Mẫu M02 (Trang bìa)
ĐỒN THANH NIÊN CỘNG SẢN HỒ CHÍ MINH
BAN CHẤP HÀNH TP. HỒ CHÍ MINH
----------------------
CƠNG TRÌNH DỰ THI
GIẢI THƢỞNG SINH VIÊN NGHIÊN CỨU KHOA HỌC EURÉKA
LẦN THỨ 22 NĂM 2020
TÊN CƠNG TRÌNH: HOẠT ĐỘNG NGOẠI GIAO CỦA CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH
VỚI MỘT SỐ NƯỚC TRONG NHỮNG NĂM 1946 - 1954
LĨNH VỰC NGHIÊN CỨU: XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
CHUN NGÀNH: LỊCH SỬ
Mã số cơng trình: …………………………….
TĨM TẮT CƠNG TRÌNH
Giai đoạn 1946 - 1954 là một chặng đường đấu tranh đầy cam go, phức tạp của
ngoại giao Việt Nam mà ở đó sự tài ba của Chủ tịch Hồ Chí Minh được thể hiện rõ nét
hơn bao giờ hết bởi những chính sách kịp thời, đúng đắn phù hợp với tình hình Việt
Nam lúc bấy giờ. Qua việc nghiên cứu những hoạt động ngoại giao của Chủ tịch Hồ
Chí Minh với một số nước giai đoạn 1946 - 1954, cho chúng ta thấy được bản lĩnh của
một nhà ngoại giao lỗi lạc Hồ Chí Minh.
Trong mối quan hệ Việt - Pháp, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tận dụng mọi khả
năng hồ hỗn với Pháp dựa vào cơ sở pháp lý bằng việc ký Hiệp định Sơ bộ 6/3 và
Tạm ước 14/9, từ đó chính quyền cách mạng có thời gian để củng cố lực lượng, chuẩn
bị tốt nhất cho cuộc chiến đấu không thể tránh khỏi sắp tới. Đối với Mỹ, Chủ tịch Hồ
Chí Minh chủ trương phân hóa Mỹ với Pháp, tìm cách kết nối quan hệ và tranh thủ
trung lập Mỹ, tạo thuận lợi để hồ hỗn và kiềm chế lực lượng của Tưởng và Pháp ở
Việt Nam. Trong mối quan hệ với Liên Xơ, Trung Quốc, Người ln giữ được tình
đồn kết, hữu nghị và quan hệ đồng minh chiến lược với hai nước này. Viện trợ của
Liên Xô, Trung Quốc là nhân tố vơ cùng quan trọng góp phần đưa đến thắng lợi cho
cuộc kháng chiến của dân tộc.
Hoạt động ngoại giao của Chủ tịch Hồ Chí Minh với một số nước trong giai
đoạn 1946 - 1954 đã phát huy tác dụng vơ cùng to lớn đối với tình hình cách mạng
Việt Nam lúc bấy giờ. Thứ nhất, bảo vệ và củng cố chính quyền cách mạng, tránh một
lúc phải đối phó với nhiều kẻ thù. Thứ hai, phá vịng vây cô lập của kẻ thù và thiết lập
quan hệ với các nước xã hội chủ nghĩa. Thứ ba, đẩy nhanh tổ chức hội nghị quốc tế ở
Đông Dương về chấm dứt chiến tranh.
Thông qua các hoạt động ngoại giao của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong giai đoạn
1946 - 1954, có thể thấy Người ln đề cao đường lối ngoại giao độc lập, tự chủ, luôn
đặt quyền lợi quốc gia, dân tộc lên trên hết. Nghệ thuật ngoại giao của Chủ tịch Hồ
Chí Minh thể hiện rất rõ qua việc thực thi chính sách ngoại giao linh hoạt, mềm dẻo
trong quan hệ với các nước lớn, ngoại giao “Dĩ bất biến, ứng vạn biến”, ngoại giao
“Phải có thực lực”.
Trong bối cảnh phức tạp của quan hệ quốc tế hiện nay, ngoại giao cần phải biết
vận dụng sáng tạo tư tưởng, nghệ thuật ngoại giao“ngũ tri” của Chủ tịch Hồ Chí Minh:
biết mình, biết người, biết thời thế, biết dừng và biết biến để phục vụ sự nghiệp xây
dựng, phát triển và bảo vệ đất nước. Đồng thời, còn phải biết vận dụng, phát triển tư
tưởng, nghệ thuật ngoại giao Hồ Chí Minh trong xây dựng chiến lược ngoại giao bởi
việc xây dựng chiến lược lược ngoại giao là cực kỳ quan trong trọng việc định hướng
giải quyết các vấn đề quốc tế.
MỤC LỤC
ĐẶT VẤN ĐỀ................................................................................................................ 1
TỔNG QUAN TÀI LIỆU ............................................................................................. 3
MỤC TIÊU - PHƢƠNG PHÁP ................................................................................. 12
CHƢƠNG 1. TÌNH HÌNH VIỆT NAM TRONG NHỮNG NĂM 1946 ĐẾN NĂM
1954 .............................................................................................................................. 14
1.1. Bối cảnh quốc tế trong những năm đầu sau chiến tranh thế giới thứ hai ...........14
1.2. Việt Nam sau ngày giành chính quyền đến trước năm 1950 ..............................16
1.2.1. Những khó khăn về kinh tế, chính trị, xã hội ...............................................16
1.2.2. Một số thành tựu đạt được ...........................................................................19
1.3. Tình hình Việt Nam những năm 1950 – 1954 ....................................................25
1.3.1. Đất nước thoát khỏi bao vây cô lập .............................................................25
1.3.2. Cuộc kháng chiến chống Pháp bước vào giai đoạn kết thúc .......................29
Tiểu kết chương 1 ......................................................................................................33
CHƢƠNG 2. HOẠT ĐỘNG NGOẠI GIAO TIÊU BIỂU CỦA CHỦ TỊCH HỒ
CHÍ MINH VỚI MỘT SỐ NƢỚC TRONG NHỮNG NĂM 1946 – 1954 ............ 36
2.1. Một số khái niệm ................................................................................................36
2.2. Chủ tịch Hồ Chí Minh - Nhân tố đóng vai trị quan trọng trong việc hoạch định
đường lối ngoại giao giai đoạn 1946 - 1954 ..............................................................40
2.3. Mục đích của hoạt động ngoại giao với một số nước giai đoạn 1946 - 1954.....46
2.4. Hoạt động ngoại giao của Chủ tịch Hồ Chí Minh với một số nước ...................57
2.4.1. Quan hệ ngoại giao Việt - Pháp ...................................................................57
2.4.2. Tìm kiếm và kết nối ngoại giao với Mỹ .......................................................71
2.4.3. Thiết lập và đẩy mạnh quan hệ ngoại giao với Trung Quốc ........................75
2.4.4. Thiết lập và đẩy mạnh quan hệ ngoại giao với Liên Xô ..............................79
2.5. Kết quả trong hoạt động ngoại giao ...................................................................85
Tiểu kết chương 2 ......................................................................................................91
CHƢƠNG 3. MỘT SỐ NHẬN XÉT VỀ HOẠT ĐỘNG NGOẠI GIAO CỦA CHỦ
TỊCH HỒ CHÍ MINH GIAI ĐOẠN 1946 - 1954 .................................................... 94
3.1. Nhận xét về vai trò của Chủ tịch Hồ Chí Minh ..................................................94
3.1.1. Đóng góp hoạt động ngoại giao của Chủ tịch Hồ Chí Minh với đất nước
giai đoạn 1946 – 1954 ............................................................................................94
a. Đóng góp hoạt động ngoại giao của Chủ tịch Hồ Chí Minh đối với cuộc
kháng chiến chống Pháp ......................................................................................95
b. Đóng góp của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong phong trào giải phóng dân tộc ...97
c. Đóng góp của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong việc đặt nền móng cho quan hệ
giữa Việt Nam với các cường quốc ...................................................................101
3.1.2. Nghệ thuật ngoại giao của Chủ tịch Hồ Chí Minh.....................................104
a. Đề cao đường lối ngoại giao độc lập, tự chủ, luôn đặt quyền lợi quốc gia, dân
tộc lên trên hết ...................................................................................................105
b. Thực thi chính sách ngoại giao linh hoạt, mềm dẻo trong quan hệ với các
nước ..................................................................................................................108
c. Thực hiện ngoại giao “Dĩ bất biến, ứng vạn biến” ........................................112
d. Thực hiện ngoại giao “Phải có thực lực” ......................................................115
3.2. Vận dụng sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh trong giai đoạn hiện nay ...............118
3.2.1. Vận dụng sáng tạo nghệ thuật ngoại giao “ngũ tri” ...................................119
3.2.2. Vận dụng, phát triển tư tưởng, nghệ thuật ngoại giao của Chủ tịch Hồ Chí
Minh trong xây dựng chiến lược ngoại giao ........................................................124
Tiểu kết chương 3 ....................................................................................................127
KẾT LUẬN - ĐỀ NGHỊ ........................................................................................... 131
TÀI LIỆU THAM KHẢO........................................................................................ 139
PHỤ LỤC .................................................................................................................. 146
1
ĐẶT VẤN ĐỀ
Cách mạng tháng Tám thành công, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa non trẻ
vừa ra đời đã phải đối diện với nhiều gian nan, khó khăn, rơi vào tình thế “ngàn cân
treo sợi tóc”. Hoạt động ngoại giao của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong giai đoạn này đã
góp phần quan trọng trong cuộc đấu tranh bảo vệ và xây dựng chế độ dân chủ nhân
dân, từng bước vượt qua giai đoạn đầy khó khăn, thử thách.
