Giao lưu văn hóa Việt – Pháp
Giao lưu văn hóa là vấn đề tất yếu của lịch sử bởi một dân tộc muốn tồn tại
và phát triển thì dân tộc đó khơng chỉ bó hẹp phạm vi của mình trong lãnh thổ mà
phải tiếp xúc và giao lưu với các nước trong khu vực và thế giới. Chính vì vậy,
việc giao lưu trong đó có giao lưu văn hóa là một vấn đề thiết thực không chỉ với
Việt Nam mà cả các nước khác nhau trên thế giới.
Lịch sử dân tộc đã chứng minh trong quá trình tồn tại và phát triển, văn hóa
Việt Nam khơng ngừng có sự tiếp biền và giao lưu văn hóa với các nước trong khu
vực và thế giới. Kết quả của sự giao lưu đã làm cho văn hóa Việt Nam thêm đa
dạng và phong phú, đó là việc tiếp nhận những giá trị văn hóa mới bên cạnh những
giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc. Trong những giá trị văn hóa mới đó khơng
thể khơng kể đến kết quả của sự giao lưu với phương Tây mà tiêu biểu phải kể đến
sự giao lưu văn hóa Việt Nam với văn hóa Pháp. Tuy nhiên, trước khi đi tìm hiểu
về kết quả của sự giao lưu văn hóa Việt Nam với văn hóa Pháp chúng ta cần hiểu
giao lưu văn hóa là gì?
Khái niệm giao lưu văn hố là để chỉ một quy luật trong sự vận động và phát
triển văn hóa của các dân tộc. Đó là hiện tượng xảy ra khi những nhóm người
(cộng đồng, dân tộc) có văn hóa khác nhau giao lưu tiếp xúc với nhau tạo nên sự
biến đổi về văn hóa của một hoặc cả hai nhóm. Giao lưu văn hóa tạo nên sự dung
hợp, tổng hợp và tích hợp văn hóa ở các cộng đồng. Ở đó có sự kết hợp giữa các
yếu tố "nội sinh" với yếu tố "ngoại sinh" tạo nên sự phát triển văn hóa phong phú,
đa dạng và tiến bộ hơn. Giao lưu và tiếp biến văn hóa là sự tiếp nhận văn hóa nước
ngồi bởi dân tộc chủ thể. Q trình này ln đặt mỗi dân tộc phải xử lý tốt mối
quan hệ biện chứng giữa yếu tố "nội sinh" và "ngoại sinh".
Trên cơ sở nội hàm của sự giao lưu văn hóa chúng ta đi vào xét q trình
giao lưu văn hóa Việt Nam với văn hóa Pháp. Tuy nhiên, để có cái nhìn sâu sắc và
tồn diện hơn về q trình giao lưu văn hóa Việt Pháp chúng ta cần tìm hiểu xuất
phát điểm của hai quốc gia trước khi q trình giao lưu văn hóa diễn ra.
Đối với Việt Nam trước khi tiếp xúc với phương tây, Việt Nam đã có một hệ
tư tưởng riêng, mang hình thức Nho giáo song đã được Việt hóa đi để trở thành văn
hóa dân tộc. Văn hóa Việt Nam được thể hiện trên nhiều phương diện khác nhau,
trong các mối quan hệ khác nhau. Trước hết, thái độ coi trọng gia đình, bà con,
làng xóm, lấy quan hệ gia đình làm nền tảng cho mọi quan hệ; thái độ bao dung về
tín ngưỡng; coi trọng nhân cách hơn tài sản, quyền lực.Thứ hai, lịng trung thành
vơ hạn với tổ quốc. Tổ quốc này là của toàn dân, do lịch sử xương máu của dân tộc
tạo nên. Có thể nói đó là tinh thần kiên định, bất khuất của dân tộc mà không phải
dân tộc nào cũng có được. Thứ ba, đầu óc thiết thực, tinh thần dũng cảm dám đạp
bằng mọi khó khăn khi giác ngộ. Chính vì vậy, mà những giá trị văn hóa khi du
nhập vào Việt Nam đã được người Việt nhanh chóng biến hóa trở thành văn hóa
riêng cho dân tộc. Như vậy, có thể thấy rằng trước khi tiếp xúc với văn hóa Pháp
thì văn hóa Vn có sự khác biệt hồn tồn vì xuất phát điểm của nước ta là văn hóa
nơng nghiệp, nó hình thành nên tư duy nông nghiệp và nền tảng kinh tế này còn
ảnh hưởng đến nhiều mặt của xã hội trong đó có cả yếu tố văn hóa.
