Tải bản đầy đủ (.doc) (36 trang)

ĐIỂM KHÁC NHAU và điểm đặc THÙ của TRIẾT học PHƯƠNG ĐÔNG và PHƯƠNG tây

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (241.38 KB, 36 trang )

Tiểu luận Triết học

Giảng viên: PGS. TS. Nguyễn Thúy Vân

Më §Çu
Trong q trình vận động và phát triển của lịch sử văn hố nhân loại nói
chung và tư tưởng triết học nói riêng, triết học Phương Đơng và triết học Phương
Tây có nhiều nội dung phong phú, đa dạng. Những giá trị của nó đã để lại dấu ấn
đậm nét và có ảnh hưởng lớn đối với lịch sử lồi người. Triết học Phương Đông và
triết học Phương Tây không thể thoát ly những vấn đề chung của lịch sử triết học.
Mặc dù vậy, giữa triết học Phương Đông và triết học Phương Tây vẫn có những đặc
điểm đặc thù của nó. Nghiên cứu về triết học Phương Đơng và triết học Phương
Tây, đặc biệt là so sánh sự khác nhau của nó là một vấn đề phức tạp, nhưng cũng
rất lý thú, vì qua đó ta có thể hiểu biết sâu sắc thêm những giá trị về tư tưởng văn
hoá của nhân loại. Mặt khác, bản sắc văn hoá Việt Nam ảnh hưởng khá sâu sắc bởi
nền triết học Phương Đơng, do đó nghiên cứu những đặc điểm của triết học Phương
Đông trong mối quan hệ với đặc điểm của triết học Phương Tây, đặc biệt là những
tư tưởng nhân văn trong thời khai sáng sẽ giúp chúng ta hiểu biết sâu sắc hơn bản
sắc văn hố Việt Nam.
Víi một tinh thần đó, tôi chọn nội dung bài viết Điểm khác
nhau và điểm đặc thù của triết học phơng Đông và phơng Tây
luận giải những điểm đó thông qua t tởng của các nhà t tởng ở
phơng Đông và phơng Tây từ đó muốn chỉ ra một số khác biệt
và điểm đặc thù của hai nền triết học phơng Đông và triết học
phơng Tây. Thông qua đó để thấy đợc những u điểm, khuyết
điểm của các nền triết học ấy, nhằm nhận thức đúng đắn,
khoa học và thực sự khách quan, để học hỏi và phát huy những u điểm, đồng thời khắc phục những hạn chế, thiếu sót cña tõng

Học viên: Lê Anh Ngọc

1



Lớp: 14.02.G


Tiểu luận Triết học

Giảng viên: PGS. TS. Nguyễn Thúy Vân

nÒn triết học trong quá trình phát triển đi lên của cách mạng
Việt Nam hiện nay.

1. SO SNH C IM CA TRIẾT HỌC PHƯƠNG ĐÔNG VÀ TRIẾT HỌC
PHƯƠNG TÂY ĐỂ THẤY ĐIỂM KHÁC NHAU VÀ ĐIỂM ĐẶC THÙ

1.1.

Sự giống nhau

Điều đầu tiên có thể thấy đó là dù khác nhau về vị trí địa lý, mốc thời gian
hình thành và phát triển,… thì giữa những trường phái triết học, tư tưởng triết học
vẫn có những sự tương đồng ở khía cạnh nào đó. Triết học phương Đơng và triết
học phương Tây cũng không là ngoại lệ.
C.Mác đã viết: Để hiểu rõ tư tưởng của một thời đại nào đó thì chúng ta phải
hiểu được điều kiện sinh hoạt vật chất của thời đại đó. Bởi vì, theo C.Mác, tồn tại
xã hội ln quyết định ý thức xã hội, do đó nó phản ánh tồn tại xã hội – những điều
kiện sinh hoạt vật chất của xã hội. Chính vì thế, các trào lưu triết học Phương Đông
và Phương Tây đều được nảy sinh trên những điều kiện kinh tế - xã hội trong giai
đoạn lịch sử nhất định. Xét trong mối quan hệ giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc
thượng tầng, thì triết học là một yếu tố của kiến trúc thượng tầng, do đó các học
thuyết triết học Đơng – Tây đều chịu sự quyết định của cơ sở hạ tầng và đến lượt

nó cũng có vai trị hết sức to lớn đối với cơ sở hạ tầng.
Triết học Phương Đơng và Phương Tây đều được hình thành, phát triển trong
cuộc đấu tranh giữa chủ nghĩa duy tâm, giữa phương pháp siêu hình và phương
pháp biện chứng. Thực chất cuộc đấu tranh này là một phần cuộc đấu tranh tư
tưởng của những giai cấp đối kháng trong xã hội. Những quan niệm duy vật thường
gần gũi và gắn liền với những lực lượng tiến bộ trong xã hội và ngược lại những
quan niệm duy tâm thường gần gũi và gắn liền với lực lượng lạc hậu, bảo thủ trong
xã hội.

Học viên: Lê Anh Ngọc

2

Lớp: 14.02.G


Tiểu luận Triết học

Giảng viên: PGS. TS. Nguyễn Thúy Vân

Triết học Phương Đơng và Phương Tây có thể sử dụng những khái niệm,
phạm trù khác nhau nhưng đều phải bàn đến vấn đề cơ bản của triết học, đồng thời
đều tuân theo những phương pháp chung trong nhận thức thế giới: Phương pháp
biện chứng hoặc Phương pháp siêu hình.
Triết học Phương Đông và Phương Tây đều bàn đến vấn đề con người ở
những khía cạnh khác nhau, mức độ đậm nhạt khác nhau và qua những thời kỳ lịch
sử khác nhau đều có cách đánh giá khác nhau về con người.
Các học thuyết triết học ở Phương Đông hay Phương Tây đều có khuynh
hướng chung là xâm nhập lẫn nhau, vừa có sự kế thừa giữa các học thuyết, hoặc
trong sự phát triển của học thuyết đó, vừa có sự đào thải, lọc bỏ những quan niệm

lạc hậu, hoặc những quan niệm không phù hợp với nhãn quan của giai cấp thống
trị.
Mỗi học thuyết trong triết học ở Phương Đông hay Phương Tây cũng vậy,
đều có những mặt tích cực và hạn chế của nó nhưng đã góp phần tạo nên những giá
trị văn minh nhân loại.
1.2.

Sự khác nhau và nét đặc thù

Triết học là một hình thái ý thức xã hội, là sự phản ánh tồn tại của xã hội và
đặc biệt sự tồn tại này ở xã hội phương Đông khác hẳn với phương Tây về bối cảnh
xã hội ra đời, phát triển, điều kiện tự nhiên, đối tượng nghiên cứu, phương pháp
nhận thức và hệ tư tưởng...
Triết học là hình thái ý thức xã hội ra đời từ khi chế độ cộng sản nguyên thuỷ
được thay thế bằng chế độ chiếm hữu nô lệ. Những triết học đầu tiên trong lịch sử
xuất hiện vào khoảng thế kỷ VIII – VI trước công nguyên ở Ấn Độ cổ đại, Trung
quốc cổ đại, Hy Lạp và La Mã cổ đại và ở các nước khác.
Theo quan điểm của mác xít triết học là một hình thái ý thức xã hội, là học
thuyết về những nguyên tắc chung nhất của tồn tại và nhận thức về thái độ của con
người đối với thế giới, là khoa học về những quy luật chung nhất của tự nhiên, xã
hội và tư duy. Như vậy triết học là một hình thái ý thức xã hội, là sự phản ánh tồn
Học viên: Lê Anh Ngọc