Khi cuộc kháng chiến toàn quốc bùng nổ, nước Việt Nam lại bắt đầu những khó
khăn mới khi bị bao vây, cơ lập tứ phía. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã kiên trì củng cố
khối đồn kết với nhân dân Lào và nhân dân Campuchia đang kề vai sát cánh trên
chiến trường Đông Dương chung một mục tiêu, chung một kẻ thù. Người cũng đồng
thời cố gắng mở cửa ra thế giới bên ngoài, để tranh thủ sự ủng hộ của các nước Thái
Lan, Myanmar, Ấn Độ, Indonesia và các lực lượng tiến bộ trên thế giới. Người cũng ra
sức thiết lập quan hệ ngoại giao với các nước xã hội chủ nghĩa, đặc biệt là hai nước
đứng đầu hệ thống xã hội chủ nghĩa là Trung Quốc và Liên Xô để tranh thủ sự ủng hộ
và viện trợ của hai nước này, giúp Việt Nam thoát khỏi thế bị bao vây, cô lập và tiến
thêm một bước mới trong cuộc kháng chiến chống Pháp.
Giai đoạn 1946 - 1954 là một chặng đường phát triển của đấu tranh ngoại giao
Việt Nam, được mở đầu bằng việc kí Hiệp định Sơ bộ và kết thúc bằng việc kí Hiệp
định Giơ-ne-vơ. Đó là chặng đường đấu tranh đầy gay go, phức tạp, đánh dấu thắng lợi
từng bước của mặt trận ngoại giao. Mà ở đó sự tài ba của chủ tịch Hồ Chí Minh rõ nét
hơn bao giờ hết bởi những chính sách kịp thời, đúng đắn phù hợp với tình hình Việt
Nam lúc bấy giờ.
Những hoạt động ngoại giao tích cực của chủ tịch Hồ Chí Minh trong giai đoạn
1946 – 1954 đã góp phần vào cuộc kháng chiến của nhân dân Việt Nam. Kết quả là
Chiến thắng Điện Biên Phủ năm 1954 đã buộc Pháp phải ngồi vào bàn đàm phán với
Việt Nam. Chiến thắng lẫy lừng Điên Biên Phủ và Hiệp định Giơ-ne-vơ năm 1954 đã
công nhận độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của nước ta, giải phóng
miền Bắc, đưa miền Bắc tiến lên chủ nghĩa xã hội và làm chỗ dựa cho cuộc đấu tranh
để giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.
Nghiên cứu hoạt động ngoại giao của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong giai đoạn
1946 – 1954 để làm rõ đường lối lãnh đạo đúng đắn, sáng tạo của Đảng, Chính phủ mà
2
người chỉ đạo là Chủ tịch Hồ Chí Minh trong kháng chiến chống Pháp là điều cần
thiết. Thông qua việc nghiên cứu hoạt động ngoại giao của Chủ tịch Hồ Chí Minh,
chúng ta có thể rút ra những bài học kinh nghiệm cho đấu tranh ngoại giao trong sự
nghiệp cách mạng hiện nay.
Xuất phát từ những lý do trên, chúng tôi chọn đề tài “HOẠT ĐỘNG NGOẠI
GIAO CỦA CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH VỚI MỘT SỐ NƯỚC TRONG NHỮNG
NĂM 1946 – 1954” làm đề tài nghiên cứu khoa học của mình với mong muốn làm rõ
những hoạt động ngoại giao khéo léo và tinh tế của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong giai
đoạn này để từng bước đưa Việt Nam thốt khỏi thế bị động, bao vây, cơ lập và từng
bước giành thắng lợi trên chiến trường quân sự trong cuộc kháng chiến chống thực dân
Pháp đầy khốc liệt, cam go.
3
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
Nguồn tài liệu nghiên cứu
Với mong muốn đề tài nghiên cứu có ý nghĩa khoa học và giá trị thực tiễn cao,
nguồn tài liệu được tác giả chủ yếu sử dụng trong đề tài gồm những nguồn tài liệu
đáng tin cậy sau đây:
- Tài liệu, các văn kiện viết về chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước Việt
Nam về ngoại giao trong giai đoạn 1946 – 1954.
- Tài liệu chuyên khảo gồm: Các tác phẩm, công trình nghiên cứu, bài viết của
các tác giả về ngoại giao Việt Nam nói chung và Chủ tịch Hồ Chí Minh nói riêng.
- Tài liệu tạp chí, các trang mạng Internet viết về ngoại giao Việt Nam và hoạt
động ngoại giao của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong giai đoạn 1946 - 1954.
- Những tài liệu, cơng trình nghiên cứu về nghệ thuật ngoại giao của của Chủ
tịch Hồ Chí Minh.
Có thể kể một số tác phẩm tiêu biểu sau:
1. Tác phẩm viết về bối cảnh thế giới và Việt Nam, những khó khăn của
Việt Nam sau Cách mạng tháng Tám 1945
a. Lê Mậu Hãn (Chủ biên). (2005). Đại cương lịch sử Việt Nam, tập III. Hà
Nội: Nxb giáo dục Việt Nam.
Sách đã khắc họa lịch sử Việt Nam trong suốt hơn 5 thập niên từ 1945 đến 2006
bao gồm các mặt về kinh tế, quân sự, chính trị, văn hóa, xã hội. Sách bao gồm 3 nội
dung chính. Nội dung phần một thảo luận về Việt Nam trong thời kì kháng chiến
chống thực dân Pháp xâm lược và xây dựng nền dân chủ cộng hòa (1945-1954) bao
gồm: Xây dựng và bảo vệ chế độ dân chủ cộng hòa (1945-1946); Sự bùng nổ và tiến
triển của cuộc kháng chiến trong toàn quốc (1946-1950); Cuộc kháng chiến phát triển
mạnh mẽ đến kết thúc thắng lợi (1951-1954).
Nội dung phần hai thảo luận về Việt Nam trong thời kì xây dựng miền Bắc và
đấu tranh để thống nhất đất nước (1954 - 1975) bao gồm: Xây dựng miền Bắc và đấu
tranh cách mạng chống Mỹ - Diệm ở miền Nam (1954-1960); Xây dựng miền Bắc
theo con đường xã hội chủ nghĩa và chiến đấu chống “chiến tranh đặc biệt” của Mỹ ở
4
miền Nam (1961 - 1965); Chiến đấu chống “chiến tranh cục bộ” và chiến tranh phá
hoại lần thứ nhất của Mĩ, tiếp tục xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc (1965 1968); Chiến đấu chống chiến lược “Việt Nam hoá” chiến tranh và chiến tranh phá
hoại lần thứ hai của Mỹ, khôi phục và phát triển kinh tế ở miền Bắc (1969 - 1973);
Khôi phục và phát triển kinh tế miền Bắc, cả nước dồn sức giải phóng hoàn toàn miền
Nam thống nhất đất nước (1973 - 1975).
Nội dung phần ba thảo luận về Việt Nam xây dựng đất nước theo định hướng
xã hội chủ nghĩa (1975 - 2006) bao gồm: Việt Nam xây dựng lại đất nước (1975 1986) và đất nước trên con đường đổi mới (1986 - 2006).