Trong khi đó, Pháp đang trên đà là một nước phát triển theo hướng cơng
nghiệp, xuất phát điểm khơng phải là văn hóa nơng nghiệp nên trong tư duy và
nhận thức của họ cũng khác hẳn với chúng ta. Nếu như quan hệ của chúng ta được
tạo dưng từ mối quan hệ cộng đồng thì pháp lại được tạo dựng từ quan hệ cá nhân,
coi trong tính cá nhân, do đó trong bản thân văn hóa tính cứng rắn và ngun tắc là
một trong những vấn đề đặc trưng của văn hóa Pháp. Một đất nước khi mà hoạt
động kinh tế đang phát triển thì rất cần đến yếu tố thị trường trong việc cung cấp
ngun liệu và tiêu thụ sản phẩm. Chính vì vậy, pháp đã đẩy mạnh công cuộc khai
thác thuộc địa với các nước trong đó có Việt Nam. Chính sách khai thác thuộc địa
của Pháp đối với Việt Nam được thực hiện trên các mặt như; kinh tế, chính trị, văn
hóa. Với chính sách đó vơ hình chung đã đẩy q trình giao lưu văn hóa Việt- Pháp
diễn ra, nhưng cái gốc của nó khơng phải là giao lưu văn hóa tự nguyện mà là q
trình giao lưu văn hóa cưỡng bức. Vậy kết quả của sự giao lưu văn hóa đó diễn ra
như thế nào chúng ta cùng đi vào phân tích và tìm hiểu:
Kết quả của q trình giao lưu văn hóa Việt- Pháp về mặt văn hóa vật
chất:
Ngay từ đầu, người Pháp đã triển khai phát triển đô thị, công nghiệp và
giao thông. Đương nhiên là với muc đích rất rõ ràng là khai thác thc địa
- Trong lĩnh vực đô thị, từ cuối thế kỷ XIX, đơ thị Việt Nam từ mơ hình cổ
truyền với chức năng trung tâm chính trị đã chuyển theo mơ hình đô thị công
nghiệp – thương nghiệp chú trọng chức năng kinh tế. Nhiều nhà máy, xí nghiệp
hình thành trong các đơ thị, Ở đơ thị lớn hình thành một tầng lớp tư sản dân tộc;
Các trường trung học và đại học cũng ra đời trong các đô thị. Nhiều đô thị và thị
trấn nhỏ cũng dần dần phát triển .
Xuất hiện các kiến trúc đô thị kết hợp khá tài tình phong cách phương
Tây với tính cách dân tộc, phù hợp với điều kiện thiên nhiên Việt Nam, chẳng
hạn ,các tồ nhà của Trường Đại học Đơng Dương, Bộ Ngoại giao, Trường Viễn
Đông Bác cổ ….
Về công nghệp: nhiều ngành công nghiệp khác nhau ra đời như khai mỏ,
chế biến nông lâm sản, công nhgiệp thực phẩm … làm cho bộ mặt kinh tế Việt
Nam trước đây chủ yếu là nơng nghiệp thì bây giờ có thêm các ngành khác.
Truyền thống lâu đời của dân Việt Nam là nông nghiệp trồng luá nước, đến nay
xuất hiện các loại cây công nghiệp từ nước ngoài mang vào như cao su … phát
triển một số cây cơng nghiệp trong nước: đay, cói, đậu lấy dầu …
Về giao thông: hàng chục vạn dân đinh đã được huy động xây dựng hệ
thống đường bộ, đường sắt, sân bay, bến cảng …. Những con đường xuyên rừng
núi, đến các đồn điền hầm mỏ. Toàn bộ Đơng Dương khơng nơi nào khơng có
đường giao thơng nếu ở đó có những tài nguyên quý giá . Cuộc khai thác thuộc
địa lần thứ nhât đã tạo ra những con đường liên tỉnh dài tới 20 ngàn Km . Đường
thuỷ, nhất là ở Nam bộ được tu bổ, khai thông tới năm 1914 tổng số độ dài đường
thuỷ đã tới 1745 Km. Hệ thống đường sắt hoàn thành với chiều dài 2059 Km được
đưa vào sử dụng vào năm 1936. Những phương tiện giao thông hiện đại đang từng
bước thay thế các phương tiện giao thông truyền thống của Việt Nam . Nhiều
chiếc cầu sắt hiện đại, rất dài cũng được bắc qua những con sông lớn ở nước ta như
Cầu Long Biên.
