cho trẻ em. Mọi
hành vi xâm phạm tính mạng, thân thể, nhân phẩm, danh dự của trẻ em đều bị xử lý
kịp thời, nghiêm minh theo quy định của pháp luật.
Thứ năm, quyền được chăm sóc sức khỏe
Trẻ em có quyền được chăm sóc, bảo vệ sức khoẻ. Trẻ em dưới sáu tuổi được
chăm sóc sức khoẻ ban đầu, được khám bệnh, chữa bệnh không phải trả tiền tại các cơ
sở y tế công lập.
Thứ sáu, quyền được học tập
Trẻ em có quyền được học tập, đối với bậc tiểu học trẻ em không phải đóng học
phí, theo đó:
Giáo dục tiểu học và giáo dục trung học cơ sở là các cấp học phổ cập. Gia đình,
Nhà nước có trách nhiệm bảo đảm cho trẻ em thực hiện quyền học tập; học hết chương
trình giáo dục phổ cập; tạo điều kiện cho trẻ em theo học ở trình độ cao hơn.
Nhà trường và các cơ sở giáo dục khác có trách nhiệm thực hiện giáo dục toàn
diện về đạo đức, tri thức, thẩm mỹ, thể chất, giáo dục lao động hướng nghiệp cho trẻ
em; chủ động phối hợp chặt chẽ với gia đình và xã hội trong việc bảo vệ, chăm sóc và
giáo dục trẻ em.
Cơ sở giáo dục mầm non và cơ sở giáo dục phổ thơng phải có điều kiện cần thiết
về đội ngũ giáo viên, cơ sở vật chất, thiết bị dạy học để bảo đảm chất lượng giáo dục.
Nhà nước có chính sách phát triển giáo dục mầm non, giáo dục phổ thơng; chính
sách miễn, giảm học phí, cấp học bổng, trợ cấp xã hội để thực hiện công bằng xã hội
trong giáo dục.
Thứ bảy, quyền được vui chơi giải trí hoạt động văn hoá, nghệ thuật, thể dục, thể
thao, du lịch
Trẻ em có quyền vui chơi, giải trí lành mạnh, được hoạt động văn hoá, nghệ
thuật, thể dục, thể thao, du lịch phù hợp với lứa tuổi, theo đó:
Gia đình, nhà trường và xã hội có trách nhiệm tạo điều kiện để trẻ em được vui
chơi, giải trí, hoạt động văn hoá, nghệ thuật, thể dục, thể thao, du lịch phù hợp với lứa
tuổi.
Uỷ ban nhân dân các cấp có trách nhiệm quy hoạch, đầu tư xây dựng điểm vui
chơi, giải trí, hoạt động văn hóa, nghệ thuật, thể dục, thể thao cho trẻ em thuộc phạm
vi địa phương. Không được sử dụng cơ sở vật chất dành cho việc học tập, sinh hoạt,
vui chơi, giải trí của trẻ em vào mục đích khác làm ảnh hưởng đến lợi ích của trẻ em.
Nhà nước có chính sách khuyến khích tổ chức, cá nhân đầu tư, xây dựng cơ sở
vật chất phục vụ trẻ em vui chơi, giải trí.
Xuất bản phẩm, đồ chơi, chương trình phát thanh, truyền hình, nghệ thuật, điện
ảnh nếu có nội dung khơng phù hợp với trẻ em thì phải thơng báo hoặc ghi rõ trẻ em ở
lứa tuổi nào không được sử dụng.
Thứ tám, quyền được phát triển năng khiếu
Trẻ em có quyền được phát triển năng khiếu. Mọi năng khiếu của trẻ em đều
được khuyến khích và tạo điều kiện thuận lợi để phát triển, theo đó:
Gia đình, nhà trường và xã hội có trách nhiệm phát hiện, khuyến khích, bồi
dưỡng, phát triển năng khiếu của trẻ em.
Nhà nước khuyến khích tổ chức, cá nhân tham gia bồi dưỡng, phát triển năng
khiếu của trẻ em; tạo điều kiện cho nhà văn hoá thiếu nhi, nhà trường và tổ chức, cá
nhân thực hiện việc bồi dưỡng, phát triển năng khiếu của trẻ em.