Thông qua những nội dung trên, người đọc hiểu thêm về lịch sử Việt Nam từ
1945 đến nay là lịch sử của 30 năm chiến tranh cách mạng chống lại sự xâm lược của
thực dân Pháp (1945-1954) và đế quốc Mĩ (1954-1975) nhằm hồn thành sự nghiệp
giải phóng dân tộc, thống nhất Tổ quốc và và tiến hành xây dựng đất nước theo con
đường chế độ xã hội chủ nghĩa và bảo vệ tổ quốc từ năm 1975 đến nay.
b. Nguyễn Anh Thái (Chủ biên). (2006). Lịch sử thế giới hiện đại. Hà Nội:
Nxb Giáo dục Việt Nam.
Cách mạng xã hội chủ nghĩa tháng Mười Nga năm 1917 mở ra một thời kì mới
trong lịch sử thế giới - thời kì hiện đại. Từ Cách mạng tháng Mười Nga đến nay, lịch
sử thế giới dã diễn ra rất nhiều sự hiện trọng đại, chồng chéo và phức tạp. Trong khuôn
khổ quyển sách, các tác giả tập trung vào những nội dung cơ bản sau đây: Thắng lợi
của cách mạng tháng Mười Nga dẫn đến sự ra đời của Nhà nước xã hội chủ nghĩa đầu
tiên trên thế giới - Liên Xô; Sự phát triển và thắng lợi của cách mạng giải phóng dân
tộc trong thời kỳ hiện đại; Sự phát triển của chủ nghĩa tư bản ở thời kỳ hiện đại;
Những nét lớn về phong trào cộng sản và công nhân quốc tế thời kỳ hiện đại; Quan hệ
quốc tế thời kỳ hiện đại; Cuộc cách mạng khoa học kĩ thuật sau chiến tranh thế giới
thứ hai. Cuốn sách được biên soạn dưới hình thức thơng sử, các chương trong sách có
mối quan hệ chặt chẽ theo trình tự thời gian qua quá trình phát triển của các giai đoạn.
Lịch sử thế giới hiện đại, đặc biệt là giai đoạn từ sau Chiến tranh thế giới thứ hai đến
nay, hết sức phúc tạp; có nhiều sự hiện vẫn còn đang tiếp diễn và những hệ quả, ý
nghĩa của nó vẫn chưa thể đốn định rõ ràng, chính xác, chưa kể cách nhận định, đánh
giá lịch sử cũng rất khác nhau, thậm chí trái ngược nhau. Tuy nhiên, dù có những bước
5
thăng trầm khác nhau, song xu hướng phát triển của lịch sử thế giới hiện đại là không
ngừng tiến lên theo quy luật tiến hoá của nhân loại - quy luật tiến lên chủ nghĩa xã hội
trên phạm vi toàn thế giới.
c. Nguyễn Quang Ngọc (Chủ biên). (2007). Tiến trình lịch sử Việt Nam. Hà
Nội: Nxb giáo dục Việt Nam.
Sách cung cấp những kiến thức cơ bản, hệ thống về quá trình phát triển liên tục
của lịch sử Việt Nam từ khi có con người xuất hiện trên đất nước ta cho đến ngày nay.
Đồng thời phản ánh những thành tựu mới của khoa học lịch sử trong nước và trên thế
giới cũng như những nghiên cứu chuyên sâu của mỗi tác giả và được trình bày theo
quan điểm chính thống, trên tinh thần kết hợp chặt chẽ, hài hòa truyền thống và hiện
đại. Tuy nhiên, trong khuôn khổ của một cuốn giáo trình giản yếu, các tác giả chỉ cung
cấp một bức tranh tổng quan về diễn tiến lịch sử với những đặc điểm chủ yếu, những
quy luật phát triển cơ bản của lịch sử đất nước mà chưa thể đi sát, trình bày, lý giải
một cách đầy đủ, cặn kẽ các vấn đề, các sự kiện. Sách được chia làm hai phần: Lịch sử
Việt Nam cổ - trung đại và Lịch sử Việt Nam cận - hiện đại. Phần thứ nhất được giới
thiệu trong 6 chương bám sát tiến trình phát triển của các hình thái kinh tế xã hội từ
công xã nguyên thủy qua phương thức sản xuất châu Á, chế độ phong kiến đến trước
khi nước ta bị thực dân Pháp xâm lược. Phần thứ hai trình bày về thời kì từ khi thực
dân Pháp xâm lược Việt Nam (năm 1858) cho đến nay, gồm 7 chương, trong đó 4
chương về giai đoạn cận đại (1858-1945) và 3 chương về giai đoạn hiện đại (1945 đến
nay).
2. Tác phẩm viết về hoạt động ngoại giao của Chủ tịch Hồ Chí Minh
a. E. Cơ-bê-lép. (1985). Đồng chí Hồ Chí Minh. Nguyễn Minh Châu và Mai
Lý Quảng dịch. Hà Nội: Nxb Thanh niên.
Tác phẩm nói về đồng chí Hồ Chí Minh - người con ưu tú của dân tộc Việt
Nam, người sáng lập ra Đảng Cộng sản Việt Nam (Đảng Cộng sản Đông Dương trước
đây). Người đã hiến dâng cả cuộc đời tuyệt đẹp, toàn bộ tài năng cho sự nghiệp đấu
tranh giải phóng dân tộc và xã hội của các dân tộc Đơng Dương, cho sự tồn thắng của
chủ nghĩa xã hội và hồ bình trên tồn thế giới. Dưới sự lãnh đạo của Người đã hoàn
thành thắng lợi cuộc Cách mạng tháng Tám và lập nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng
hòa - nhà nước xã hội chủ nghĩa đầu tiên ở Đông Nam Á. Được sự cổ vũ của đồng chí
6
Hổ Chí Minh, nhân dân Việt Nam chống trả quyết liệt sự xâm lược của đế quốc Mỹ
chống Việt Nam, đã tiến hành cuộc đấu tranh mạnh mẽ giải phóng miền Nam. Cuộc
đấu tranh ấy đã kết thúc thắng lợi vào tháng Tư năm 1975. Đồng chí Hồ Chí Minh vẫn
sống mãi trong tâm trí của những người cộng sản, toàn thể những người tiến bộ trên
thế giới với tư cách là một nhà hoạt động lỗi lạc trong phong trào cộng sản quốc tế và
phong trào giải phóng dân tộc, người chiến sĩ đấu tranh không mệt mỏi cho sự nghiệp
của chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản, vị lãnh tụ vĩ đại của nhân dân Việt Nam.
Tên tuổi và hình ảnh của đồng chí Hồ Chí Minh giờ đây vẫn sống trong sự nghiệp và
thành tựu của các dân tộc Việt Nam, Lào và Campuchia anh em đang vững bước tiến
lên con đường xây dựng những cơ sở của chủ nghĩa xã hội.
b. Lê Kim Hải. (2005). Hồ Chí Minh với quan hệ ngoại giao Việt - Pháp thời
kỳ 1945-1946. Hà Nội: Nxb Đại học quốc gia Hà Nội.
Tác phẩm giống như bức tranh tái hiện chân thực một thời kỳ sóng gió của cách
mạng Việt Nam, đặc biệt là trong cuộc đấu tranh trên mặt trận ngoại giao giữa nhà
nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa với thực dân Pháp. Tuy chỉ giới hạn trong phạm vi
quan hệ ngoại giao với Pháp trong một giai đoạn ngắn, nhưng tác giả cũng đã lột tả
xuất sắc sự tài giỏi, uyên bát cũng như tầm nhìn sáng suốt, thấu hiểu bối cảnh thời đại
của chủ tịch Hồ Chí Minh với vai trị tiên phong, chủ trương hoạch định đối sách ngoại
giao, cũng như sách lược đấu tranh chống qn xâm lược. Bên cạnh đó, tác giả cịn
khéo léo lồng ghép vào trong những sự kiện lịch sử tiêu biểu có tính xác thực cao, từ
đó nêu bật được tính đúng đắn và hiệu quả của nghệ thuật ngoại giao Hồ Chí Minh:
khi thì ngoại giao mềm dẻo, lợi dụng mâu thuẫn trong nội bộ kẻ địch để tạo cơ hội cho
ta, khi thì đề cao “dĩ bất biến, ứng vạn biến”. Đồng thời tác giả còn chỉ ra cho chúng ta
mối quan hệ giữa các lĩnh vực chính trị, quân sự, kinh tế, ngoại giao,… thể hiện rõ
trong các cuộc chiến tranh. Với giá trị hiện thực sâu sắc và có tính khái qt cao, tác
phẩm là một nguồn tài liệu tham khảo có giá trị, phục vụ cho việc nghiên cứu về quan
hệ ngoại giao Việt - Pháp trong thời chiến.
c. Lƣu Văn Lợi. (1996). 50 năm ngoại giao Việt Nam từ năm 1945 đến năm
1975, tập 1. Hà Nội: Nxb Công an nhân dân.