Hệ thống đường sá và đô thị phát triển tạo cho diện mạo văn hố vật
chất giai đoạn nầy có những khác biệt so với các giai đoạn trước.
Trên phương diện văn hóa tinh thần
Tiếp thu lối sống, nếp sống mới; đó là việc hình thành nhu cầu và nếp sinh
hoạt tinh thần mới như: xem phim, xem kịch, xem xiếc trong các nhà hát, rạp chếu
phim. Tầng lớp công chức, tri thức, thanh thiếu niên, học sinh, sinh viên tham gia
các hoạt động nghệ thuật, một số người thích nói tiếng tây dùng tiếng tây để tỏ ra
thức thời và sang trọng. Trang phục các nhân nhất là ở thành thị việc ăn mặc theo
phong cách tây việc xuất hiện những bộ véc và những chiếc váy đầm; rồi đến cách
xưng hơ, ứng xử trong gia đình cũng có sự thay đổi như bố mẹ thì gọi là cậu mợ,
bạn bè gọi là toa, bề trên thì gọi là ngài..Cưới xin được tổ chức ở nhà thờ..
Tiếp thu nền giáo dục mới, người Việt trong giai đoạn này không chối từ nền
giáo dục tiên tiến từ bên ngoài đưa vào nước ta. Với phong trào duy tân, người Việt
tổ chức mạng lưới trường dân lập rộng khắp, mở cuộc vận động Đông Du sang
Nhật Bản, mở các trường cho phụ nữ như trường Hoài Đức, trường Đồng Khánh..
Tiếp thu chữ quốc ngữ La Tinh, chữ này ban đầu do các giáo sỹ phương tây
sáng taoj ra và vận dụng trong các nhà thờ Gia tô giáo để dịch Kinh Thánh và
giảng đạo cho các giáo dân người VN. Đến năm 1651 giáo sỹ A lếch xăng đơ rốt
đã kế thừa và xây dựng cuốn từ điển Việt- Bồ- La Tinh. Sau khi chiếm được nước
ta, người pháp đã thấy sự tiện lợi của chữ Quốc Ngữ nên đã làm giảm đi sự ảnh
hưởng của chữ Nho bằng cách đưa chữ quốc ngữ vào trường học, mặc dù ban đầu
chúng ta có sự bài trừ chữ quốc ngữ nhưng với sự tiện lợi của nó chữ quốc ngữ đa
tồn tại trong lòng xã hội Việt Nam cho đến nay.
Tiếp thu nền văn chương mới
Người Việt tiếp xúc với nền văn chương bác học của phương tây và Pháp
thông qua nhiều kênh khác nhau. Bước đầu là đọc, dịch, giới thiệu văn chương của
phương tây vào Việt Nam, sau đó người Việt đã bắt chước và sáng tạo văn chương
theo cách thức phương tây. Sang thế kỷ XX, xu hướng sáng tác mới được khẳng
định như Phạm duy Tốn với tác phẩm Sống chết mặc bay..
Tiếp thu loại hình nghệ thuật
Kịch là loại hình sân khấu mới; lúc đầu là việc dịch các kịch bản của người
pháp để đọc. Sau đó các đồn kịch của Việt Nam xuất hiện diễn với các vở của tây,
dần dần chúng ta đã viết các kịch bản về con người- xã hội VN cho đồn kịch VN
diễn như tác giả Vũ Đình Long có vở. Các thể loại sân khấu dân tộc có sự đổi mới:
chèo truyền thống được Nguyễn Đình Nghị đưa từ sân đình lên sân khấu. Tuồng
cũng có sự thay đổi về nội dung phản ánh cuộc sống hiện thực “tuồng tiểu thuyết”,
sân khấu được trang trí, quần áo phục trang. Đặc biệt sân khấu cải lương xuất hiện:
kết hợp nghệ thuật ca Nam Bộ, hát Quảng, hát Triều của Trung Hoa, vũ điệu chăm
pa và bài bản của kịch phương Tây. Ẩm nhạc người P đem nền âm nhạc phương
tây vào VN bằng nhiều con đường: dạy và hát Thánh ca ở các nhà thờ cơ đốc giáo.
