Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (610.91 KB, 7 trang )
<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>
<b>1. ĐẶT VẤN ĐỀ</b>
Trước những yêu cầu đổi mới nhằm nâng cao chất
lượng giáo dục trong điều kiện tồn cầu hóa, mở rộng
giao lưu và hội nhập kinh tế quốc tế, an ninh và quốc
phịng, cơng tác giáo dục-đào tạo khơng thể coi nhẹ
việc giảng dạy ngoại ngữ nói chung và giảng dạy tiếng
Anh nói riêng trong các cơ sở đào tạo. Ngoại ngữ là
một phương tiện đặc biệt quan trọng, không thể thiếu
trong việc đào tạo và bồi dưỡng nguồn nhân lực cho
sự nghiệp cơng nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước và
sự nghiệp xây dựng quân đội cách mạng, chính quy,
tinh nhuệ, từng bước hiện đại.
Nhận thức rõ vấn đề này, ngày 30 tháng 9 năm
<b>NGUYỄN THU HẠNH*</b>
*<sub>Học viện Khoa học Quân sự, </sub><sub>✉</sub><sub> </sub>
Nhằm đáp ứng những yêu cầu đổi mới giáo dục theo định hướng phát triển năng lực, khối các học
viện, nhà trường quân đội đã và đang thực hiện bước chuyển mình từ chương trình đào tạo ngoại
ngữ tiếp cận nội dung sang tiếp cận năng lực người học. Bài viết này đề cập đến những nét cơ bản
<b>Từ khóa:</b><i> năng lực, ngoại ngữ, phương pháp dạy học, trường quân đội. </i>
Nhằm đáp ứng những yêu cầu đổi mới giáo dục
theo định hướng phát triển năng lực, đáp ứng nhu
cầu xã hội theo tinh thần Nghị quyết số 29-NQ/TW
của Hội nghị lần thứ 8 Ban chấp hành Trung ương
khóa XI và yêu cầu hội nhập quốc tế về kinh tế và
an ninh quốc phòng, và Chỉ thị số 89/CT-BQP ngày
09/11/2016 của Bộ trưởng Bộ Quốc phòng về <i>một </i>
<i>số nhiệm vụ cấp bách nâng cao chất lượng dạy và </i>
<i>học ngoại ngữ trong các nhà trường quân đội</i>, khối
các học viện, nhà trường quân đội đã và đang thực
hiện bước chuyển mình từ chương trình đào tạo
ngoại ngữ tiếp cận nội dung sang tiếp cận năng lực
người học, nghĩa là từ việc quan tâm đến người học
được học cái gì đến việc quan tâm người học vận
dụng được gì qua việc học tập này. Có thể khẳng
định, việc đào tạo, nâng cao năng lực ngoại ngữ, đặc
biệt là tiếng Anh cho học viên tại các học viện, nhà
trường quân đội đang được coi là một trong những
ưu tiên hàng đầu.
Để đảm bảo được sự chuyển đổi này, đòi hỏi các
Tuy nhiên, trước bối cảnh đổi mới giáo dục, điều
kiện thực tế và thực tiễn hoạt động đổi mới đào tạo
theo định hướng phát triển năng lực ngoại ngữ cho
học viên còn nhiều bất cập cần khắc phục, thể hiện
trong tất cả các yếu tố của quá trình đào tạo ngoại
ngữ (mục tiêu, chương trình, nội dung, phương pháp,
phương tiện, hình thức tổ chức dạy học, kiểm tra đánh
giá…). Chính vì vậy, đổi mới đồng bộ phương pháp
dạy và học ngoại ngữ theo hướng phát năng lực, phù
hợp với đặc thù hoạt động quân sự là một chủ trương
đúng đắn và là yêu cầu cần thiết đối với các học viện,
nhà trường quân đội trong quá trình chuyển đổi sang
mơ hình đào tạo theo năng lực hiện nay.