Cuốn sách là niềm ấp ủ từ lâu của tác giả ngay từ khi ơng cịn là Trợ lý Bộ
trưởng Bộ ngoại giao. Đây không phải là những trang lịch sử đơn thuần vì tác giả, do
7
đã từng là nhân chứng lịch sử, đã từng giữ những trọng trách trong Bộ ngoại giao nên
đã chọn lọc đúng những thời điểm quan trọng nhất trong 30 năm đấu tranh ngoại giao
của dân tộc. Qua cuốn sách, tác giả đã phân tích một cách tồn diện và có chiều sâu
ngoại giao truyền thống Việt Nam từ thời điểm nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra
đời năm 1945 cho đến khi giải phóng miền nam - thống nhất đất nước năm 1975. Rồi
đúc kết lại bằng sự nhìn nhận thấu đáo lịch sử dân tộc qua 30 năm đấu tranh ngoại
giao. Cuốn sách chỉ lướt qua phần ngoại giao của cha ông ta nhưng cũng đã rút ra
được những bài học quý báu của thời kỳ lịch sử ấy như “kiên quyết giữ gìn độc lập”,
“giữ nguyên tắc nhưng có sách lược thích hợp” và “vừa đánh vừa đàm”. Bên cạnh đó
tác giả cũng đã quy tụ hai nhiệm vụ cơ bản trong suốt 30 năm từ 1945 đến năm 1975
là kháng chiến và kiến quốc, trong đó vấn đề độc lập là yêu cầu đầu tiên và quan trọng
nhất.
d. Vũ Khoan. (2010). Chủ tịch Hồ Chí Minh với cơng tác ngoại giao. Hà
Nội: Nxb Chính trị quốc gia.
Trong tác phẩm này tác giả đã ghi chép lại những hoạt động ngoại giao của Chủ
tịch Hồ Chí Minh trong giai đoạn 1945 - 1969. Đây là một công trình nghiên cứu đã
tổng kết về lý luận và thực tiễn những bài học kinh nghiệm quý báu của Chủ tịch Hồ
Chí Minh trong lĩnh vực ngoại giao. Qua hoạt động ngoại giao của Chủ tịch Hồ Chí
Minh, chúng ta không chỉ khâm phục và ngưỡng mộ sự tài ba, xuất chúng của nhà
ngoại giao kiệt xuất đã có những chỉ đạo đúng đắn, kịp thời trong những giờ phút hiểm
nghèo nhất của đất nước, mà Đảng cũng đã rút ra được những kinh nghiệm, bài học
cần thiết để vận dụng trong giai đoạn mới nhằm phục vụ đắc lực cho sự nghiệp xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc.
e. Nguyễn Dy Niên. (2002). Tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh. Hà Nội: Nxb
Chính trị quốc gia.
Đây là một cơng trình nghiên cứu công phu, quan trọng về tư tưởng ngoại giao
Hồ Chí Minh được viết bởi Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Nguyễn Dy Niên nhằm góp phần
hệ thống hóa những nội dung chủ yếu của tư tưởng, phương pháp, phong cách và nghệ
thuật ngoại giao của Hồ Chí Minh. Tác giả đã phân tích một cách tồn diện các khía
cạnh nguồn gốc và quá trình hình thành nên tư tưởng Hồ Chí Minh, phương pháp,
phong cách và nghệ thuật ngoại giao của Người. Từ những khía cạnh khái qt đó, tác
8
giả đã nêu lên một số suy nghĩ và quan điểm, ý kiến của bản thân về việc vận dụng tư
tưởng, phương pháp, phong cách và nghệ thuật ngoại giao của Hồ Chủ tịch nhằm phục
vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa và chủ động hội nhập quốc tế của nước ta
trong giai đoạn mới và sự cần thiết phải tiến tới xây dựng một hệ thống lý luận ngoại
giao và trường phái ngoại giao Việt Nam đáp ứng yêu cầu và nhiệm vụ đối ngoại ngày
càng cao của đất nước.
f. Nguyễn Đình Bin (Chủ biên). (2005). Ngoại giao Việt Nam 1945 - 2000.
Hà Nội: Nxb Chính trị quốc gia.
Tác phẩm là một cơng trình nghiên cứu khoa học công phu của tập thể tác giả
các nhà ngoại giao, các chuyên gia hàng đầu về quan hệ quốc tế ở nước ta. Với nguồn
tài liệu phong phú và đáng tin cậy, với các luận chứng chặt chẽ và súc tích, cuốn sách
phác hoạ những nét chính của hoạt động ngoại giao Việt Nam trong năm mươi lăm
năm, từ 1945 đến 2000, một thời kỳ đầy những biến động và biết bao đổi thay ở Việt
Nam cũng như trên thế giới. Trên nền của đời sống chính trị, kinh tế thế giới và quan
hệ quốc tế trong thời kỳ này, đồng thời gắn liền với quá trình vận động của cách mạng
nước ta, cuốn sách trình bày một cách hệ thống và tổng hợp các sự kiện ngoại giao của
Việt Nam. Phần quan trọng của cuốn sách tập trung đề cập các đặc điểm, tính chất của
nền ngoại giao Việt Nam hiện đại, những thành tựu chủ yếu trong hoạt động đối ngoại
của Đảng, Nhà nước và ngoại giao nhân dân, đồng thời rút ra những bài học kinh
nghiệm trong hoạt động ngoại giao, những thành cơng và có cả một số mặt tồn tại, vừa
mang tính lý luận lại vừa có ý nghĩa thực tiễn sâu sắc. Cuốn sách được ra đời thể hiện
những cố gắng của các tác giả mong muốn trình bày các sự kiện một cách chính xác ,
dựa vào tư liệu lịch sử gốc của nước ta và tham khảo tài liệu nước ngoài, giúp bạn đọc
nghiên cứu, tìm hiểu nền ngoại giao Việt Nam hiện đại, đường lối đối ngoại độc lập, tự
chủ, sáng tạo của Đảng và Nhà nước trong từng giai đoạn lịch sử cách mạng Việt Nam
3. Tác phẩm viết về vai trị của Chủ tịch Hồ Chí Minh và bài học kinh
nghiệm trong xây dựng đất nƣớc hiện nay
a. Phan Ngọc Liên. (2014). Hồ Chí Minh từ nhận thức lịch sử đến hành
động cách mạng. Hà Nội: Nxb Chính trị quốc gia.
Tác phẩm nghiên cứu vấn đề chung, cơ bản về “Hồ Chí Minh với tư cách một
nhà yêu nước, một chiến sĩ cách mạng”, đến đi sâu vào việc phân tích, đánh giá để làm
9
rõ những đóng góp cụ thể và đích thực của Hồ Chí Minh cho nền sử học mácxít lêninnít ở Việt Nam, cả về hai mặt nội dung lịch sử và phương pháp nghiên cứu. Nhiều
vấn đề quan trọng đã được giới thiệu qua các chương sách. Đó là Hồ Chí Minh trong
tiến trình lịch sử, một mặt, nêu rõ sự xuất hiện của Người là kết quả tất yếu của sự phát
triển lịch sử dân tộc và thời đại; mặt khác, cũng chứng minh nhận thức đúng đắn của
Người về lịch sử, để trên cơ sở đó có sự đóng góp tồn diện và hiệu quả cho sự phát
triển lịch sử dân tộc và thể giới. Tiếp theo đó, Hồ Chí Minh với sự nhận thức lịch sử
làm rõ nhận thức lịch sử thông qua hoạt động thực tiễn cách mạng và đã được đúc kết
trong di sản sử học Hồ Chí Minh. Cuối cùng, đây cũng là phần quan trọng nhất, phần
chủ yếu của cơng trình, là trực tiếp đi vào Tư tưởng Hồ Chí Minh về lịch sử, từ sự hình
thành phương pháp luận Hồ Chí Minh đến một số nguyên tắc phương pháp luận Hồ
Chí Minh về nhận thức lịch sử.
b. Trần Minh Trƣởng. (2017). Vận dụng sáng tạo và phát triển tư tưởng,
nghệ thuật ngoại giao Hồ Chí Minh trong tình hình mới. Hà Nội: Nxb Chính trị
Quốc gia Sự thật.
