BÙNG NỔ THÔNG TIN
VÀ NHỮNG BIỆN PHÁP KHẮC PHỤC
1)
Hiện tượng bùng nổ thông tin
“Bùng nổ thông tin” là thuật ngữ đặc trưng cho sự gia tăng mạnh mẽ các sản
phẩm thông tin tư liệu trên thế giới trong mấy chục năm gần đây. Khái niệm này
được đưa ra chính thức vào năm 1986 bởi Derek de la solla Price, với ý nghĩa là
sự phát triển bùng nổ của các tạp chí khoa học. Một vài con số dưới đây cho
phép ta đánh giá mức độ hiện tượng và xu thế của nó.
Từ vài vạn tạp chí vào đầu thế kỉ XX đến năm 1972 ddax có tới 170.000 ấn
phẩm định kỳ. Trong những năm 1970 trung bình mỗi ngày có 600 tài liệu khoa
học được công bố( tức là khoảng 2.000.000 tài lieuj mỗi năm). Con số này tăng
lên từ 4 đến 5 lần vào năm 1985.
Đó là 1 tỉ lệ tăng rất nhanh. Một đặc trưng của hiện tượng này là độ gia tăng
của nó còn tiếp tục tăng trong những năm gần đây. Tỷ lệ là 9,5% trong những
năm 60 và đạt tới 10,5% vào năm 1971. Trái với một vài dự báo về sự bão hòa
nó còn tiêp tục tăng càng ngày càng nhanh.
Nguyên nhân:
Hiện tượng này gây ra chủ yếu bởi sự phát triển mạnh mẽ của khoa học ky
thuật hiện đại và sự đổi mới công nghệ. Người ta có thể mô tả điều đó bằng
hình ảnh sau: Theo tổ chúc liên hiệp Giáo dục Quốc gia My “ Từ thiên chúa
giáng sinh đến 1750 năm sau, tri thức loài người mới tăng gấp đôi. Việc tăng
gấp đôi lần thứ hai được thực hiện trong vòng 150 năm sau, tức là vào năm
1990….. Việc tăng gấp đôi lần thứ tư chỉ diễn ra trong vòng một thập niên sau
năm 1950. Nói cách khác cứ 50 năm tri thức khoa học lại tăng lên 10 lần.
Sự phát triển nhanh của khoa học và công nghệ thể hiện ở chỗ ngày nay những
thành tựu của khoa học công nghệ ngày càng nhanh chóng đi vào đời sống.
Khoảng thời gian từ lúc xuất hiện các ý tưởng khoa học và công nghệ mới cho
đến khi áp dụng rộng rãi vào sản xuất ngày càng được rút ngắn. Chẳng hạn để
đưa vào áp dụng nguyên tắc chụp ảnh phải mất hơn 100 năm từ khi phát minh
ra nó (1727- 1839); để thực hiện ý tưởng liên lạc bằng điện thoại đã mất hơn 50
năm (1820-1876); ky thật vô tuyến 35 năm (1867-1902); ra đa 15 năm (19251940); vô tuyến truyền hình 12 năm ( 1922- 1934); ky thật bán dẫn 5 năm
( 1948- 1953); mạch vi điện tử 3 năm ( 1958- 1961) còn tia laze thì chưa đầy 2
năm.
Lực lượng những người làm khoa học cũng gia tăng nhanh chóng: Năm 1950
trên thế giới có khoảng 1 triệu nhà nghiên cứu, ky sư. Trong khi đó vào năm
1900 số đó chỉ có 100.000, năm 1850 là 10.000, năm 1800 là 1000 ( trích từ
Ckaire Guinchat et Michel Menou. In troduction aux sciences et techniques de
l’ informayion et de la documentation. Les Presses de I’ Unesco, 1981). Như
vậy số lượng các nhà khoa học, nhà nghiên cứu, nguồn chủ yếu của tri thức và
thông tin khoa học không ngừng tăng nhanh. Ngày nay con số đó lên tới 10
triệu người. Nhiều nghiên cứu khẳng định rằng 9/10 các nhà khoa học trong cả
chặng đường lịch sử loài người là những người đang sống cùng thời với chúng
ta và 99% tri thức nhân loại là thuộc về những nhà bác học đó.