Thứ chín, quyền có tài sản
Trẻ em có quyền có tài sản, quyền thừa kế theo quy định của pháp luật. Tài sản
riêng của trẻ em bao gồm tài sản được thừa kế riêng, được tặng cho riêng, thu nhập do
lao động của trẻ em, hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng của trẻ em và thu nhập
hợp pháp khác. Tài sản được hình thành từ tài sản riêng của trẻ em cũng là tài sản
riêng của trẻ em. Cha mẹ có trách nhiệm và nghĩa vụ bảo quản lý, bảo vệ, định đoạt tài
sản riêng của trẻ em và đảm bảo quyền dân sự của trẻ em về tài sản, theo đó:
Cha mẹ, người giám hộ có trách nhiệm bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của trẻ
em; đại diện cho trẻ em trong các giao dịch dân sự theo quy định của pháp luật.
Cha mẹ, người giám hộ hoặc cơ quan, tổ chức hữu quan phải giữ gìn, quản lý tài
sản của trẻ em và giao lại cho trẻ em theo quy định của pháp luật.
Trường hợp trẻ em gây ra thiệt hại cho người khác thì cha mẹ, người giám hộ
phải bồi thường thiệt hại do hành vi của trẻ em đó gây ra theo quy định.
Luật Trẻ em chính thức có hiệu lực từ ngày 1/6/2017. Ngày 16/5, Chính phủ
cũng đã ban hành Nghị định số 56/2017/NĐ-CP quy định chi tiết một số điều của Luật
Trẻ em[19]. Việc bổ sung, sửa đổi pháp luật về quyền trẻ em đã hoàn thiện thêm một
bước. Quan điểm tiếp cận dựa trên quyền của trẻ em, bảo đảm tính đồng bộ, thống
nhất của hệ thống pháp luật trong nước với các công ước, điều ước quốc tế và phù hợp
với điều kiện kinh tế - xã hội của nước ta.
Như vậy, quyền con người nói chung và quyền trẻ em nói riêng đóng vai trị rất
quan trọng trong từng thời kỳ phát triển của xã hội. Việc quy định quyền của trẻ em
trong các văn bản pháp luật thể hiện được quyền hạn cũng như nghĩa vụ, trách nhiệm
của quốc gia đối với trẻ em.
1.1.2.Khái niệm về xâm hại tình dục
Dù luật pháp mỗi nơi định nghĩa mỗi khác, nhưng cụm từ “xâm hại tình dục” có
thể được hiểu là hành vi tình dục khơng tự nguyện, trong một số trường hợp còn dùng
đến vũ lực. Xâm hại tình dục có thể bao gồm việc lạm dụng tình dục trẻ vị thành niên,
loạn luân, cưỡng hiếp và bóc lột tình dục bởi những người được xem là đáng tin cậy,
chẳng hạn như bác sĩ, giáo viên,…
Cụ thể, xâm hại tình dục bao gồm các hành động như: vuốt ve, kích thích cơ
quan sinh dục, thủ dâm cho nhau, quan hệ tình dục bằng miệng, dùng ngón tay, dương
vật hay vật dụng để đưa vào âm đạo, ngơn ngữ tình dục khơng phù hợp, quấy rối tình
dục, nhìn trộm, phơ bày bộ phận sinh dục cũng như để trẻ tiếp xúc hoặc tham gia vào
hành động khiêu dâm hoặc mại dâm.
Thủ đoạn có thể lơi kéo trẻ em vào hành động tình dục thơng qua đe dọa, hối lộ,
dùng vũ lực, xuyên tạc hay các hình thức ép buộc khác. Xâm hại tình dục thường gồm
những tương tác tình dục bị áp đặt từ từ.
1.1.3.Khái niệm xâm hại tình dục trẻ em
Luật bảo vệ và hỗ trợ trẻ em bị bạo hành của Mỹ (CAPTA) định nghĩa xâm hại
tình dục trẻ em bao gồm những hành vi sau: “sử dụng, thuyết phục, lôi kéo, hoặc sử
dụng áp lực để bắt trẻ em tham gia vào hoặc hỗ trợ người khác tham gia vào thực hiện
hành vi tình dục hoặc hành vi gợi tình vì mục đích có hành vi tình dục hoặc hiếp dâm,
và trong trường hợp những người chăm sóc hoặc những người thân trong gia đình gạ
gẫm, mại dâm, hoặc những hình thức bóc lột tình dục trẻ em hoặc loạn luân với trẻ
em”(Child Welfare Information Galeway, 2009)[2].