Cùng với chính trị và quân sự, ngoại giao cũng chính là một mặt trận quan
trọng, khơng chỉ có ý nghĩa to lớn trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng nhân dân, mà
cịn là nền tảng của quá trình hoạch định chủ trương, chiến lược xây dựng, phát triển
đất nước trong thời đại mới. Cuốn sách này là một nguồn tư liệu quý giá tổng hợp một
cách có hệ thống những cơ sở hình thành tư tưởng, nghệ thuật ngoại giao Hồ Chí
Minh; những nội dung cơ bản và sự ứng dụng, vận hành cũng như phát triển sáng tạo
những tư tưởng của Người của Đảng Cộng sản Việt Nam; từ đó đề xuất các giải pháp
nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động ngoại giao trong thời đại mới theo tư tưởng, nghệ
thuật ngoại giao của Hồ Chủ tịch. Tác giả Trần Minh Trưởng đã đi sâu phân tích và
nghiên cứu một cách triệt để từng góc cạnh của vấn đề, chỉ rõ những yếu tố khách
quan và chủ quan trong việc hình thành và phát triển nghệ thuật ngoại giao Hồ Chí
Minh trong thời chiến và vận dụng tới hiện tại. Bằng hệ thống những quan điểm lý
luận, dẫn chứng cụ thể, lập luận rõ ràng, có chiều sâu, thơng qua việc tham khảo và
phân tích nhiều nguồn sử liệu, cuốn sách này là một tư liệu lịch sử đáng tin cậy có giá
trị dẫn đường cho q trình nghiên cứu cơng cuộc xây dựng đất nước, hoạch định sách
lược của nước ta trong thời đại hội nhập quốc tế.
10
Những vấn đề đã đƣợc đề cập
Các tác phẩm, những cơng trình nghiên cứu mà tác giả đã phân tích nêu trên và
những nguồn tài liệu tham khảo mà tác giả sử dụng trong cơng trình nghiên cứu đều
viết về những vấn đề nhất định trong hoạt động đối ngoại của Chủ tịch Hồ Chí Minh
trong thời gian Người lãnh đạo cách mạng, đề cập nhiều khía cạnh khác nhau liên
quan trực tiếp tới những nội dung mà tác giả dự định nghiên cứu như:
- Hoạt động ngoại giao của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
- Q trình hoạt động cách mạng của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
- Những đóng góp của Chủ tịch Hồ Chí Minh cho phong trào giải phóng dân tộc.
- Nghệ thuật ngoại giao của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Những vấn đề mà cơng trình sẽ tiếp tục nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu các cơng trình đi trước và tìm hiểu những khoảng trống
của các tác phẩm khi nghiên cứu về Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhóm nghiên cứu tiếp tục
bổ sung những vấn đề mà các tác giả khác chưa đề cập tới. Chúng tôi sẽ làm rõ những
vấn đề sau đây:
- Nghiên cứu về hoạt động ngoại giao tiêu biểu của Chủ tịch Hồ Chí Minh với
các nước lớn: Liên Xơ, Trung Quốc, Mỹ, Pháp.
- Nghiên cứu quá trình vận động ngoại giao của Chủ tịch Hồ Chí Minh giai
đoạn 1946 - 1954.
- Nghiên cứu phương pháp và nghệ thuật ngoại giao của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
- Nghiên cứu về vận dụng ngoại giao của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong giai đoạn
hiện nay.
Những đóng góp của cơng trình nghiên cứu
Cơng trình nghiên cứu khoa học “Hoạt động ngoại giao của Chủ tịch Hồ Chí
Minh với một số nước trong những năm 1946 – 1954” mang lại những đóng góp quan
trọng như sau:
11
- Phục dựng lại quá trình hoạt động ngoại giao của Chủ tịch Hồ Chí Minh từ
năm 1946 – 1954 nhằm nhấn mạnh vai trị của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong hoạt động
đối ngoại.
- Góp phần hệ thống được phương pháp, phong cách và nghệ thuật ngoại giao
Hồ Chí Minh.
- Là nguồn tài liệu phục vụ cho nghiên cứu, học tập chuyên ngành Lịch sử Việt
Nam, cũng như ngành Quốc tế học, Quan hệ quốc tế,…
12
MỤC TIÊU - PHƢƠNG PHÁP
Đối tƣợng nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu những hoạt động ngoại tiêu biểu của Chủ tịch Hồ Chí Minh
trong giai đoạn 1946 – 1954, nhằm giúp người đọc có cái nhìn tồn diện về ngoại giao
Việt Nam dưới sự chỉ đạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong giai đoạn này. Đánh giá
được vai trò, nghệ thuật ngoại giao của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong kháng chiến
chống thực dân Pháp.
Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nội dung:
- Nghiên cứu về những hoạt động ngoại giao của Chủ tịch Hồ Chí Minh với một số
nước từ năm 1946 – 1954.
- Nghiên cứu về phương pháp, nghệ thuật ngoại giao của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
- Nghiên cứu về vận dụng, phát triển tư tưởng về ngoại giao của Người trong công
cuộc đổi mới hiện nay của đất nước.
Phạm vi thời gian: Đề tài tập trung nghiên cứu hoạt động ngoại giao của Chủ tịch
Hồ Chí Minh sau ngày nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời cho đến khi kí Hiệp
định Giơ-ne-vơ. Cụ thể từ năm 1946 đến năm 1954.
Mục tiêu của cơng trình
- Làm rõ tình hình Việt Nam và bối cảnh quốc tế những năm 1946 – 1954.
- Làm rõ hoạt động ngoại giao tiêu biểu của Chủ tịch Hồ Chí Minh từ năm 1946 –
1954:
+ Hoạt động ngoại giao để góp phần bảo vệ và củng cố chính quyền cách mạng;
+ Hoạt động ngoại giao với một số nước nhằm tìm kiếm giải pháp hồ bình cho
Việt Nam;
+ Hoạt động ngoại giao để phá vịng vây cơ lập của kẻ thù, thiết lập quan hệ ngoại
giao với các nước xã hội chủ nghĩa;
+ Hoạt động ngoại giao dẫn đến hội nghị quốc tế về Đông Dương.
13
- Qua đó làm rõ phương pháp, nghệ thuật ngoại giao của Chủ tịch Hồ Chí Minh
những năm 1946 – 1954.
- Góp phần làm rõ q trình vận dụng tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh trong tình
hình hiện nay.
Phƣơng pháp nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu chủ yếu được sử dụng trong đề tài này là phương pháp
lịch sử để dựng lại các sự kiện lịch sử và phương pháp logic để rút ra những đánh giá
nhận định. Đồng thời kết hợp với các phương pháp phân tích, tổng hợp, so sánh…
Kết cấu của đề tài
Ngoài phần đặt vấn đề, tổng quan tài liệu, mục tiêu - phương pháp, kết luận - đề
nghị, tài liệu tham khảo và phụ lục, nội dung chính của cơng trình nghiên cứu được
chia làm 3 chương:
Chương 1: Tình hình Việt Nam trong những năm 1946 đến năm 1954
Chương 2: Hoạt động ngoại giao tiêu biểu của Chủ tịch Hồ Chí Minh với một số nước
những năm 1946 - 1954
Chương 3: Một số nhận xét về hoạt động ngoại giao của Chủ tịch Hồ Chí Minh giai
đoạn 1946 - 1954
14
CHƢƠNG 1
TÌNH HÌNH VIỆT NAM TRONG NHỮNG NĂM 1946 ĐẾN NĂM 1954
1.1. Bối cảnh quốc tế trong những năm đầu sau chiến tranh thế giới thứ hai
Chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc đã để lại những hậu quả nặng nề cho toàn
thế giới: gần 60 triệu người chết và 90 triệu người bị thương và tàn phế, tiêu tốn và
gây thiệt hại hơn 4.000 tỷ USD; nhiều đô thị lớn bị phá hủy, nhất là ở Liên Xô, Đức,
Nhật Bản, châu Âu... Hầu hết các quốc gia tham chiến đều bị chiến tranh tàn phá. Mỹ
là nước duy nhất trục lợi từ chiến tranh và trở thành siêu cường có sức mạnh áp đảo về
mọi mặt. Các nước châu Âu phải dựa vào Mỹ về mặt kinh tế.