Người P cũng đưa các dàn nhạc, các nghệ sĩ sang Hà Nội, Sài Gòn để biểu diễn
cho người pháp và người bản xứ, việc dạy nhạc ở các trường học…với những biện
pháp trên ban đầu chúng ta phổ lời cho cá bản nhạc tây “lời ta điệu Tây” để hát, bắt
chước người tây sáng tác âm nhạc mang chủ đề, tư tưởng, tâm hồn Việt, thức tỉnh
tinh thần dân tộc. Nội dung phát triển phong phú chia thành ba dòng nhạc: ca khúc
lãng mạn, ca khúc yêu nước, ca khúc cách mạng…
Tiếp thu báo chí, xuất bản
Tờ báo đầu tiên người Pháp xuất bản ở nước ta là tờ công báo bằng tiếng
Pháp (1862) của Bộ Viễn chinh Nam Kỳ để công bố các mệnh lệnh và tin tức. Sau
đó ba năm người P cho Trương Vĩnh Ký ra tờ báo chữ quốc ngữ (1865) của người
Việt, tờ Gia Định báo (15/4/1865). Mục đích cảu tở báo là phổ biến trong nhân dân
những biện pháo để ái biến nông nghiệp và tiến bộ trong nơng thơn… Trên cơ sở
đó báo chí phát triển nhanh chóng bằng các thứ tiếng: Việt- hoa- pháp của nhiều tổ
chức xã hội và cá nhân.
Xuất bản và in ấn; người P đưa máy in vào nước ta từ năm 1862 đến năm
1876 xuất hiện tập bút ký Chuyến đi thăm bắc kỳ của Trương Vĩnh Ký.. Tóm lại,
việc tiếp thu báo chí, xuất bản của phương tây và pháp ở nước ta đem lại cho xã
hội một phương tiện thông tin mới mẻ, một phương tiện truyền bá văn hóa, sinh
hoạt và đấu tranh tư tưởng hết sức quan trọng.
Tiếp xúc với công giáo
Công giáo (đạo gia tô hau thiên chúa giáo) vào Vn từ năm 1533 thời vua Lê
Trang Tông ở Nam Cường, Nam Định. Tuy nhiên, khi pháp thống trị Việt Nam,
thiên chúa giáo có cơ hội phát triển mạnh mẹ họ truyền giáo rộng rãi khắp cả nước
(có đến 300.000 conn chiên, nhà thờ được xây dựng khắp mọi nơi, các tổ chức giáo
hội ra đời. Trên thực tế Thiên chúa giáo đã góp phần vào sự biến đổi văn hóa Việt
Nam ở nhiều phương diện: về ngơn ngữ đó là sự ra đời của chữ Quốc ngữ La Tinh;
về âm nhạc các nhà thờ thiên chúa giáo dạy âm nhạc để phụ vụ các hoạt động tôn
giáo dần dần được người Việt tiếp thu. Về hội họa, điêu khắc: các tranh ảnh, tượng
chúa và các thánh cũng được đưa vào Việt Nam và dạy cho người VN biết vẽ
tranh, tạc tượng. Về kiến trúc nhà thờ được các giáo sỹ đưa vào VN, xây dựng theo
kiến trúc phương tây..về lễ hội các lễ hội của thiên chúa giáo tiến hành như lễ Nô
en, lễ phục sinh đã làm phong phú hơn đời sống tinh thần của người dân VN..
Như vậy, sự giao lưu tiếp biến văn hóa VP đã diễn ra trước và sau khi người
Pháp thống trị Vn gần bốn thế kỷ, song tập trung nhất là vào đầu thế kỷ XX. Có thể
nói trong vịng 3-4 thế kỷ quá trình giao lưu ấy đã làm cho văn hóa VN có nhiều
biến đổi sâu sắc trên các phương diện khác nhau. Với kết quả của sự giao lưu văn
hóa đã đưa văn hóa VN từ nền văn hóa nơng nghiệp- nơng thơn- nơng dân chuyển
sang nền văn hóa công nghiệp – thành thị- thị dân và đưa văn hóa Việt Nam nhanh
chóng hội nhập phát triển cùng với văn hóa nhân loại.