3

Lớp: 14.02.G


Tiểu luận Triết học


Giảng viên: PGS. TS. Nguyễn Thúy Vân

tại của xã hội và đặc biệt sự tồn tại này ở xã hội phương Đông khác hẳn với phương
Tây về cả điều kiện tự nhiên, địa lý dân số mà hơn cả là phương thức của sản xuất
của phương Đông là phương thức sản xuất nhỏ còn phương Tây là phương thức sản
xuất của tư bản do vậy mà cái phản ánh ý thức cũng khác: văn hố phương Đơng
mang nặng tính chất cộng đồng cịn phương Tây mang tính cá thể.
Sự khác biệt căn bản của triết học phương Tây và phương Đơng cịn được
thể hiện cụ thể như sau:
1.2.1. Bối cảnh xã hội ra đời, phát triển
Đặc điểm hai loại hình cơ sở xã hội Đơng - Tây là tĩnh, ổn định đối nghịch
với động, biến động nhanh. Triết học lỏng lẻo, mềm dẻo của Đông đối lại là triết
học chặt chẽ, thống nhất thành hệ thống của Tây. Triết học phương Tây đi từ gốc
lên ngọn (từ thế giới quan, vũ trụ quan, bản thể luận... từ đó xây dựng nhân sinh
quan con người;) trong khi triết học phương Đông đi từ ngọn xuống gốc (từ nhân
sinh quan, vấn đề cách sống, lối sống sau đó mới là vũ trụ quan, bản thể luận...). Đó
là 2 nét chính của hai nền triết học Đơng - Tây.
Nếu như ở phương Tây, triết học được xây dựng bởi chủ yếu là các nhà khoa
học, gắn liền với các thành tựu khoa học, đặc biệt là khoa học tự nhiên thì ở
phương Đơng, triết học gắn với những hiền triết - nhà tơn giáo, nhà giáo dục đạo
đức, chính trị-xã hội.
Vậy nên đặc điểm chủ đạo là các nhà Triết học phương Tây thiên về giải
thích thế giới theo nhiều cách cịn mục đích chính của phương Đơng là cải tạo thế
giới gồm có: ổn định xã hội, giải thốt cho con người và làm sao cho con người hoà
đồng với thiên nhiên.
Nguồn gốc là do ở phương Đông, thượng tầng kiến trúc ra đời trước và thúc
đẩy dự phát triển của hạ tầng cơ sở, còn ở phương Tây hạ tầng cơ sở quyết định đến
thượng tầng kiến trúc.
1.2.2. Nếu nh triết học phơng Đông tập trung nghiên cứu
nhân sinh quan, råi míi tiÕp cËn víi thÕ giíi quan thì ngợc

Hc viờn: Lờ Anh Ngc

4

Lp: 14.02.G


Tiểu luận Triết học

Giảng viên: PGS. TS. Nguyễn Thúy Vân

l¹i, triết học phơng Tây ngay từ đầu đà nghiên cứu vỊ thÕ
giíi quan, vị trơ quan, b¶n thĨ ln råi đến nhân sinh
quan.
Đây là điểm khác biệt căn bản nhất của hai nền triết học
phơng Đông - phơng Tây. Chính điểm khác biệt này đà quy
định toàn bộ các điểm khác biệt khác của hai nền triết học, khi
nó đi sâu vào nhận thức, khám phá thế giới xung quanh.
Khi tìm cách trả lời cho câu hỏi vậy thế giới ra đời từ đâu?
cái gì vật đầu tiên tạo ra thế giới này?...thì các nhà triết học Hy
Lạp- La MÃ cổ đại nh: Talét (khoảng 625 - 547 tr.CN) cho là nớc;
Anaximen (khoảng 588 - 525 tr.CN) cho là không khí; Hêraclít
(khoảng 544 - 483 tr.CN) cho là lửa hoặc Pitago (khoảng nửa cuối
thế kỷ thứ VI tr.CN) cho là con sốlà yếu tố đầu tiên cấu tạo nên
thế giới. Trái ngợc với các nhà triết học học Hy Lạp - La MÃ cổ đại,
các nhà triết học phơng Đông mà tiêu biểu là Khổng Tử và
Buddha thì lại không đi tìm những yếu tố đầu tiên ấy.
Thời đại mà Khổng tử sống (551 - 479 tr.CN) là thời đại mà:
Vơng đạo suy vi, Bá đạo trị vì, trật tự, lễ nghi phép tắc bị
đảo lộn. Thời đại mà nh Khổng Tử Vua không phải đạo vua, tôi

không phải đạo tôi, cha không phải đạo cha, con không phải đạo
con. Trớc cảnh xà hội loạn lạc ấy, Khổng Tử có hoài bÃo chính trị
muốn kế thừa sự nghiệp của văn vơng, Chu Công, lập lại trật tự
kỷ cơng nhà Tây Chu. Để thực hiện hoài bÃo lớn lao đó, Khổng Tử
xây dựng nên học thuyết về Nhân - Lễ- Chính danh và chủ trơng dùng đờng lối đức trị để ổn định trật tự xà hội lúc bấy giờ.
Có thể nói, toàn bộ cuộc đời, tâm huyết và nghị lực cđa Khỉng
Học viên: Lê Anh Ngọc

5

Lớp: 14.02.G


Tiểu luận Triết học

Giảng viên: PGS. TS. Nguyễn Thúy Vân

Tö đều dồn vào nghiên cứu về chính trị xà hội. Có lẽ, cũng vì
điều đó mà nhiều ngời cho rằng học thuyết của Khổng Tử là
học thuyết về chính trị - xà hội, đạo đức chứ không phải là học
thuyết triÕt häc. Hä cho r»ng, trong häc thuyÕt Êy kh«ng có chỗ
cho bản thể luận và vũ trụ luận. Sau Khổng Tử đến Mạnh Kha
(371 - 289 tr.CN), ngời đời sau tôn xng là Mạnh Tử. Mạnh tử là học
trò của Tử t (tên là Khổng Cấp, cháu nội của Khổng Tử), còn Tử T
lại là học trò của Tăng Tử (Tăng Sâm). Tăng Sâm là học trò của
Khổng Tử. Có thể nói, t tởng của Mạnh Tử là sự kế thừa trực tiếp
t tởng của Tử t và Tăng Sâm. Nhng Mạnh Tử lại có một vị trí đặc
biệt trong bảo vệ Nho giáo, bảo về học thuyết củ Khổng Tử,
mặc dù ông cơ bản chỉ khuyếch đại mặt hạn chế, phát triển
mặt duy tâm của Khổng Tử giống nh các bậc tiền bối của mình,

không chủ trơng hành mà lại đi sâu vào nội tỉnh, tự suy
nghĩ. Chính vì vậy, mà khi nhắc đến Nho giáo, ngời ta thờng
nhắc tới dòng Nho gia Khổng - Mạnh. Tuy nhiên, so với Khổng tử,
Mạnh Tử cũng cha có gì tiến bộ hơn, thậm chí có chỗ còn thụt lùi.
Ông cũng không tập trung bàn về vũ trụ quan, bản thể luận. Cho
mÃi đến đời Tống sau này (khoảng 960 - 1279), điểm hạn chế
này mới dần đợc khắc phục. Những yếu tố về thế giới quan, vũ
trụ quan đợc bàn tới thông qua các phạm trù trung tâm của các nhà
Nho thời Tống, nh phạm trù Lý, Khí.
T tởng của Phật giáo cũng vậy, Phật là tên ghi âm Hán ViƯt
cđa Buddha, ngêi s¸ng lËp PhËt gi¸o. Buddha cã nghÜa là giác
ngộ. Về năm sinh của Buddha, cũng có nhiều tài liệu nói khác
nhau, nhng theo truyền thống Phật giáo, ông đợc coi là sinh vào
Hc viờn: Lờ Anh Ngc

6

Lp: 14.02.G


Tiu lun Trit hc

Ging viờn: PGS. TS. Nguyn Thỳy Võn

năm 624 và mất năm 544 trớc công nguyên. Sau này ông đợc mọi
ngời tôn kính gọi là Sakya-muni (Trung Quốc dịch là Thích ca
mầu ni), có nghĩa là nhà hiền triết của xứ Sakya.
Bản thân Buddha vốn là thái tử, con vua Tịnh Phạn, chính
vì vậy ông sống trong nhung lơa, giÇu sang, qun q. Sau mét
lÇn lÐn vua cha đi ra ngoài cổng thành, ông mục kích cảnh khổ