Tại Hội nghị Yalta (2/1945) và Hội nghị Potsdam (7/1945), nguyên thủ ba nước
Liên Xơ, Mỹ và Anh nhất trí thành lập Liên hợp quốc (trong đó 5 cường quốc Liên
Xơ, Mỹ, Anh, Pháp, Trung Quốc là 5 ủy viên thường trực Hội đồng bảo an, có quyền
phủ quyết); nước Đức bại trận bị chia cắt thành nhiều khu vực dưới sự quản lý của
Liên Xô, Mỹ, Anh, Pháp; Đông Âu thuộc phạm vi ảnh hưởng của Liên Xô, Tây Âu
thuộc phạm vi ảnh hưởng của Mỹ. Hình thành khn khổ của một trật tự thế giới mới trật tự thế giới hai cực.
Sau Chiến tranh thế giới lần thứ hai, hệ thống xã hội chủ nghĩa thế giới đã hình
thành với sự ra đời của một loạt nhà nước xã hội chủ nghĩa ở Đơng Âu. Tháng
10/1949, nước Cộng hịa Nhân dân Trung Hoa ra đời và tuyên bố đứng về phía Liên
Xơ và các nước xã hội chủ nghĩa, làm đảo lộn cục diện thế giới và hệ thống quan hệ
quốc tế.
Phát biểu của cựu Thủ tướng Anh Winston Churchill ngày 5/3/1946 về “Bức
màn sắt” đánh dấu sự khởi đầu cuộc Chiến tranh lạnh. Ra đời hai khối liên minh quân
sự do Mỹ và Liên Xô đứng đầu mỗi khối: Tổ chức Hiệp ước Bắc Đại Tây Dương
(NATO) năm 1949 và Tổ chức Hiệp ước Vacsava năm 1955.
Phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc phát triển mạnh mẽ châu Á, châu Phi và
lan rộng sang Mỹ Latinh, trở thành một dòng thác cách mạng đánh đổ chủ nghĩa thực
dân. Hầu hết các nước châu Á - Thái Bình Dương và Đông Dương vốn là thuộc địa
của Anh, Pháp, Bồ Đào Nha. Sau Chiến tranh thế giới lần thứ hai, các quốc gia châu
Âu này suy yếu, vai trò và ảnh hưởng tại khu vực bị suy giảm. Mỹ tăng cường can
15
thiệp, tiến hành ký kết hiệp ước an ninh, thành lập các khối quần sự trong khu vực:
khối quân sự Nam Thái Bình Dương (ANZUS), gồm Mỹ, Australia và New Zeland
thành lập tháng 9/1951; khối quân sự Đông Nam Á (SEATO) gồm Mỹ, Anh, Pháp,
Australia, New Zealand, Philippines, Thái Lan, Pakistan, thành lập tháng 9/1945, giải
thể tháng 6/1977.
Liên Xơ có vai trò quan trọng trong việc giải quyết các vấn đề quốc tế. Tuy
nhiên, về đối ngoại, những năm đầu sau chiến tranh, Liên Xô đã tập trung ưu tiên củng
cố vành đai an ninh tại những vùng giáp biên cương của mình, duy trì hồ hỗn với
các nước lớn để giải quyết các vấn đề do chiến tranh để lại, ưu tiên củng cố khu vực
ảnh hưởng ở phía tây, giúp đỡ cách mạng Đông Âu. Nước Pháp dưới chính quyền De
Gaulle là đối tượng tranh thủ của Liên Xô tại châu Âu.
Hoa Kỳ ra khỏi chiến tranh là cường quốc thế giới hàng đầu, độc quyền vũ khí
nguyên tử, chủ nợ của các nước Tây Âu. Ưu tiên chiến lược đối ngoại của Hoa Kỳ là
xác lập vai trò lãnh đạo của Mỹ trong hệ thống tư bản chủ nghĩa và thiết lập trật tự thế
giới do Mỹ chi phối. Hoa Kỳ có nhu cầu lơi kéo Pháp, do đó nhân nhượng Pháp về vấn
đề thuộc địa, trong đó có Đơng Dương.
Anh và Pháp đều có u cầu cấp bách khôi phục kinh tế đất nước, bảo vệ vị trí
nước lớn và duy trì hệ thống thuộc địa trên thế giới.
Sau khi chiến tranh kết thúc ở châu Âu, chính quyền De Gaulle đã phát hiện ra
cuộc đấu tranh về mặt quốc gia và ý thức hệ giữa hai cường quốc nổi lên từ cuộc chiến
tranh là Mỹ và Liên Xô, sự chuyển hướng các ưu tiên chiến lược của hai nước lớn này,
cũng như vị trí mới của nước Pháp trong tập hợp lực lượng ở châu Âu và trật tự thế
giới mới đang hình thành. Pháp không thể ngăn ngừa được những quyết định bất lợi
cho Pháp mà ba nước lớn đưa ra tại Potsdam, nhưng đã tìm cách khai thác các nhân tố
quốc tế có lợi cho Pháp sau chiến tranh, để đẩy mạnh hoạt động của Pháp khơi phục lại
quyền kiểm sốt ở Đơng Dương.
Ở Trung Quốc, chính quyền Tưởng Giới Thạch bị thất bại nặng nề trong cuộc tấn
cơng vào vùng giải phóng của Đảng Cộng sản Trung Quốc tại 11 tỉnh sau Hiệp định
ngày 10/10/1945, buộc phải ký với Đảng Cộng sản Trung Quốc hiệp định mới ngày
10/1/1946 và mở Hội nghị chính trị hiệp thương Quốc - Cộng. Tình hình khơng ổn
định trong nước và vị trí ngày càng suy yếu khơng cho phép chính quyền Tưởng Giới
16
Thạch triển khai những kế hoạch được trù tính trong chiến tranh nhằm thực hiện vai
trò “lãnh đạo châu Á”. Cục diện thế giới sau chiến tranh tác động sâu sắc và rộng lớn
tới nhiều mối quan hệ quốc tế. Thắng lợi của các lực lượng dân chủ chống phát xít
trong chiến tranh đã tạo đà cho sự phát triển các xu hướng độc lập dân tộc, dân chủ và
chủ nghĩa xã hội trên phạm vi thế giới. Tuy nhiên, sự phân hoá sau chiến tranh và tập
hợp lực lượng mới trên thế giới và ở Viễn Đông tác động phức tạp tới tình hình Việt
Nam, nơi nhiều nước lớn dính líu ở những mức độ khác nhau và quân đội các nước
Đồng minh vào giải giáp quân đội Nhật.
Chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc, phần thắng thuộc về phe Đồng minh nhưng
tàn dư của phát xít Nhật vẫn còn. Đây là cơ hội để các nước Đồng minh truy quét quân
đội phát xít tới cùng và là cái cớ để các nước Đồng minh đưa quân vào các nước thuộc
địa, phụ thuộc nhằm phân chia lại tình hình thế giới. Trong đó, Việt Nam khơng hề
nằm ngồi những toan tính đó. Điều này địi hỏi nhà nước cịn non trẻ Việt Nam Dân
chủ Cộng hồ cần phải có chính sách và bước đi khơn khéo để bảo vệ nền độc lập.
1.2. Việt Nam sau ngày giành chính quyền đến trƣớc năm 1950
1.2.1. Những khó khăn về kinh tế, chính trị, xã hội
Cách mạng tháng Tám năm 1945 thắng lợi, mở ra bước ngoặt lớn trong lịch sử
dân tộc, phá tan xiềng xích nơ lệ của thực dân Pháp, ách thống trị của phát xít Nhật và
lật đổ chế độ phong kiến bảo thủ, để rồi mở ra kỷ nguyên độc lập, tự do cho dân tộc.
Tuy nhiên, đất nước ta cũng phải đối diện với muôn vàn khó khăn, thử thách. Sản xuất
nơng nghiệp bị đình trệ, mùa màng liên tục bị lũ lụt, hạn hán tàn phá. Ở Bắc Bộ, lũ lụt
đã làm cho 50% ruộng đất bị bỏ hoang, liền sau đó lại là hạn hán làm thiệt hại mất 1/3
sản phẩm thu hoạch. Nạn đói mà thực dân Pháp và quân phiệt Nhật gây ra làm chết
hơn 2 triệu người dân nước ta năm 1945 chưa chấm dứt đến nay lại có phần gay gắt.
Sản xuất cơng nghiệp cũng chẳng khá hơn. Các xí nghiệp hoặc do bị tàn phá trong
chiến tranh, hoặc do thiếu nguyên liệu đều ngừng sản xuất. Việc buôn bán với nước
ngồi hầu như bị đình trệ hồn tồn. Hàng hoá tiêu dùng khan hiếm, giá cả tăng vọt.