Ngoài ra, theo định nghĩa của Viện Sức khỏe quốc gia Hoa Kỳ, xâm hại tình dục
trẻ em khơng những bao gồm các hành vi động chạm trực tiếp đến thân thể mà phô
dâm, ngôn dâm với trẻ em, xem phim đồi trụy trẻ em cũng được xem là xâm hại tình
dục trẻ em.
Theo định nghĩa của Finkehor (2009) định nghĩa: “xâm hại tình dục trẻ em bao
gồm tồn bộ hành vi phạm tội về tình dục mà trẻ em dưới 18 tuổi là nạn nhân”. Với
định nghĩa này người phạm tội hoặc có hành vi xâm hại tình dục trẻ em có thể là người
lớn, quen biết hoặc khơng quen biết với trẻ em, thanh niên hoặc trẻ em khác. Bên cạnh
những hành vi phạm tội xâm hại tình dục trẻ em có giao cấu, định nghĩa này bao hàm
cả những hành vi phạm tội mà người gây tội và nạn nhân thậm chí khơng có tiếp xúc
với nhau về mặt thể xác như bắt trẻ em nhìn các hành vi tình dục, sử dụng trẻ em để
sản xuất các ân phẩm khiêu dâm, tán tỉnh, gạ gậm,…
Một nghiên cứu khác cho rằng xâm hại tình dục trẻ em xảy ra khi người lớn hoặc
một người nhiều tuổi hoặc một người có quyền lực hơn giao tiếp trực tiếp với trẻ em
về tình dục để cảm thấy thỏa mãn về tình dục (Danya, Glaser and Stephen Frosh,
1993,S.N, Madu, 2001).
Nhìn chung, các cách định nghĩa khác nhau về xâm hại tình dục trẻ em thường
tập trung vào ba nội dung chính: tình dục được quan niệm thế nào, những hành vi như
thế nào được coi là xâm hại tình dục, độ tuổi và mức độ phát triển của trẻ em và người
xâm hại, tính chất của xâm hại tình dục đối với trẻ em và mối quan hệ của nó với các
hình thức xâm hại hoặc bạo lực khác.
Bên cạnh đó, theo UNICEF cũng định nghĩa: “Xâm hại tình dục trẻ em là mọi
hành vi lơi kéo vào các hoạt động liên quan đến tình dục, mà trẻ không đủ khả năng
(hoặc không hiểu), hoặc không đủ tâm thế để đưa ra quyết định đối với các hành vi
này, hoặc các hành vi đó vi phạm đến pháp luật hay các giá trị văn hóa sở tại”[4].
Theo khía cạnh pháp lý, xâm hại tình dục trẻ em hay ấu dâm là một thuật ngữ
rộng bao gồm những hành vi vi phạm về mặt dân sự và hình sự trong đó người lớn
thực hiện hành vi tình dục với trẻ em hoặc khai thác trẻ em vì mục đích tình dục.
Ở Việt Nam, khái niệm xâm hại trẻ em và xâm hại tình dục trẻ em được quy định
chi tiết tại Luật trẻ em 2016, cụ thể:
Tại khoản 5, Điều 4, Luật trẻ em 2016 quy định: “Xâm hại trẻ em là hành vi gây
tổn hại về thể chất, tình cảm, tâm lý, danh dự, nhân phẩm của trẻ em dưới các hình
thức bạo lực, bóc lột, xâm hại tình dục, mua bán, bỏ rơi, bỏ mặc trẻ em và các hình
thức gây tổn hại khác”[16].
Ngồi ra, tại khoản 8, Điều 4, Luật trẻ em 2016 cũng định nghĩa: “Xâm hại tình
dục trẻ em là việc dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực, ép buộc, lôi kéo, dụ dỗ trẻ em
tham gia vào các hành vi liên quan đến tình dục, bao gồm hiếp dâm, cưỡng dâm, giao
cấu, dâm ô với trẻ em và sử dụng trẻ em vào mục đích mại dâm, khiêu dâm dưới mọi
hình thức”[16].