đau và nỗi khốn cùng của ngời dân lao động, vì vậy ông quyết
định rời bỏ cuộc sống nhung lụa, rời bỏ gia định, đi tu, để tìm
cách giải thoát cho chúng sinh khỏi sự khổ đau trong vòng luôn
hồi.
Vì vậy, đầu tiên, không phải Buddha hớng vào xây dựng
thế giới quan, vũ trụ quan, bản thể luận mà ông tập trung tìm
con đờng giải thoát, cứu khổ cho chúng sinh. Từ mục đích ấy,
Buddha đa ra những biện pháp, những con đờng cứu khổ, đó
là bát chính đạo, nghĩa là tám con đờng chính, đúng đắn
để giải thoát nỗi khổ cho chúng sinh khỏi bể khổ trầm luân.
Cũng có môn ®å hái ®øc PhËt vỊ mét sè vÊn ®Ị siªu hình,
trừu tợng, tuy nhiên Buddha không trả lời. Bởi vì, triết lý nhân
sinh của ông là: nếu một ngời đi đờng bị một mũi tên tẩm độc
bắn trúng, vấn đề cấp bách ở đây là rút mũi tên có thuốc độc
ra, rồi nhanh chóng chữa chạy đÃ, chứ không phải cứ đứng đấy
mà hỏi, mà luận bàn xem bản thể của mũi tên là gì? nó đợc
làm bằng gì? làm nh thế nào?...
Từ phân tích một số điểm ở trên, từ những học thuyết, trờng phái tiêu biểu, chúng ta thấy rõ sự khác biệt cơ bản giữa
hai trờng phái, hai nền triết học phơng Đông - Phơng tây. Nếu
Hc viên: Lê Anh Ngọc

7

Lớp: 14.02.G


Tiểu luận Triết học

Giảng viên: PGS. TS. Nguyễn Thúy Vân


nh phơng Đông đi từ nhân sinh quan đến thế giới quan thì ngợc lại, phơng Tây lại đi từ thế giới quan, bản thể luận rồi mới
đến nhân sinh quan. Có quan điểm nghiên cứu cho rằng, nh
vậy triết học phơng Tây chủ yếu đi từ gốc lên ngọn, còn triết
học phơng Đông hầu nh lại đi từ ngọn xuống gốc.
Nh ở phần trớc chúng ta đà bàn tới, chính tồn tại xà hội đÃ
quy định sự khác biệt của hai nền triết học Đông - Tây. Theo
các nhà nghiên cứu, ở phơng Đông không có chế độ nô lệ đại
quy mô điển hình nh ở Hy Lạp - La Mà cổ dại. Xét trong xà hội
Trung Quốc cổ đại, chế độ nô lệ đà manh nha hình thành từ
nhà Ân. Nhng nhà nớc chiếm hữu nô lệ (thời Tây Chu 1027 770 tr.CN) không thật điển hình, hơn nữa lúc này ở Trung
Quốc lại cha có sắt, cha phát hiện ra sắt, vì vậy lực lợng sản
xuất xà hội vẫn còn rất thấp kém, chậm phát triển. Trong khi đó
ở Hy Lạp và La mà cổ đại, lúc này sắt đà xuất hiện. Chính nhờ
có sắt, đà làm cho lực lợng sản xuất phát triển nhanh chóng,
chế độ thị tộc, bộ lạc nhanh chóng bị xoá bỏ, quan hệ sản xuất
mới ra đời và trên đó hình thành nhà nớc. Chúng ta thấy rõ
ràng là, nếu ở phơng Tây cơ sở hạ tầng quyết định kiến trúc
thợng tầng, thì ở phơng Đông hình nh chính sự ra đời của
kiến trúc thợng tầng đà thúc đẩy sự phát triển của cơ sở hạ
tầng. Chính điều đó đà lý giải tại sao phơng Tây đi từ thế giới
quan đến nhân sinh quan, còn phơng Đông thì ngợc lại, đi từ
nhân sinh quan ®Õn thÕ giíi quan.

Học viên: Lê Anh Ngọc

8

Lớp: 14.02.G



Tiểu luận Triết học

Giảng viên: PGS. TS. Nguyễn Thúy Vân

2.2.1. V i tng nghiờn cu
Đối tợng nghiên cứu của triết học phơng Tây rất rộng, bao
gồm toàn bộ giới tự nhiên, xà hội và t duy, nhng cơ bản phơng
Tây lấy giới tự nhiên làm gốc, làm cơ sở. Ngay từ khi bớc vào
nghiên cứu, triết học phơng Tây đà tập trung bàn tới những vấn
đề cơ bản nh bản thĨ ln, vị trơ ln, tri thøc ln, nhËn thøc
ln…Giíi tự nhiên bao la xung quanh, trong đó có cả con ngời và
xà hội loài ngời, chính là đối tợng nghiên cứu của triết học phơng
Tây. Chính vì đối tợng nghiên cứu rộng, bao hàm nhiều lĩnh vực
nh vậy nên phạm vi tri thức mà nó mang lại cũng rất rộng, bao quát
mọi lĩnh vực. Do ngay từ đầu ở phơng Tây đà xác định lấy giới
tự nhiên làm đối tợng nghiên cứu của mình, nên khuynh hớng
chung, khuynh hớng trội của nó là hớng ngoại, lấy cái bên ngoài để
giải thích cho cái bên trong và nhìn chung hơi ngả về duy vật.
Chúng ta nói nh vậy không có nghĩa là ở phơng Tây không
có khuynh hớng nội, duy tâm. Tuy nhiên những khuynh hớng nội,
duy tâm ở phơng Tây là không nhiều, không nổi trội, cả về lợng
và chất, mặc dù ngay cả đến bây giờ cuộc đấu tranh giữa duy
tâm và duy vật, giữa vô thần - hữu thần, giữa biện chứng - siêu
hình vẫn còn diễn ra hết sức gay gắt. Nhiều quốc gia, nhiều
dân tộc, mặc dù theo t tởng duy tâm, tôn giáo, nhng để phát
triển lực lợng sản xuất, phát triển xà hội vẫn phải ngấn ngầm sử
dụng thế giới quan duy vật và phơng pháp biện chứng của Mác -

Hc viờn: Lờ Anh Ngọc


9

Lớp: 14.02.G


Tiểu luận Triết học

Giảng viên: PGS. TS. Nguyễn Thúy Vân

Lªnin. Cũng vì ngay từ đầu đà lấy giới tự nhiên làm đối tợng
nghiên cứu nên triết học phơng Tây thờng gắn với những thành
tự khoa học, đặc biệt là khoa học tự nhiên. Các nhà triết học phơng Tây đồng thời cũng là các nhà khoa học, nhà bác học. Điều
này đà lý giải tại sao nền khoa học nói chung, khoa học tự nhiên
nói riêng ở phơng Tây lại phát triển nhanh chóng, thu đợc nhiều
thành tựu nh vậy, trong khi đó ở phơng Tây bớc vào lịch sử xÃ
hội loài ngời sau phơng Đông. Chính sự phát triển nh vũ bÃo của
khoa học - kỹ thuật và công nghệ, đà làm cho lực lợng sản xuất
phát triển nhanh chóng, của cải xà hội làm ra dồi dào, xà hội phát
triển nhanh hơn ở phơng Đông.
Khác với phơng Tây, đối tợng nghiên cứu của triết học phơng Đông lại là chính trị - xà hội, đạo đức, luận lý (nh triết học
Trung Quốc) và tôn giáo (nh triết học ấn Độ). Triết học phơng Đông
nhìn chung gắn với con ngời, lấy con ngời làm gốc. Đứng trớc một
xà hội loạn lạc, nhiễu nhơng, đầy rẫy khổ đau, vấn đề cấp bách
lúc này đặt ra cho các nhà t tởng lớn của phơng Đông là phải tìm
cách ổn định trật tự xà hội, giữ gìn nề nếp, kỷ cơng, đạo lý
(nh ở Trung Quốc) và giải thoát chúng sinh khỏi bể khổ trầm
luân (nh ở ấn Độ). Họ không có thời gian để bàn tới vũ trụ luận,
thế giới quan, bản thể luận (Phật giáo có bàn tới bản thể luận,
song đó không phải là vấn đề trọng tâm, cốt lõi của Phật giáo hớng tới). Đúng nh quan niệm của Phật giáo, vấn đề rút mũi tên độc
và cứu chữa đÃ, chứ không phải loay hoay mà luận bàn bản thể

của mũi tên. Do đối tơng nghiên cứu hẹp nh vậy, nên tri thức mà
triết học phơng Đông có đợc chủ yếu là về chính trị - xà hội, ®¹o
Học viên: Lê Anh Ngọc