Ngoài ra cộng đồng khoa học còn được bổ sung thêm nhiều loại người dùng
tin: các nhà quản lý, các giám đốc xí nghiệp, các nhà công nghệ, luật gia, các
cán bộ chính trị, các nhà giáo dục….. Họ không chỉ là những người dùng tin mà
còn là nhuwngc người sản sinh ra những thông tin mới.
Tất cả những ai, bằng cách này hay cách khác, tham gia vào nền “công nghiệp
sản xuất tri thức”, tức là sản xuất, phổ biến và tiêu thụ thông tin, đều thuộc vào
những nhóm người dùng tin trên đây.
Về nguyên tắc, người ta có thể nói rằng “ mọi sự chuyển giao tri thức tương
đương với sự chuyển giao thông tin và ngược lại” và nền công nghiệp sản xuất
tri thức khoa học, mà cơ sở của nó là truyền tri thức thông tin, tiếp tục tăng
nhanh trong một thế giới xây dựng trên cơ sở của tiến bộ khoa học và công
nghệ.
2)
Hệ quả của hiện tượng bùng nổ thông tin
Sự gia tăng nhanh chóng khối lượng tri thức khoa họ không thể không ảnh
hưởng tới thành phần cơ cấu của kho tài liệu. Ngoài các sách báo và các ấn
phẩm định kỳ xuất bản theo chu trình thương mại truyền thống còn xuất hiện
một loạt các tài liệu thuộc đủ các loại, không xuất bản, được phân phối ở
mức độ hẹp như: báo cáo, luận văn, tổng kết hội nghị, giáo trình, tài liệu
nghiên cứu, tài liệu chuẩn bị xuất bản…. Chúng tạo thành những tài liệu
không công bố.
Bắt nguồn từ những cơ sở rất khác nhau như các viện nghiên cứu, các
trường đại học . các hoạt động học tập nghiên cứu……… những tài liệu này
thường chứa những thông tin mới nhất trong lĩnh vực mà nó xem xét và
chúng trở thành công cụ ưu tiên đặc biệt cho những giao lưu trực tiếp giữa
các nhà khoa học. Mặc dù khó có thể biết được số lượng của những tài liệu
này là bao nhieu, nhưng người ta biết chắc rằng số lượng của chúng hiện nay
tăng lên rất đáng kể.
Một hệ quả nữa là hiện tượng bùng nổ thông tin là sự rút ngắn đáng kể thời
gian hữu ích của một tài liệu. Đó là tính lỗi thời của tài liệu. Trong một vài
lĩnh vực, tri thức luôn liên tục với một tốc độ rất nhanh, đến nỗi người ta có
thể nói rằng một quyển sách có thể trở thành vô giá trị ngay sau khi xuất bản
nó. Do đó người ta phải thường xuyên bổ sung vốn tài liệu và không ngừng
xử lý chúng, hoặc bằng thủ công hoặc phương tiện tự động hóa.
Ngoài ra, bên cạnh những tài liệu văn bản in trên giấy còn có thêm những
tài liệu không ở dạng sách như: đĩa, ảnh, băng từ… Sự xuất hiện của những
tài liệu này trong sự chuyển giao thông tin tướng ứng với một yếu tố quan
trọng trong xã hội ngày nay là: sự xuất hiện các phương tiện nghe nhìn. Với
một tương lai rất hứa hẹn, chúng ta đặt ra cho những vấn đè xử lý và phổ
biến thông tin, dựa trên những ky thuật đặc biệt và dữa trên những kênh
thông tin rất đa dạng.
3)
Những phương hướng và biện pháp khắc phục
Để đáp ứng với dòng thông tin tư liệu gia tăng không ngừng do bùng nổ
thông tin gây ra, những cơ quan thông tin được phát triển theo ba hướng:
• Mở rợng sớ lượng và quy mơ.