Như vậy khái niệm về xâm hại tình dục trẻ em hay cịn gọi là ấu dâm có thể khác
nhau giữa các nghiên cứu, các quốc gia, các nền văn hóa, nhưng nhìn chung nó đều đề
cập đến những hành vi nhất định mà tất cả các nền văn hóa và các khái niệm khác
nhau đều chấp nhận và đồng tình. Sự bí mật, sử dụng quyền lực khơng đúng chỗ và
việc làm méo mó mối quan hệ giữa trẻ em và người lớn là những yếu tố quan trọng khi
xem xét về vấn đề xâm hại tình dục trẻ em.
Khơng chỉ vậy, trong thời gian qua thông tin liên quan đến xâm hại tình dục trẻ
em đã thu hút nhiều sự quan tâm và lo ngại cho xã hội, gây nhức nhối trong dư luận,
không chỉ ảnh hưởng nghiêm trọng tới sự phát triển về thể chất, tâm sinh lý của trẻ mà
cịn ảnh hưởng nghiêm trọng đến tình hình an ninh trật tự. Xâm hại tình dục trẻ em gây
ảnh hưởng nghiêm trọng tới sự phát triển lành mạnh của trẻ em. Nạn nhân của xâm hại
tình dục có nguy cơ mắc các bệnh lây truyền qua đường tình dục, một số trẻ em gái
mang thai ngoài ý muốn, có thể bị mất khả năng sinh sản. Khi bị xâm hại tình dục, trẻ
em thường rơi vào trạng thái hoảng loạn, sợ hãi, xấu hổ, sống mặc cảm, không muốn
giao tiếp với mọi người, ít nói, nhút nhát, học kém, một số em thường trốn học, bỏ nhà
ra đi do mặc cảm. Đây cũng chính là những nguy cơ đẩy trẻ em tham gia vào tệ nạn xã
hội và hoạt động tội phạm khiến số vụ phạm tội tiếp tục gia tăng. Nghiêm trọng hơn, ở
góc độ xã hội thì tình trạng xâm hại tình dục trẻ em lại là mầm mống phát triển của
nhiều loại tội phạm khác như cướp tài sản, giết người, cố ý gây thương tích,…
Như vậy, vấn nạn ấu dâm hiện nay đang ngày càng trở nên nhức nhối hơn bao
giờ hết bởi rất nhiều vụ việc nghiêm trọng được phanh phui. Những câu chuyện đau
lịng đó chính là hồi chng báo động cho những bậc phụ huynh cần dành thời gian,
quan tâm nhiều hơn nữa đến con em mình.
1.1.4. Các hình thức xâm hại tình dục trẻ em.
Qua nghiên cứu cho thấy, mọi trẻ trong cộng đồng đều có nguy cơ bị xâm hại
tình dục kể cả những trẻ sống trong gia đình nghèo hay gia đình khá giả. Khơng những
trẻ em gái mà trẻ em là nam giới cũng có thể trở thành nạn nhân bị xâm hại tình dục.
Đáng nói, sau khi bị xâm hại nạn nhân thường khơng hoặc khơng dám kể về những gì
đã diễn ra với các em. Hầu hết những người xâm hại tình dục là nam giới và hầu hết
các trẻ bị xâm hại bởi người quen biết, như họ hàng, bạn của gia đình, hoặc hàng
xóm… Đơi khi việc xâm hại này diễn ra trong một thời gian dài, thậm chí kéo dài
nhiều năm. Thủ đoạn phổ biến của các đối tượng là lợi dụng sự tin tưởng hay sức ảnh
hưởng của mình hoặc dùng “lòng tốt” (cho quà, bao ăn uống…) nhằm dụ dỗ, đe doạ để
thực hiện hành vi xâm hại tình dục đối với trẻ.