Hàng vạn công nhân bị thất nghiệp, đời sống vô cùng khổ cực.
Nền tài chính rơi vào tình trạng nguy ngập. Ngân khố quốc gia gần như bị khánh
kiệt. Khi Chính phủ lâm thời thành lập, ngân sách Đông Dương hụt tới 185 triệu đồng
và nợ tới 564 triệu. Ngân khố trung ương chỉ cịn 1.200.000 đồng. Trong đó có
17
586.000 đồng là hào nát không dùng được. Ngân hàng Đông Dương vẫn do người
Pháp quản lý và không chịu ứng tiền cho Chính phủ Việt Nam. Hơn nữa, sau khi vào
Việt Nam, qn Tưởng khơng chỉ địi Chính phủ ta phải cung ứng cho chúng những
khoản lớn về tiền và của mà còn tung đồng tiền mất giá của chúng vào lưu hành làm
cho nền tài chính của ta đã khó khăn lại càng khó khăn hơn.
Sau hơn 80 năm “khai hóa” nước ta, thực dân Pháp đã để lại cho xã hội Việt
Nam một di sản văn hóa lạc hậu với hơn 90% dân số không biết chữ, các tệ nạn xã hội
như mê tín dị đoan, rượu chè, cờ bạc,... tràn lan. Quân đội còn đang trong quá trình
xây dựng, chưa được huấn luyện qua các trường lớp chính quy, vũ khí và phương tiện
chiến tranh thiếu thốn, thô sơ. Tuy đã được tôi luyện trong 15 năm, kinh nghiệm có
được chủ yếu là trong việc lãnh đạo nhân dân đấu tranh cách mạng, nhưng kinh
nghiệm quản lí nhà nước của Đảng ta chưa nhiều, nên chính quyền cách mạng từ trung
ương đến địa phương vẫn còn rất non trẻ. Ở một số nơi, chính quyền cịn do địch kiểm
sốt. Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hịa vẫn chưa được các quốc gia cơng nhận về
ngoại giao.
Chính quyền cách mạng vừa mới ra đời đã phải chịu sức ép từ mọi phía. Ngay
sau Cách mạng Tháng Tám, các lực lượng đế quốc, phản động núp dưới danh nghĩa
quân Đồng minh giải giáp quân đội Nhật lũ lượt kéo vào nước ta. Từ cuối tháng
8/1945, 20 vạn quân Tưởng cùng với bọn phản động người Việt lưu vong kéo vào
miền Bắc với mục đích rất rõ ràng là thủ tiêu chính quyền cách mạng, đưa bọn tay sai
ra lập chính quyền bù nhìn và thực hiện chính sách cướp bóc nhân dân Việt Nam.
Ngày 12/9/1945, các đơn vị đầu tiên của quân đội Anh cùng một bộ phận quân Pháp
đã tới Sài Gòn. Mục tiêu của quân Anh cũng khơng ngồi ý đồ tiêu diệt chính quyền
cách mạng, giúp thực dân Pháp quay lại xâm lược nước ta một lần nữa.
Lợi dụng ảnh hưởng của quân đội nước ngồi, các lực lượng phản động ngóc đầu
dậy ở cả hai miền. Ở miền Bắc, bọn tay sai của Tưởng cơng khai hoạt động chống
chính quyền cách mạng. Chúng tập hợp bọn địa chủ, tư sản phản động lập ra cái gọi là
“Mặt trận quốc gia chống Pháp”. Chúng ra hàng loạt tờ báo tuyên truyền xuyên tạc
đường lối chính sách của Đảng và Việt Minh, chia rẽ khối đoàn kết toàn dân do Đảng
ta lãnh đạo. Chúng tổ chức mít tinh, biểu tình chống Chính phủ, kích động bãi cơng,
bãi thị, bãi khố, vu cáo Chính phủ ta là “Việt gian thân Pháp”, địi Chính phủ phải từ
18
chức và yêu cầu Vĩnh Thụy ra thành lập chính phủ mới. Với sự giúp đỡ tích cực của
quân Tưởng, bọn Việt Quốc (Việt Nam Quốc dân Đảng) do Nguyễn Tường Tam, Vũ
Hồng Khanh cầm đầu, Việt Cách (Việt Nam Cách mệnh Đồng minh Hội) do Nguyễn
Hải Thần cầm đầu, tiến hành đánh chiếm các thị xã Móng Cái, Lào Cai, Yên Bái, Phú
Thọ, Vĩnh Yên, Bắc Ninh, Hồng Gai, Quảng Yên. Chúng lập chính quyền phản động ở
thị xã Vĩnh Yên, Yên Bái và Móng Cái. Quân Tưởng và tay sai của chúng vào nước ta
với mưu đồ tiêu diệt Đảng Cộng sản Đơng Dương, lật đổ chính phủ Hồ Chí Minh, lập
nên chính quyền tay sai của chúng.
Ở miền Nam, hơn 1 vạn quân Anh theo sự thỏa thuận của lực lượng Đồng Minh
cũng đã tiến vào nước ta dưới danh nghĩa giải giáp quân đội Nhật. Ngay khi tiến vào
nước ta, quân Anh đã tái vũ trang cho quân đội Pháp, dọn đường cho thực dân Pháp
quay trở lại xâm lược Việt Nam. Ngoài quân Anh, Tưởng và Pháp ra, trên khắp nước
ta cịn có 6 vạn quân Nhật. Lợi dụng việc quân Anh, Pháp tiến vào Sài Gòn, các phe
phái phản động lại trỗi dậy hoạt động. Nổi lên trong số này là bọn tờrốtkít. Được sự
che chở của quân Anh, Pháp chúng mở những đợt tuyên truyền, tung ra những khẩu
hiệu quá khích, cực đoan gây chia rẽ như “tiêu diệt người da trắng”, “chính quyền về
tay công nông”, “thực hiện cách mạng ruộng đất”, vu khống, đả kích Uỷ ban hành
chính Nam Bộ,... Một số tên phản động trong giáo phái Cao Đài, Hoà Hảo và những
nhóm vũ trang thân Nhật cũ câu kết với bọn tờrốtkít âm mưu đảo chính thành lập
chính phủ tay sai cho Pháp. Các phần tử phản động thân Pháp như Nguyễn Văn Thinh,
Nguyễn Văn Tâm,... đã ra sức tìm cách chống phá cách mạng, một số đảng phái chính
trị phản động mới được thành lập như Đảng Nam Kì do Nguyễn Tấn Cường - một tên
mật thám Pháp cũ đứng đầu, Đảng Đông Dương tự trị do Nguyễn Văn Tỵ đứng đầu,...
chống phá cách mạng. Chưa bao giờ, cùng một lúc cách mạng Việt Nam phải đối phó
với nhiều loại kẻ thù như thời điểm này. Hầu hết bọn chúng đều trực tiếp có mặt trên
đất Việt Nam. Chúng có thể mâu thuẫn với nhau về lợi ích, nhưng đều thống nhất với
nhau trong âm mưu chống cộng sản, thủ tiêu chính quyền cách mạng, xố bỏ thành
quả mà cuộc Cách mạng Tháng Tám vừa giành được.
Những khó khăn trên là một thách thức quá lớn đối với Chính phủ Việt Nam Dân
chủ Cộng hịa đang cịn non trẻ lúc bấy giờ. Việt Nam lúc này đang đứng trước tình
thế “ngàn cân treo sợi tóc”. Như vậy, đứng trước mn vàn khó khăn, người đứng đầu
19
Nhà nước cần phải có chính sách kết hợp tồn dân đồng lịng vượt qua gian khó cũng
như chính sách đối ngoại nhằm thốt khỏi sự bao vây, cơ lập của kẻ thù.