• Đa dạng hóa và chun mơn hóa.
• Tiếp thu và sử dụng các ky thuật và công nghệ thông tin mới.
Sự mở rộng về số lượng và quy mô dẫn đến việc hình thành những kho sách
khổng lồ của những thư viện lớn. Theo số liệu tháng 1 năm 2005, Thư viện Quốc
hội My ( Library of congress) sở hữu 128 triệu đầu tài liệu, trong đó có 29 triệu
sách và tài liệu in khác, 12 triệu ảnh, 4,8 triệu bản đồ, 57 triệu bản viết tay, 2,7
triệu đĩa băng ghi âm, ghi hình. Các tài liệu này xếp trên giá dài tới 530 dặm.
Trong khi đó thư viện Nhà nước anh ( The Bristish Library) quản lý 150 triệu đầu
tài liệu, xếp trên giá dài tới 625 km, và mỗi năm giá sách này lại dài thêm 12km.
Các thư viện Quốc gia pháp, Thư viện Nhà nước Nga cũng quản lý những khối tài
liệu rất lớn.
Sự đa dạng hóa và chuyên môn hóa thể hiện ở sự mở rông chức năng, gia tăng
công chúng phục vụ, những sản phẩm thông tin và phạm vi hoạt động. Nhiều tổ
chức thông tin mới hình thành như những cơ sở dữ liệu và ngân hàng dữ liệu.
Chúng lưu trữ thông tin ở mức độ rộng lớn chưa từng thấy.
Cuối cùng là sự đổi mới ky thuật. Thật vậy, sự bùng nổ thông tin tương đương với
sự bùng nổ công nghệ. Đặc biệt trên ba lĩnh vực liên hệ chặt chẽ với công tác thông
tin tư liệu là: tin học, viễn thông và vi xử lý.
Sự xuất hiện của máy tính điện tử trong việc xử lý thông tin tư liệu mới diễn ra
trong vòng 40 năm nay. Được tạo thành bởi những thiết bị vào ra dữ liệu, vận hành
với tốc độ cực nhanh, với những bộ nhớ gần như không hạn chế, một bộ tính toán
không thể nhầm lẫn , máy tính điện tử đã mở ra hướng mới, đầy triển vọng cho
việc xử lý thông tin.
Hệ quả của việc sự dungjmays tính điện tử trong công tác thông tin tư liệu thật là
to lớn: tập trung thông tin trong những bộ nhớ lớn, những cơ sở dữ liệu và ngân
hàng dữ liệu; tăng nhanh tốc độ ở tất cả các công đoạn xử lý thông tin; đảo ngược
quá trình chuyển giao thông tin ( không phải người dùng tin và tư liệu di chuyển
mà là thông tin di chuyển); yêu cầu thông tin có thể đặt ra từ xa, xuất phát từ một
đầu cuối, nối với bộ phận trung tâm.
Sự phát triển của những bộ nhớ lớn truy đạt trực tiếp tạo cho khả năng tra cứu
ngay, tại thời điểm bất kỳ những thông tin mà người dùng yêu cầu. Sự tiến bộ về
chất trong quan hệ giữa người và máy, cùng với giá thành ngày càng hạ giúp cho
việc sử dụng máy tính trong công tác thông tin tư liệu ngày càng trở nên phổ cập.
Sự kết hợp giữa máy tính viễn và viễn thông hình thành nên nghành tin học viễn
thông là một trong những yếu tố cho sự phát triển các hệ thống và mạng lưới thông
tin tự động hóa. Các hệ thống này được phát triển theo hai hướng:
•
•
Các mạng truyền dữ liệu, là mạng thông tin được tạo thành bằng cách nối
các nguồn tin với nhau sao cho các dưc liệu có thể lưu thông tự do giữa
chúng.
Các mạng có thông tin máy tính, được tạo thành bởi các thiết bị đầu cuối và
máy tính trung tâm gọi là máy chủ, cho phép người dùng tin ở đầu cuối có
thể tiếp nhận các thông tin trong các CSDL dược lưu trữ trên mạng.