10

Lớp: 14.02.G


Tiểu luận Triết học

Giảng viên: PGS. TS. Nguyễn Thúy Vân

®øc, tâm linh. Điều này cũng đà quy định khuynh hớng trội của
triết học phơng Đông là hớng nội, lấy cái bên trong để đi giải
thích cái bên ngoài và nhìn chung hơi ngả về duy tâm.
Khác với Hy Lạp, La MÃ cổ đại (trong bẩy trờng phái thì có
năm là duy vật, chỉ có hai trờng phái duy tâm là Pitago và
Platôn), ở đây phơng Đông lại chủ yếu là duy tâm. ở Trung Quốc
về cơ bản là các trờng phái duy tâm thống trị hệ t tởng xà hội.
Còn ë Ên §é cịng vËy, trong triÕt häc Ên §é cổ đại có chín trờng
phái, cả chính thống và tà giáo, thì có đến tám trờng phái là duy
tâm, chỉ có một trờng phái duy nhất đó là trờng phái Lokayata
(còn gọi là Carvaka hay Barhaspatya).
Cũng chính vì đối tợng nghiên cứu không nhiều nên triết
học phơng Đông có điều kiện tập trung bàn kỹ hơn, sâu hơn về
chính trị - xà hội, đạo đức và tâm linh. Nếu nh các nhà triết học
phơng Tây thờng là các nhà khoa học, bác học thì ở phơng
Đông, các nhà triết học đợc coi là ngời hiền, nhà hiền triết, minh
triết. Nếu


nh ở phơng Tây, các nhà triết học thờng hớng vào

nhận thức, cải tạo tự nhiên, phát triển khoa học và kinh tế thì trái
lại ở phơng Đông, các nhà hiền triết chủ yếu lo giữ ổn định xÃ
hội, giữ cơng thờng đạo lý, an ủi tâm linh, tìm con đờng cứu
khổ, cứu nạn. Chính vì vậy, nó đà lý giải cho chúng ta tại sao
khoa học tự nhiên nói riêng, khoa học - công nghệ ở phơng Tây lại
phát triển nhanh hơn ở phơng Đông, mặc dù cái nôi của nền văn
minh nhân loại đầu tiên phải kể đến Trung Quốc và ấn Độ. Đồng
thời nó cũng lý giải tại sao xà hội phơng Đông lại ổn định hơn, các
mối quan hệ xà hội bền vững, thân thiện hơn phơng Tây, tại
Hc viờn: Lờ Anh Ngc

11

Lp: 14.02.G


Tiểu luận Triết học

Giảng viên: PGS. TS. Nguyễn Thúy Vân

sao đạo đức phơng Tây lại tỷ lệ nghịch với sự tăng trởng của
kinh tế.
3.2.1.

Về phơng pháp và phơng tiện để nhận thức

Trớc hết, chúng ta bàn đến phơng pháp và phơng tiện

nhận thức của triết học phơng Tây. Phơng pháp nhận thức và
cải tạo thế giới của phơng Tây là chóng ta nãi tíi t duy suy lý, sù
phan tÝch mổ xẻ sự vật, hiện tợng để nghiên cứu nó. Chính từ
phơng pháp nhận thức và cải tạo thế giới này mà nó đà làm cho
khoa học, kỹ thuật phát triển, kéo theo sự phát triển nhanh
chóng của lực lợng sản xuất, của công nghiệp và công nghệ. Với
thế giới quan bao trùm là duy vật, với phơng pháp t duy coi trong
lý trÝ, coi träng ch©n lý, triÕt häc phơng Tây đà có một phơng
pháp nhận thức và cải tạo đúng đắn, cách mạng, khoa học. Với
cách phân tích mổ xẻ, đầy đủ, rõ ràng về sự vật, hiện tợng ấy.
Về phơng tiện, công cụ nhận thức và cải tạo của triết học
phơng Tây đó là nhng khái niệm, những phạm trù, quy luật.
Nhờ có những khái niệm, phạm trù, quy luật có đợc thông qua
quá trình t duy lý tính mà nó đà cho việc phân tích, mô tả,
nhận thức và cải tạo đối tợng đợc rõ ràng, sâu sắc và hiệu quả
hơn. Chính vì vậy mà các nớc phơng Tây, nhìn chung, có nền
khoa học công nghệ phát triển hơn ở phơng Đông. Tuy nhiên,
phơng pháp nhận thức của triết học phơng Tây cũng có những
hạn chế và yếu điểm của nó. Chủ nghĩa Mác - Lênin đà chỉ ra
con đờng biện chứng của quá trình nhận thức chan lý khách
quan đó là đi từ trực quan sinh động (giai đoạn nhận thức cảm

Hc viờn: Lờ Anh Ngọc

12

Lớp: 14.02.G


Tiểu luận Triết học


Giảng viên: PGS. TS. Nguyễn Thúy Vân

tÝnh) đến t duy trừu tợng (giai đoạn nhận thức lý tính) rồi đến
thực tiễn. Teo chủ nghĩa Mác - Lênin, để nhận thức đợc đúng
đắn một sự vật, hiện tợng thì trớc hết, ta phải dùng các giác
quan để cảm nhận đối tợng, sau đó ta tiến hành tri giác rồi
hình thành biểu tợng về đối tợng đó. Khi đà có biểu tợng đầy
đủ về đối tợng, chúng ta bắt đầu t duy để hình thành nên
những khái niệm, phán đoán, suy lý về đối tợng đó. Khi dà có
đợc những suy lý tơng đối đầy đủ, bản chất về đối tợng, ta
đem lý luận đó áp dụng vào thực tiễn đối tợng. Nếu nó thúc
đẩy sự vật, hiện tợng phát triển, tức là lý luận của chúng ta phù
hợp; còn nếu nó không phù hợp, nó sẽ cản trở, kìm hÃm sự phát
triển của sự vật, hiện tợng, khi đó thì chúng ta lại phải nhận
thức

lại đối tợng để bổ sung, hoàn thiện lý luận đà có cho

phong phú, đầy đủ, chính xác hơn.
Khi bàn đến khả năng nhận thức của con ngời, Lênin cũng
khẳng định: không có cái gì mà con ngời không thể biết, chỉ
có cái con ngời cha biết mà thôi.. Và theo Lênin, nhận thức của
con ngời đi từ bản chất cấp một, đến bản chất cấp hai, cấp ba,
bản chất cấp n. Quá trình nhận thức này là vô tận, bởi thực tiễn
luôn vận động, biến đổi không ngừng, cứ mỗi một cấp độ lại là
một nấc thang trong quá trình nhận thức, cứ nh vậy, con ngời
ngày càng tiệm cận tới chân lý khách quan, tới chân lý tuyệt đối.
ở phơng Tây, các nhà triết học luôn muốn vơn tới cái cuối
cùng, cái chân lý tối hậu, tuyệt đích, song họ không hiểu rằng

con ngời, cùng với cuộc đời và nhận thức của họ thì lại có hạn.
Hơn nữa thực tiễn luôn vận động, biến đổi không ngừng, cái
Hc viờn: Lờ Anh Ngc