Trẻ có thể bị xâm hại tình dục dưới nhiều hình thức khác nhau trong đó phổ biến
là xâm hại bằng cách đụng chạm và không đụng chạm:
Thứ nhất, xâm hại tình dục trẻ em bằng cách đụng chạm bộc lộ qua một số hành
vi như hơn hít hoặc ơm trẻ theo kiểu tình dục, sờ mó vào bộ phận sinh dục của trẻ,
hoặc bắt trẻ sờ mó vào bộ phận sinh dục của người lớn hoặc của một đứa trẻ lớn hơn,
ép trẻ thực hiện hành vi mại dâm…
Thứ hai, xâm hại tình dục trẻ em bằng cách không đụng chạm là những hành vi
như dùng lời nói hoặc tranh ảnh khiêu dâm để làm cho trẻ sốc, làm cho trẻ hưng phấn
tình dục hoặc làm cho trẻ quen với tình dục, cho trẻ nghe hoặc nhìn những cảnh tình
dục, bắt trẻ đứng ngồi theo tư thế gợi dục để chụp ảnh (khiêu dâm), hoặc cho trẻ xem
sách báo khiêu dâm…
Đáng chú ý, thời gian gần đây bên cạnh những hành vi xâm hại sử dụng bạo lực
những dạng xâm hại tình dục trẻ em khơng đụng chạm như đưa hình ảnh trẻ em trên
các mạng khiêu dâm, chat sex với trẻ, ép trẻ phô bày các bộ phận cơ thể qua
webcam,…đang ngày càng gia tăng. Hiện nay, nhiều hình thức xâm hại tình dục trẻ
em mới xuất hiện có sử dụng công nghệ như một công cụ. Đây là một hình thức mà kẻ
xâm hại sử dụng internet như một cơng cụ tìm kiếm vào trao đổi thơng tin với nạn
nhân. Chat sex, là một hình thức xâm hại tình dục không đụng chạm, không giao cấu
rất phổ biến hiện nay. Chúng ta có thể dễ dàng tìm thấy các trang web khiêu dâm
chuyên biệt của trẻ em Việt Nam do những kẻ xâm hại thiết lập.
Ngoài ra, các đối tượng làm quen với trẻ qua mạng intenet, sau đó dụ dỗ, cho tiền
rồi khống chế, đe doạ để xâm hại trẻ. Trên thưc tế cho thấy, hầu hết các trường hợp
xâm hại trẻ em là do hung thủ lợi dụng trẻ ở một mình, nơi vắng vẻ, hoặc ở trường học
để tấn cơng, xâm hại.
Nhiều trường hợp khác thì các đối tượng lợi dụng các bé gái mới lớn, bỏ học ở
vùng sâu, vùng xa, đồng bào dân tộc ít người, kinh tế khó khăn, nhận thức bị hạn chế
để dụ dỗ, lừa gạt đưa ra nước ngoài rồi cưỡng bức vào các nhà hàng mại dâm. Thậm
chí, nhiều trường hợp đối tượng lợi dụng mê tín dị đoan để xâm hại trẻ, hoặc cho trẻ
uống rượu, bia, chất kích thích dẫn tới mất hoặc giảm khả năng tự vệ để xâm hại trẻ
em.
Theo nhận định của các chuyên gia, những người xâm hại tình dục trẻ em khơng
phải chỉ có “yêu râu xanh”, những thành phần hư hỏng mà ngay kể cả những người có
chức có quyền và 93% là người thân, quen với em bé. Bất kể ai đó cũng có thể trở
thành người xâm hại tình dục.
Như vậy, cho dù sử dụng bạo lực, sự đe doạ hay “lòng tốt” để bắt trẻ thực hiện
hành vi xâm hại tình dục thì hậu quả của việc xâm hại này đều gây tổn thương cho trẻ
ở các mức độ khác nhau. Sự xâm hại tình dục làm tổn thương trẻ vào thời điểm khi
hành vi xâm hại diễn ra và có thể tiếp tục gây tổn thương nạn nhân trong suốt quãng
đời còn lại của trẻ, đặc biệt đối với những trẻ không thể kể về sự xâm hại này hoặc
không nhận được sự giúp đỡ, hỗ trợ hay trị liệu từ phía gia đình và xã hội.
Vấn nạn xâm hại tình dục trẻ em tại Quảng Bình đã và đang gióng lên hồi
chng cảnh tỉnh đối với những nạn nhân là trẻ em, đối với gia đình, đối với sự phát
triển của xã hội và chất lượng cuộc sống.