1.2.2. Một số thành tựu đạt đƣợc
Trước những khó khăn đang bủa vây lấy đất nước, Đảng và Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã đề ra những nhiệm vụ cấp bách. Chúng ta vừa phải xây dựng và củng cố
chính quyền cách mạng ở các cấp, vừa phải khơi phục kinh tế, giải quyết nạn đói, nạn
thất học, vừa phải đấu tranh với các thế lực thù địch để bảo vệ chính quyền cách mạng
và khẳng định vị thế của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Chủ tịch Hồ Chí Minh
nhận rõ, nếu ở giai đoạn trước khi giành chính quyền, yêu cầu của dân tộc ta là phải lật
đổ nền thống trị của thực dân Pháp thì sau khi đã giành lại được độc lập, điều quan
trọng nhất là cần phải có mối quan hệ hồ bình với các quốc gia trên thế giới, hạn chế
cùng một lúc phải đối phó với nhiều kẻ thù. Do đó, Hồ Chí Minh đã đề nghị ta ký với
Pháp Hiệp định Sơ bộ, trong đó Pháp cơng nhận Việt Nam là một quốc gia tự do, có
chính phủ, nghị viện, quân đội và tài chính riêng ở trong Liên bang Đơng Dương và
Liên hiệp Pháp và có kèm thêm một phụ khoản về việc 15.000 quân Pháp được ra Bắc
hợp tác với quân đội Việt Nam. Sau khi ký Hiệp định Sơ bộ, đến ngày 18/9/1946, quân
Tưởng đã rút hết quân khỏi Việt Nam. Như vậy, kẻ thù duy nhất của Việt Nam lúc này
chỉ còn là thực dân Pháp. Việc ký kết giữa một chính phủ mới thành lập Việt Nam, và
Pháp, nước hơm qua cịn cai trị Việt Nam được xem như là một sự kiện chưa từng có
trong bối cảnh hậu chiến. Hiệp định Sơ bộ 6/3/1946 có thể coi là bản hiệp ước quốc tế
đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ký với nước ngoài dưới sự chứng kiến
của đại diện các nước Mỹ, Anh, Trung Quốc. Bản hiệp ước chứng tỏ nước ta là một
nước tự do, khơng cịn là nước thuộc địa của Pháp mà ngược lại Pháp phải công nhận
Việt Nam là một quốc gia tự do, có chính phủ, nghị viện, quân đội riêng.
Đây là một thắng lợi lớn mang ý nghĩa quan trọng về mặt chính trị và ngoại
giao của ta. Hơn nữa việc ký hiệp định Sơ bộ còn đạt được mục tiêu loại bớt kẻ thù,
thúc đẩy quân Tưởng cùng bè lũ tay sai của chúng sớm rời Việt Nam, tránh cho cách
mạng Việt Nam cùng lúc đối phó với nhiều kẻ thù. Nhân dịp này Chính phủ Pháp mời
Chủ tịch Hồ Chí Minh thăm chính thức nước Pháp. Đây cũng coi như một bước tiến
mới trong chính sách ngoại giao của Hồ Chí Minh. Việc chính phủ Pháp chủ động mời
Người thăm chính thức Pháp với tư cách là thượng khách được coi như một sự thừa
20
nhận Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hồ, góp phần nâng cao vị thế của Việt Nam
trên trường quốc tế.
Tiếp đó, từ ngày 16/9/1950 đến tháng 11/1950, quân ta tiến hành chiến dịch Biên
giới Thu - Đông, tiêu diệt nhiều sinh lực tinh nhuệ của địch, giải phóng một vùng lãnh
thổ rộng lớn giáp với Trung Quốc. Chiến thắng này đã làm thay đổi cục diện chiến
tranh, mở ra bước ngoặc đưa cuộc kháng chiến của nước ta bước vào giai đoạn “phản
công và tiến công”, nối liền Việt Nam với hậu phương xã hội chủ nghĩa rộng lớn và
thế giới, tạo điều kiện thuận lợi mới cho cuộc kháng chiến.
Để bảo vệ thành công thành quả Cách mạng tháng Tám, Hồ Chí Minh nhận thấy
trước hết cần phải xây dựng và củng cố hệ thống chính quyền, tăng cường sức mạnh
của bộ máy chính quyền từ Trung ương đến địa phương, làm cho chính quyền đó thực
sự là của dân, do dân và vì dân. Do đó, ngày 5/1/1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ra lời
kêu gọi toàn dân đi bỏ phiếu để phát huy quyền làm chủ của mình, tự do lựa chọn và
bầu ra người đại diện hợp pháp, xứng đáng để gánh vác việc nước. Ngày 6/1/1946,
cuộc Tổng tuyển cử diễn ra sôi nổi, mặc dù gặp phải nhiều khó khăn vì diễn ra dưới
làn bom đạn của kẻ thù nhưng cuối cùng cũng giành được thành công, thắng lợi, đánh
dấu mốc phát triển đầu tiên trong tiến trình xây dựng thể chế dân chủ trên đất nước
Việt Nam.
Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa cũng rất chú tâm vào vấn đề xây dựng
chính quyền nhân dân các cấp ở địa phương. Sau Cách mạng tháng Tám, về mặt hành
chính, chính quyền các cấp ở địa phương gồm cấp kì tỉnh, thành phố, huyện và thị xã.
Chính quyền nhân dân các cấp từ Trung ương đến địa phương được tổ chức và làm
việc theo một tinh thần mới, một chế độ dân chủ mới của dân, do dân và vì dân. Chủ
tịch Hồ Chí Minh đã nêu rõ rằng: “Các cơ quan của chính phủ từ tồn quốc cho đến
các làng, đều là công bộc của nhân dân, nghĩa là để gánh vác việc chung cho dân, chứ
không phải để đè đầu dân như trong thời kỳ dưới quyền thống trị của Pháp, Nhật. Việc
gì lợi cho dân, ta phải hết sức làm. Việc gì hại đến dân, ta phải hết sức tránh”1. Về
pháp luật, chính phủ đã ban hành nhiều sắc lệnh quan trọng để bảo vệ quyền dân chủ
của mọi công dân Việt Nam như Sắc lệnh số 40/SL ngày 29/3/1946 về việc bảo vệ
quyền tự do cá nhân; Sắc lệnh số 41/SL quy định chế độ tự do báo chí; Sắc lệnh số
1
Hồ Chí Minh (2011), Tồn tập, tập 4, tr. 56-57, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
21
52/SL ngày 22/4/1946, quy định chế độ tự do lập hội,... Dự án luật lao động cũng đã
được Quốc hội thơng qua ngày 8/11/1946. Bên cạnh đó, Hiến pháp nước Việt Nam
Dân chủ Cộng hòa đã được Quốc hội biểu quyết thông qua ngày 9/11/1946 với 240
phiếu tán thành (trên tổng số 242 phiếu). Bản Hiến pháp đầu tiên của nước Việt Nam
Dân chủ Cộng hòa được xây dựng dựa trên những ngun tắc:
“Đồn kết tồn dân, khơng phân biệt giống nịi, gái trai, giai cấp, tơn giáo.
Đảm bảo quyền tự do dân chủ.
Thực hiện chính quyền mạnh mẽ và sáng suốt của nhân dân.”
Hiến pháp đã quy định chính thể (Chương I), nghĩa vụ và quyền lợi của công dân
(Chương II), Nghị viện nhân dân (Chương III), Chính phủ (Chương IV), Hội đồng
nhân dân và Ủy ban hành chính (Chương V), Cơ quan tư pháp (Chương VI) và sửa đổi
Hiến pháp (Chương VII).
Về chính thể, Hiến pháp đã ghi rõ:
“Nước Việt Nam là một nước dân chủ cộng hòa” (Điều 1)
“Đất nước Việt Nam là một khối thống nhất: Trung, Nam, Bắc không thể phân
chia” (Điều 2)
“Cờ của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hịa nền đỏ, giữa có sao vàng năm cánh.
Quốc ca là bài Tiến quân ca. Thủ đô đặt ở Hà Nội” (Điều 3)
Về nghĩa vụ và quyền lợi công dân:
“Mọi công dân Việt Nam phải: bảo vệ Tổ quốc, tôn trọng Hiến pháp, tuân theo
pháp luật” (Điều 4) và “có nghĩa vụ đi lính” (Điều 5).
“Cơng dân Việt Nam có quyền: tự do ngơn luận, tự do xuất bản, tự do tổ chức và
hội họp, tự do tín ngưỡng, tự do cư trú, đi lại trong nước và ra nước ngoài” (Điều 10)
Về nghị viện nhân dân, “Nghị viện nhân dân là cơ quan có quyền cao nhất của
nước Việt Nam dân chủ cộng hòa” (Điều 22). “Nghị viện nhân dân giải quyết mọi vấn
đề chung cho toàn quốc, đặt ra các pháp luật, biểu quyết ngân sách, chuẩn y các hiệp
ước mà chính phủ kí với nước ngồi” (Điều 23). Về chính phủ, “Cơ quan hành chính
cao nhất của tồn quốc là chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hịa” (Điều 43).
“Chính phủ gồm có Chủ tịch nước, Phó chủ tịch và nội các. Nội các có Thủ tướng, các