13

Lp: 14.02.G


Tiểu luận Triết học

Giảng viên: PGS. TS. Nguyễn Thúy Vân

h«n nay là chân lý có thể ngày mai không còn phù hợp nữa. Đem
cái có hạn để vơn tới cái vô hạn, cái tuyệt đối cuối cùng, đó chính
là mâu thuẫn của phơng pháp nhận thức ở triết học phơng Tây.
Mâu thuẫn này chỉ có thể hoá giải đợc khi triết học Mác - Lênin
ra đời.
Bên cạnh đó phơng pháp phân tích, mổ xẻ vấn đề để
nghiên cứu của triết học phơng Tây, bên cạnh những u điểm nh
đà trình bày ở trên, đồng thời nó cũng bộc lộ những hạn chế,
thiếu sót nhất định của nó. Ví nh trên tay các nhà triết học phơng Tây có một quả cam, để hiểu đợc quả cam đó, các nhà triết
học này sẽ không ngần ngại mà bổ nó ra để sờ, nắn, ngửi, nếm
Rồi sau khi đà tìm hiểu cơ bản về nó, họ tiến hành lắp ghép quả
cam lại. Rõ ràng là ta thấy, quả cam bây giờ đà chết. Nh vậy,
để hiểu đợc quả cam, ngời ta phải giết chết quả cam; cũng nh,
để tìm hiểu cuộc sống, ngời ta đà làm thui chột cuộc sống, làm
đơn giản hoá, thô thiển hoá, cô lập hoá nó. Việc đi sâu vào
phân tích, chia nhỏ giới tự nhiên ra thành những mảnh riêng biệt,
cố định để nghiên cứu, một mặt đà đa đến những thành tựu

vĩ đại về nhận thức, mặt khác nó lại để lại di chứng hậu hoạ khôn
lờng, đó là thói quen xem xét sự vật một cách siêu hình, cứng
nhắc. Nhận xét về vấn đề này, C.Mác - Ph.Ăngghen cho rằng:
chỉ nhìn thấy những sự vật riêng biệt mà không nhìn thấy mối
liên hệ qua lại giữa những sự vật ấy, chỉ nhìn thấy sự tồn tại của
những sự vật ấy mà không nhìn thấy sự phát sinh, phát triểntiêu
vong của những sự vật ấy, chỉ nhìn thấy trạng thái tĩnh của

Hc viờn: Lờ Anh Ngc

14

Lp: 14.02.G


Tiểu luận Triết học

Giảng viên: PGS. TS. Nguyễn Thúy Vân

nh÷ng sự vật ấy mà quên mất sự vận động của những sự vật ấy,
chỉ nhìn thấy cây mà không nhìn thấy rừng1.
Cùng với những hạn chế về phơng pháp nhận thức, công cụ,
phơng tiện nhận thức của triết học phơng Tây cũng có điểm
bất cập. Do không hiểu, không thấy đợc thực tiễn và vai trò to lớn
của thực tiễn đối với nhận thức, nên các nhà triết học phơng Tây
thờng đề cao giai đoạn nhận thức lý tính, đề cao khái niệm,
phạm trù, phán đoán, suy lýViệc tuyệt đối hoá nhận thức lý
tính, tuyệt đối hoá khái niệm, phạm trù, phán đoánsẽ dễ dẫn
đến hiện tợng giáo điều, áp đặt, chụp mũ, thoát ly hiện thực,
bảo thủ, trì trệ, thậm chí rất nguy hiểm nếu lý luận đó là phản

động.
Trái với phơng Tây, phơng pháp và phơng tiện công cụ nhận
thức thế giới của triết học phơng Đông lại là trực giác và những
công cụ để nhận thức nh so sánh, ẩn dụ, liên tởng, hình ảnh, ngụ
ngônTheo nghĩa tiếng Hán, trực là thẳng, giác là hiểu biết,
trực giác có nghĩa là hiểu biết thẳng vào bản chất sâu thẳm
của đối tợng, mà mức độ thấp của nó gần với giác quan thứ sáu.
Nh là khi ta gặp một ngời, một vật nào đó lần đầu tiên, tự nhiên
ta có nhng linh cảm, linh tính nào đó mách bảo. Mà thờng những
linh cảm , linh tính trực giác đó lại tơng đối chính xác. Có rất
nhiều sự việc đà thành công mĩ mÃn, đem lại những kết quả bất
ngờ nhờ sự mách bảo của trực giác.
Nh vậy, chúng ta thấy rằng trực giác đóng một vai trò hết
sức quan trọng trong quá trình nhận thức thế giới của các nhà
1

Mác - Ăngghen, toàn tập,t20,Nxb. TCQG,sự thật,H.1994,tr.37.

Hc viờn: Lờ Anh Ngọc

15

Lớp: 14.02.G


Tiểu luận Triết học

Giảng viên: PGS. TS. Nguyễn Thúy Vân

triÕt học phơng Đông. Nó là phơng pháp nhận thức phù hợp giúp

các nhà triết học phơng Đông có thể nhận thức đợc đối với những
đối tợng vận động, điều mà cái phơng pháp t duy duy lý, phân
tích, mổ xẻ của các nhà triết học phơng Tây không bao giờ có
thể đạt tới. Tuy nhiên, với lối t duy trực quan này, dù có những
điểm mạnh nhất định, song nó cũng không thể tránh khỏi
những hạn chế, sai lầm. Việc đề cao phơng pháp t duy trực giác,
cụ thể, đối tợng nhận thức chủ yếu là chính trị - xà hội và tâm
linh con ngời, trong khi lại cha thấy đợc vai trò to lớn của hoạt
động thực tiễn của con ngời trong nhận thức, cải tạo thế giới, cho
nên, những tri thức mà triết học phơng Đông đem lại chủ yếu hớng vào lĩnh vực giữ ổn định trật tự xà hội - chính trị, vấn đề
đạo đức, luân lý và tâm linh con ngời.
Với những công cụ, phơng tiện để nhận thức nh so sánh, ẩn
dụ, liên tởng, hình ảnh, ngụ ngônnhững tri thức mà nó đem lại
mới chỉ dừng lại ở mức độ tri thức kinh nghiệm nên khó có thể tạo
ra những cuộc cách mạng trong lĩnh vực triết học. Điều này đÃ
góp phần lý giải tại sao khoa học kỹ thuật và công nghệ ở phơng
Đông kém phát triển hơn phơng Tây. Hơn nữa, chúng ta thấy
rằng không phải bất cứ ai cũng có trực giác và không phải bất cứ
trực giác nào cũng đều đúng. Để có trực giác đúng nó rất cần có
vai trò tích cực, chủ động, nhạy bén, sáng tạo và sự đòi hỏi rèn
luyện t duy khoa học thờng xuyên, kiên trì và liên tục của chính
chủ thể nhận thức.
1.2.5. Tính đấu tranh, phê phán trong sự phát triển của
triết häc
Học viên: Lê Anh Ngọc

16

Lớp: 14.02.G



Tiểu luận Triết học

Giảng viên: PGS. TS. Nguyễn Thúy Vân

TriÕt học phơng Đông trong suốt quá trình ra đời, hình
thành, phát triển của mình hầu nh không diễn ra một cuộc cách
mạng t tởng nào. các học thuyết ra đời sau đều lấy học thuyết
của thầy làm cơ sở xuất phát, nhằm luận giải cho các vấn đề
thực tiễn nảy sinh. Nó hầu nh chỉ là sự mở rộng, làm giầu có,
phong phú và phát triển thêm các t tởng trớc đó, ít có sự đấu
tranh, phê phán, bút chiến.
Nh ở trung Quốc, với t tởng chủ đạo: tôn sự trọng đạo,
nhất tự vi s, bán tự vi s (một chữ là thầy, nữa chữ cũng là
thầy), cho nên việc phê phán thầy, việc phản thầy đợc xem nh là
một tội trọng, không phải là đức của ngời quân tử. Chính vì vậy
mà ở xà hội Trung Quốc, cách mạng xà hội có nổ ra thì hệ t tởng
cơ bản của xà hội vẫn không có gì thay đổi. Ví nh đạo nho của
Khổng Tử (đợc coi là Nho nguyên thuỷ, Nho tiền tần), rồi đến
Hán Nho, Tuỳ Nho, Tống Nho, Minh Nho.
Còn ở ấn Độ, ngời ta cũng không thể tách triết học ấn Độ cổ
đại thành triết học thời kỳ chiếm hữu nô lệ và triết học thời kỳ
phong kiến đợc. Nền triết học ấn Độ cổ đại là một nền triết học
phát triển liên tục nhng từ từ, chậm chạp trong một bối cảnh xà hội
nh C. Mác nhận xét là tính chất phơng thức sản xuất châu á
điểm hình.
Trong khi đó ở phơng tây, tình hình này lại hoàn toàn
khác hẳn. Nếu ở phơng Đông, t tởng truyền thống là tôn s trọng
đạo, thì ở phơng Tây họ lại quan niệm thầy là đáng kính
trọng, nhng tri thức chân lý còn quan trọng hơn. Chính t tởng

này đà làm cho tính đấu tranh, phê phán, bút chiÕn ë ph¬ng
Học viên: Lê Anh Ngọc

17

Lớp: 14.02.G


Tiểu luận Triết học

Giảng viên: PGS. TS. Nguyễn Thúy Vân

T©y diễn ra hết sức gay gắt và quyết liệt. Và chính nhờ sự đấu
tranh không khoan nhợng này mà triết học phơng Tây đà gặt hái
đợc rất nhiều thành tựu rực rỡ. ở phơng Tây, cứ sau mỗi cuộc
cách mạng xa hội, một hình thái kinh tế - xà hội mới ra đời và tơng ứng với nó là một loại hình triết học. Khác với phơng Đông, ở
phơng Tây ngời ta có thể dễ ràng phân chia niên đại, thời kỳ
của triết học. ở phơng Tây có triết học chiếm hữu nô lệ, triết
học phong kiến, triết học tiền t b¶n…
2. LUẬN GIẢI TƯ TƯỞNG CỦA NHỮNG NHÀ TƯ TƯỞNG Ở PHƯƠNG
ĐÔNG VÀ PHƯƠNG TÂY

2.1.