1.2. Những ảnh hưởng từ xâm hại tình dục trẻ em
Xâm hại tình dục trẻ em hay cịn gọi là ấu dâm là hình thức lạm dụng trẻ em
trong đó người lớn lạm dụng trẻ em vì mục đích tình dục. Tác động của hành vi này là
để lại những tổn thương về thân thể, tình cảm, tâm lý từ cảm giác lo lắng, sợ hãi, đến
những biểu hiện bất ổn về tinh thần, hoảng loạn. Những tổn thương này không chỉ là
những tác hại trước mắt mà cịn có thể kéo dài đến qng đời say này của đứa trẻ.
Nhiều trẻ em đã từng bị xâm hại tình dục có xu hướng tiếp tục bị lạm dụng kể cả khi
đã trưởng thành. Xâm hại tình dục trẻ em bởi những người trong gia đình là tội loạn
luân mà hệ quả của nó kéo dài và nghiêm trọng về sự phát triển tâm lý của trẻ em. Hầu
hết những người có hành vi xâm hại trẻ em là những người quen với các em, có thể là
những người trong gia đình hoặc họ hàng, hàng xóm, người quen của gia đình, người
trơng trẻ,…và cũng có nhiều trường hợp là người lạ. Các nghiên cứu cho thấy phần
lớn nạn nhân bị xâm hại tình dục là trẻ em gái (Trong 1.000 vụ trẻ em bị xâm hại thì có
đến gần 58% là trẻ em gái là nạn nhân) và phần lớn những người có hành vi xâm hại
tình dục trẻ em là nam giới.
Mọi trẻ em đều có nguy cơ bị xâm hại tình dục. Tuy nhiên, có một số nhóm trẻ
em đặc biệt có nguy cơ cao hơn so với những trẻ em khác. Đó là những trẻ em thiểu
năng, kém phát triển về thể lực và trí tuệ, trẻ em nhóm các dân tộc thiểu số, trẻ em
đường phố, trẻ em trong các trại tệ nạn, trẻ em khơng sống cùng gia đình, trẻ em ở
những nơi có thảm họa thiên nhiên hoặc những nơi có xung đột chính trị, bất ổn, trẻ
em sống ở những khu ổ chuột[2].
Thông thường, nạn nhân trong các vụ xâm hại tình dục trẻ em chủ yếu là các bé
gái. Tuy nhiên, hiện nay thực trạng trẻ em nam bị xâm hại tình dục rất đáng báo động,
nhiều em bị xâm hại ở độ tuổi khoảng 4 - 5 tuổi, có trường hợp trẻ em nam bị xâm hại
bởi chính những người thân, quen của gia đình. Các em thường bị dụ dỗ bằng tiền, thẻ
chơi game, đồ chơi, nếu không phát hiện kịp thời để điều chỉnh về tâm sinh lý thì sau
này nguy cơ lệch lạc giới tính hoặc trở thành người có xu hướng tình dục đồng giới,
tạo mầm mống xuất hiện các xử sự trái pháp luật hoặc vi phạm pháp luật ở trẻ em nam
là cao hơn. Tuy nhiên, các cơ quan ban hành, bảo vệ pháp luật chưa có quy định tương
xứng với tính chất nguy hiểm của hành vi xâm hại tình dục trẻ em nam, từ đó nhận
định và xử lý loại tội phạm này cịn nhiều hạn chế.
Bên cạnh đó, các tình trạng xâm hại diễn ra ở nhiều góc độ, ở cả những nơi tưởng
chừng an toàn nhất như trong gia đình, trường học và thực trạng số trẻ em ít tuổi có xu
hướng bị xâm hại ngày càng tăng… đã phản ánh hiện tượng tâm lý xã hội khơng bình
thường. Sự suy đồi đã trở thành vấn nạn xã hội, tác động đến những tâm hồn thơ ngây.
Hơn nữa, trẻ em là những người đang trong độ tuổi phát triển, chưa hoàn thiện về mặt
thể chất và tâm sinh lý nên hành vi xâm hại tình dục khơng chỉ gây ra cho các em nỗi