Một số nhà tư tưởng đại diện cho triết học Phương Đông

1.2.1. Khổng Tử
 Đạo đức
Lý thuyết đạo đức của Khổng Tử dựa trên ba quan niệm chính:
Khi Khổng tử trưởng thành, Lễ được xem là ba khía cạnh sau trong cuộc đời:

hiến tế cho thần thánh, thiết chế chính trị và xã hội, và hành vi hàng ngày. Lễ được
xem là quy phạm đạo đức và hành vi mà Thiên thượng (Trời) chế định cho con
người, lấy đó mà biết việc nào nên làm, việc nào không nên làm.
Khổng Tử, Nghĩa là nguồn gốc của Lễ. Nghĩa chính là cách hành xử đúng
đắn. Trong khi làm việc vì lễ, vị kỷ cá nhân chưa hẳn đã là xấu và người cư xử theo
lễ một cách đúng đắn là người mà cả cuộc đời dựa trên trí. Tức là thay vì theo đuổi
quyền lợi của cá nhân mình, người đó cần phải làm những gì là hợp lẽ và đạo đức.
Trí là làm đúng việc vì một lý do đúng đắn. Nghĩa dựa trên quan hệ qua lại. Một ví
dụ sống theo Nghĩa là tại sao phải để tang cha mẹ ba năm sau khi chết. Lý do là vì
cha mẹ đã phải ni dưỡng chăm sóc đưa trẻ tồn bộ trong suốt ba năm đầu đời, và
là người có trí phải đền đáp lại bằng cách để tang ba năm.

Học viên: Lê Anh Ngọc

18

Lớp: 14.02.G


Tiểu luận Triết học

Giảng viên: PGS. TS. Nguyễn Thúy Vân

Cũng như Lễ xuất phát từ Nghĩa, thì Nghĩa cũng xuất phát từ Nhân. Nhân là
cách cư xử tốt với mọi người. Nhân là trung tâm của các đức tính: tình cảm chân
thật, ngay thẳng; hết lịng vì nghĩa; nghiêm trang, tề chỉnh; rộng lượng, khoan dung
và siêng năng cần mẫn. Người có đức Nhân chỉ hành động vì nhân nghĩa, đối lập
với kẻ bất nhân chỉ hành động vì lợi.
Hệ thống đạo đức của Khổng Tử dựa trên lòng vị tha và hiểu những người
khác thay vì là việc cai trị dựa trên luật pháp có được như một quyền lực thần

thánh. Để sống mà được cai trị bằng Nhân thì thậm chí cịn tốt hơn là sống trong
luật pháp của Nghĩa. Để sống có nhân thì ta theo ngun tắc vàng của Khổng Tử:
ông đã tranh luận rằng người ta phải luôn đối xử với người khác đúng như những gì
họ muốn người khác đối xử với họ. Đức hạnh theo Khổng Tử là dựa trên việc sống
hài hòa với mọi người.
Khổng Tử nói: “Muốn nhân mà khơng muốn học thì bị cái che mờ là ngu,
muốn trí mà khơng muốn học thì bị cái che mờ là cao kỳ, muốn tín mà khơng muốn
học thì bị cái che mờ là hại nghĩa, muốn trực mà không muốn học thì bị cái che mờ
là ngang ngạnh, muốn dũng mà khơng muốn học thì bị cái che mờ là loạn, muốn
cương mà khơng muốn học thì bị cái che mờ là táo bạo khinh suất”.
Ông áp dụng nguyên tắc trên như sau: "Kỷ sở bất dục, vật thi ư nhân - Cái gì
mà ta khơng muốn thì đừng làm cho người khác"
Dựa theo mức độ tu dưỡng đạo đức, Khổng Tử chia loài người thành ba hạng:


Thánh nhân: Bậc hiền giả, người thể hiện và chuyển giao chân lý minh triết.



Quân tử: Người cao nhã, kẻ phấn đấu để làm điều chân chính.



Tiểu nhân: Kẻ “hèn mọn”, hành động khơng màng tới đạo đức.

Khổng Tử nói: "Người quân tử sợ ba điều: sợ mệnh trời, sợ bậc đại nhân, sợ
lời nói của thánh nhân. Kẻ tiểu nhân khơng biết mệnh trời, nên khơng sợ, mà cịn
khinh nhờn bậc đại nhân, giễu cợt lời nói của thánh nhân. Người quân tử ung dung
mà không kiêu căng, kẻ tiểu nhân kiêu căng mà không ung dung”.


Học viên: Lê Anh Ngọc

19

Lớp: 14.02.G


Tiểu luận Triết học

Giảng viên: PGS. TS. Nguyễn Thúy Vân

 Chính trị
Tư tưởng chính trị Khổng Tử dựa trên tư tưởng đạo đức của ơng. Ơng cho
rằng chính phủ tốt nhất là chính phủ cai trị bằng "Lễ nghĩa" và đạo đức tự nhiên
của con người, chứ không phải bằng vũ lực và mua chuộc. Ơng đã giải thích điều
đó tại một trong những đoạn quan trọng nhất ở cuốn Luận Ngữ: "Dùng mệnh lệnh,
pháp luật để dẫn dắt chỉ đạo dân, dùng hình phạt để quản lý dân, làm như vây tuy
có giảm được phạm pháp, nhưng người phạm pháp không biết xấu hổ, sỉ nhục.
Dùng đạo đức để hướng dẫn chỉ đạo dân, dùng lễ nghĩa để giáo hóa dân, làm như
vậy chẳng những dân hiểu được thế nào là nhục nhã khi phạm tội, mà còn cam tâm
tình nguyện sửa chữa sai lầm của mình tận gốc từ mặt tư tưởng." (Tứ Thư - Luận
Ngữ, NXB Quân đội Nhân dân 2003). Sự "biết sỉ nhục" là sự mở rộng của trách
nhiệm, nơi mà hành động trừng phạt đi trước hành động xấu xa, chứ không phải đi
sau nó như trong hình thức luật pháp của Pháp gia.
Trong khi ủng hộ ý tưởng về một vị Hoàng đế đầy quyền lực, nguyên nhân là
vì tình trạng hỗn loạn ở Trung Quốc thời Xuân Thu, các triết lý của Khổng Tử chứa
đựng một số yếu tố hạn chế sự lạm quyền của những nhà cai trị. Ông cho rằng lời lẽ
phải ln ngay thật; vì thế tính trung thực có tầm quan trọng hàng đầu. Thậm chí
trên nét mặt, phải luôn thể hiện sự trung thực.
Khi bàn luận về mối quan hệ giữa thần dân và nhà vua (hay giữa con và cha),

ông nhấn mạnh sự cần thiết phải có sự tơn trọng của người dưới với người trên.
Điều này khơng có nghĩa là người dưới phải răm rắp tuân theo mọi mệnh lệnh từ
người trên như nhiều người hiện nay suy diễn sai. Mà ngược lại, người dưới phài
đưa ra lời khuyên cho người trên nếu người trên có hành động sai lầm. Tư tưởng
này được học trị của ơng là Mạnh Tử phát triển thêm khi nói rằng nếu vua không
ra vua, ông ta sẽ mất Thiên mệnh và sẽ phải bị lật đổ. Vì thế hành động giết bạo
chúa là đúng đắn bởi vì kẻ bạo chúa giống một tên trộm hơn là một vị vua.
2.2.1. Lão Tử
Hệ tư tưởng của Lão Tử được thể hiện ở một số nội dung sau:

Học viên: Lê Anh Ngọc

20

Lớp: 14.02.G


Tiểu luận Triết học

Giảng viên: PGS. TS. Nguyễn Thúy Vân

Thứ nhất, chống xã hội đương thời. Theo nhận xét của các nhà xã hội học,
thời Xuân Thu Chiến quốc là lúc Trung Quốc bước vào giai đoạn xã hội biến thiên
trọng đại. Khi một con người cảm thấy khó thích ứng với cuộc diện thay đổi trọng
đại đó, họ sẽ phản ứng ra sao? Phương thức của nhà Nho, đứng đầu là Khổng Tử,
gồm cả Mạnh Tử sau này, thì một mặt mong muốn trở lại với quy phạm hành vi
nguyên thủy, như duy trì quy tắc luân pháp dưới chế độ phong kiến nhà Chu; đồng
thời mặt khác, sáng tạo nấc thang giá trị mới. Mong được xã hội cơng nhận, như cổ
súy, đề cao đức tính Nhân Ái luân lý Trung Hiếu. Còn phương thức của Đạo gia,
đứng đầu là Lão Tử, gồm cả Trang Tử sau này, thì bài bác, chống phá trật tự xã hội

hiện hữu bằng hành vi tích cực, hoặc tự đặt mình ra ngồi vịng xã hội đó, bằng
hành vi tiêu cực, như đi ẩn náu, mai danh lánh nạn chẳng hạn. Xuyên qua lời nói và
trước tác (như Đạo Đức Kinh), người ta thấy Lão Tử luôn luôn giữ thái độ đả kích
tập tục và chế độ xã hội đương thời, khiến cho tư tưởng và hành vi của Người, nhất
nhất đều trái ngược với tình trạng thực tế trong lúc đó. Lúc đó là thời đại hiếu
chiến, nước nào cũng lo tăng cường binh bị thì Lão Tử bảo rằng: “Giai binh giả bất
tường chi khí”. (Quân lực mạnh, là thứ chẳng lành), và rằng: "Dĩ Đạo tá nhân chủ
giả, bất dĩ binh cưỡng thiên hạ". (Kẻ biết dùng Đạo mà phị chúa, thì chẳng lấy
chiến tranh làm phương tiện, để cưỡng bức thiên hạ). Đang lúc phần tử trí thức đua
nhau chu du liệt quốc, ai nấy cố gắng thuyết phục vua chúa các nước chấp nhận ý
kiến của mình, mong có thể làm được cái gì đó, thì Lão Tử lớn tiếng cảnh cáo họ
rằng: "Thủ thiên hạ thường dĩ vô sự, kịp kỳ hữu sự, bất túc dĩ thủ thiên hạ". (Được
thiên hạ thường là chẳng gây nên chuyện, nếu đã gây nên chuyện, thì khơng đủ tư
cách để được thiên hạ). Đó là lý tưởng chính trị trong thuyết "Vô vi" của Lão Tử.
Thứ hai, phản kinh nghiệm, phản trí thức. Lão Tử viết: "Tuyệt học vơ tư .
(Có bỏ học mới hết ưu phiền); "Vi học nhật ích, vi Đạo nhật tổn". (Càng có học cho
lắm, càng có hại cho việc tu Đạo); "Tri giả bất ngơn, ngơn giả bất tri". (Người có
học vấn chẳng bao giờ nói, kẻ hay nói mới là người khơng hiểu biết), Sở dĩ phải
phản kinh nghiệm, phản trí thức, theo Lão Tử có hai lý do: Một là kinh nghiệm và
trí thức khiến cho người ta hay lo âu, cho nên bảo "Tuyệt học vô tư ; hai là, kinh
nghiệm và trí thức gây trở ngại cho việc tu Đạo, bởi lẽ hiểu biết nhiều chừng nào,
Học viên: Lê Anh Ngọc

21

Lớp: 14.02.G


Tiểu luận Triết học


Giảng viên: PGS. TS. Nguyễn Thúy Vân

thì càng thúc đẩy lòng ham muốn, đòi hỏi của người ta, đồng thời cũng dễ làm cho
người ta nảy sinh cảm giác bất mãn với hiện tại, cho nên đã báo "Học nhiên hậu tri
bất túc” (Câu này có nghĩa là: Học mà biết cho nhiều, rồi mới thấy đời người hãy
còn thiếu lắm thứ quá. Lâu nay người ta thường hiểu ìâm là: Càng học càng thấy sự
hiểu biết của mình hãy cịn non kém). Bởi Lão Tử nhận định ràng, việc tu Đạo cần
phải tĩnh mịch, đạm bạc, dẹp hết lòng ham muốn đi mới được. Nghĩa là Đạo của
Lão Tử chẳng có liên hệ gì tới trí thức và kinh nghiệm cả, mà là thứ công phu thủ
tĩnh, quả dục, đặng có thể đạt tới cảnh giới thanh tịnh, vô vi. Trở lại câu "Tri giả bất
ngôn, ngôn giả bất tri". Cần phải hiểu ý nghĩa chữ "Tri" này là thứ tri trực giác,
chẳng học mà tự mình ngộ ra chân lý của trời đất. Sở dĩ sau hai triều nhà Hán, Nho,
Đạo và Thích, tam giáo có thể kết hợp nhau được, là thơng nhau ở chỗ thanh tĩnh
quả dục.
Thứ ba, chất phác quy chân. Đây là đời sống lý tưởng của Lão Tử và tất cả
những ai, là người tu Đạo chân chính. Bối cảnh dựng lên lý tưởng này có hai mặt:
Về mặt chính trị, là thái độ ghét bỏ hành động bạo lực và đời sống xa xỉ, tâm tư dối
trá của tầng lớp quyền thế trong xã hội đương thời; về mặt cá nhân đã gọi là "Ẩn
quân tử", thì chất phác quy chân (Đời sống đơn giản bình dị, trở về với chân thật,
với thiên nhiên), mới thật là đúng với cảnh sống mà Lão Tử hằng mơ ước.
Thứ tư, công thành phất cư. Đây là nguyên tắc ở đời mà Lão Tử đem ra dạy
đời. Đời bao giờ cũng khuyến khích người ta, gắng sức làm để được hưởng thành
quả tốt đẹp, do cơng lao của mình tạo nên. Nhưng Lão Tử cho rằng, mọi thành quả
đó, rất có thể đưa lại tai họa cho con người. Lão Tử bảo: "Sinh nhi bất hữu, vi nhi
bất thị, trường nhi bất tể, thi vi nguyên đức". (Sống mà không giữ của, làm mà
chẳng ỷ công, dù lớn cũng không đứng làm chủ tể, đó mới là cái đức nguyên vẹn)
và rằng: "Cơng toại thân thối, thiên chi đạo". (Khi đã đạt tới thành quả rồi thì rút
lui ngay, là đúng với lẽ trời) và "Vi giả bại chi, chấp giả thất chi". (Kẻ ham làm sẽ
gặp thất bại, kẻ ôm giữ sẽ bị mất mát). Vê điểm này Phạm Lãi làm được, Văn
Chủng làm không được. Cả hai đều là công thần của Việt Vương Câu Tiễn, lịch sử

đã chứng minh ai họa ai phước.

Học viên: Lê Anh Ngọc

22

Lớp: 14.02.G


Tiểu luận Triết học

Giảng viên: PGS. TS. Nguyễn Thúy Vân

Thứ năm, họa phước vô môn. Tránh họa cầu phước, là lẽ thường tình của
con người, nhưng Lão Tử cho rằng, cái lẽ đó khơng chắc chắn. Bởi trong q trình
đời người, đâu là họa đâu là phước, thật khó nói lắm. Lão Tử bảo rằng, họa ư, lắm
khi phước nhờ đó mà có; phước ư, biết đâu đó là căn ngun của họa. Cho nên đã
có chuyện "Tái ơng thất mã, yên tri phi phúc".
Thứ sáu, dĩ nhu khắc cương. Lão Tử tin rằng "Nhu nhược thắng cương
cường", và giải thích rằng: "Thiên hạ mạc nhu nhược ư thủy, nhi công kiên cường
giả mạc chi năng thắng". (Dưới bầu trời này, cịn thứ gì yếu mềm hơn nước, thế mà
kẻ mạnh phá được thành trì kiên cố, cũng chẳng thể thắng nổi nước). Thuyết "Nhu
khắc cương", hẳn là một trong những đặc điểm của triết lý Lão Tử.
Tư tưởng của Lão Tử rất thích hợp với những ai, là kẻ ưa sống gần gũi thiên
nhiên,lại có phần tương thơng với đức tính khiêm nhường, dung thứ, nhẫn nại của
nhà Nho. Do đó, người theo Đạo học thích sống vào nơi thâm sơn cùng cốc, tĩnh
tịch, xa lánh bụi trần tự tay kiếm ăn, tự mình chữa bệnh, người đời gọi đó là "Tu
Tiên", mang sắc thái huyền bí như một tôn giáo, cho nên thường gọi là "Đạo giáo".
2.2.


Một số nhà tư tưởng đại diện cho triết học Phương Tây

1.2.1. Aristotle
Arixtốt (384 – 322 TCN) là một nhà tư tưởng vĩ đại nhất của triết học Hy
Lạp cổ đại. Ph.Ăngghen đã gọi Arixtốt là “ cái đầu hoàn chỉnh nhất” trong số các
nhà triết học cổ đại Hy lạp, là nhà tư tưởng đã nghiên cứu “ những hình thức cơ bản
nhất của tư duy biện chứng”. Arixtốt đã để lại cho nhân loại một di sản triết học đồ
sộ được viết bằng tiếng Hy Lạp cổ, trong đó lớn nhất là tác phẩm “ siêu hình học”.
Những tác phẩm của Arixtốt cịn lại cho đến ngày nay có thể chia làm tám nhóm:
triết học chung, logic học, vật lý học, sinh vật học, tâm lý học, đạo đức học, kinh tế
học, chính trị và nghệ thuật học.
Theo Arixtốt giới tự nhiên với những sự vật vô cùng đa dạng là đối tượng
nghiên cứu của vật lý học. Đây cũng là triết học nhưng là “triết học thứ hai”. Nó
nghiên cứu các dạng tồn tại cụ thể. Bởi vậy, để khám phá bản chất tồn tại đích thức

Học viên: Lê Anh Ngọc

23

Lớp: 14.02.G


Tiểu luận Triết học

Giảng viên: PGS. TS. Nguyễn Thúy Vân

nói chung, lí giải cụ thẻ các vấn đề về nguồn gốc, bản chất của thế giới thì cần phải
có “ triết học thứ nhất” tức là “ siêu hình học”, đây cũng là tác phẩm triết học quan
trọng nhất của Ông. Theo cách hiểu của Arixtốt “ siêu hình học” là một khoa học ít
nhiều mang tính thần thánh vì đối tượng nghiên cứu của nó là “ những cái thần

thánh” trong đó có Thượng đế. Vì lí do đó, đôi khi ông gọi triết học là thần học.
Nếu như các khoa học khác nghiên cứu các sự vật của giới tự nhiên các dạng tồn tại
cụ thể đang vận động và biến đổi khơng ngừng thì triết học thứ nhất nghiên cứu
những gì có tình chất vĩnh hằng trong thế giới hiện thực, vì thế nó là nền tảng của
mọi lĩnh vực thế giới quan khác của con người.
Theo Arixtốt tồn tại nói chung xuất phát từ 4 nguyên nhân cơ bản là: hình
dạng, vật chất, vận động và mục đích. Bất kỳ sự vật nào cũng đều phát triển dựa
trên 4 nguyên nhân đó. Tương tự như vậy, bất kỳ sự vật nào cũng có 4 nguyên
nhân trên thì mới có thể tồn tại được.
Trong số các ngun nhân trên của tồn tại thì nguyên nhân hình dạng là cơ
bản nhất. Nó là thực chất của tồn tại, là bản chất của sự vật. Bản thân nó đã bao
hàm cả nguyên nhân vận động và mục đích. Với việc thừa nhận nguyên nhân mục
đích trong sự phát triển của mọi vật, Arixtốt đã làm cho quan niệm của ông về tồn
tại trở nên thần bí.
Như vậy, coi vận động và mục đích chỉ là những khía cạnh khác nhau của
của nguyên nhân hình dạng, Arixtốt đã thừa nhận học thuyết bốn nguyên nhân chỉ
là sự phát triển, cụ thể hóa quan niệm của ơng về hình dạng và vật chất cũng như
mối quan hệ giữa chúng.
Trong hai nguyên nhân cơ bản của tồn tại – vật chất và hình dạng, thì Arixtốt
coi hình dạng là nguyên nhân quan trọng hơn, có vai trị quyết định, bởi nó là bản
chất của sự vật. Xác định bản chất của sự vật ông đưa ra hai tiêu chuẩn:
Thứ nhất, bản chất phải là cái được nhận thức trong khái niệm, tức là cái
chung. Góc độ này ơng hiểu bản chất của sự vật thuộc về lĩnh vực tinh thần.

Học viên: Lê Anh Ngọc

24

Lớp: 14.02.G



Tiểu luận Triết học

Giảng viên: PGS. TS. Nguyễn Thúy Vân

Thứ hai, mỗi sự vật đều có đặc tính riêng của mình, do vậy bản chất phải là
cái riêng. Mà theo Arixtốt cái riêng không thể biểu hiện được bằng khái niệm,
khơng đem lại cho chúng ta một tri thức đích thực nào.
Như vậy, hai tiêu chuẩn trên mâu thuẫn với nhau. Arixtốt đã ý thức được vấn
đề này và tìm cách khắc phục, xong ông đã không giải quyết được. Điều này dẫn
đến mâu thuẫn trong quan niệm về mối quan hệ giữa vật chất và hình dạng. Một
mặt, ơng khẳng định mọi sự vật trong thế giới đều là sự thống nhất giữa vật chất và
hình dạng. Ví dụ: quả cầu đồng là sự thống nhất giữa vật chất – chất đồng và hình
dạng – hình cầu, hai yếu tố cùng kết hợp và chuyển hóa tạo nên quả cầu đồng. Mặt
khác, ơng thùa nhận tồn tại “ hình dạng thuần túy” phi vật chất hoàn toàn thuộc về
lĩnh vực tư tưởng, khẳng định có “ vật chất đầu tiên” – vật chất phi hình dạng. từ
việc tách rời vật chất và hình dạng, Arix tốt đã đi đến khẳng định “ hiện thực có
trước mọi khởi nguyên cả về phạm trù, cả về bản chất, còn về thời gian thì theo một
nghĩa nhất định, là tồn tại trước, theo một nghĩa khác thì khơng...do vậy việc xác
định và nhận thức (những cái trong hiện thức) cần phải có trước nhận thức (những
cái trong khả năng). Hơn nữa ông cịn coi “ hình dạng thuần túy” là động cơ đầu
tiên của thế giới làm cho mọi vật đều có thể vận động được. Đó chình là thượng đế,
hay trí tuệ thuần túy. Đây là điểm triết học của Arixtốt hịa nhập với thần học của
ơng.
Như vậy, Arixtốt đã có sự dao động giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy
tâm trong quan niệm về vật chất và hình dạng. Điều này làm cho sự phê phán của
ông đối với lập trường duy tâm trong học thuyết về ý niệm không triệt để. Ở ông –
như Hêghen nhận xét: “ vật chất chỉ là một nền tảng khô cứng trên đó diễn ra các
biến đổi, và trong những biến đổi ấy vật chất chỉ là cái chịu đựng”. Tuy nhiên,
trong sự phê phán này Arixtốt đã có nhiều tư tưởng biện chứng sâu sắc về mối quan

hệ giữa vật chất và hình dạng, giữa khả năng và hiện thực, hiện thực và cơ chất.
 Nhận thức luận

Học viên: Lê Anh Ngọc

25

Lớp: 14.02.G


×