<b>2. THỰC TRẠNG DẠY HỌC NGOẠI NGỮ </b>
<b>TẠI CÁC HỌC VIỆN, NHÀ TRƯỜNG QUÂN </b>
<b>ĐỘI HIỆN NAY</b>
Trong cuốn sách “Các trường phái và phương
Theodore S. Rodgers (1968) cho rằng, bản chất của
một phương pháp dạy học ngoại ngữ được thể hiện
qua các thủ thuật dạy học ngữ liệu (ngữ pháp, ngữ âm,
Một số nghiên cứu đã chỉ ra rằng, mặc dù có thể
có những khác nhau về phương pháp dạy học của
từng giảng viên trong từng ngôn ngữ đặc thù với đối
tượng học viên cụ thể, nhưng nhìn chung, phương
pháp giảng dạy ngoại ngữ của giảng viên đều bao gồm
những đặc điểm sau:
– Phương pháp dạy học ngoại ngữ được sử dụng
phổ biến là phương pháp thuyết trình, thơng báo – tiếp
nhận. Với phương pháp này, giảng viên là trung tâm
của quá trình dạy học và là người cung cấp kiến thức
ngơn ngữ mang tính áp đặt dẫn đến tình trạng hạn chế
hoạt động tích cực của học viên.
– Việc gắn nội dung dạy học với các tình huống
thực tiễn chưa được chú trọng. Cụ thể, từ vựng thường
được dạy đơn lẻ, ít đặt trong bối cảnh sử dụng. Ngữ
pháp được dạy bằng tiếng Việt theo cách giảng viên
cung cấp quy tắc, kết cấu của nó bằng tiếng Việt rồi
đưa ra ví dụ minh họa bằng tiếng nước ngồi. Giảng
viên quan tâm nhiều tới việc học viên có dùng đúng
ngữ pháp trong câu và học thuộc được nhiều từ mới
trong bài hay không hơn là quan tâm các kỹ năng sử
dụng ngôn ngữ của học viên.
– Kiến thức văn hóa và ý nghĩa giao tiếp trong
bài học chưa được quan tâm giảng dạy. Thông thường
– Việc sử dụng phối hợp các phương pháp dạy học
ngoại ngữ cũng như sử dụng các phương pháp dạy
học ngoại ngữ phát huy tính tích cực, tự lực và sáng
tạo của học viên còn ở mức khiêm tốn.
– Việc sử dụng phương tiện dạy học mới, ứng
dụng công nghệ thông tin trong dạy học ngoại ngữ
chỉ bước đầu thực hiện ở một số học viện, nhà trường.
Nhìn lại việc giảng dạy ngoại ngữ tại các học
viện, nhà trường quân đội trong thời gian qua, chúng
ta có thể thấy ngay rằng, phương pháp dạy học ngoại
ngữ hiện nay mới chỉ cung cấp cho học viên hệ thống
các quy tắc ngữ pháp, số lượng từ cơ bản, các kỹ năng
đọc hiểu, dịch, viết đơn giản dựa trên các cấu trúc
đã được học và trong các tình huống giới thiệu trong
giáo trình. Phương pháp dạy học ngoại ngữ như bắt
học viên học thuộc từ vựng tách rời ngữ cảnh, đặt câu
theo cấu trúc ngữ pháp… trở nên nhàm chán, kém
hiệu quả và dần triệt tiêu hứng thú học tập ngoại ngữ
của học viên. Chất lượng dạy và học ngoại ngữ chưa
đáp ứng với yêu cầu nhiệm vụ của quân đội trong tình
hình mới; chương trình, tài liệu dạy và học chưa gắn
với chuyên môn, chuyên ngành; người học chưa nhận
thức đúng vai trò quan trọng của ngoại ngữ.... Thực tế,
việc học ngoại ngữ đã trở thành áp lực với nhiều học
Xuất phát từ những cơ sở lý luận và thực tiễn
trên, việc đổi mới phương pháp dạy học ngoại ngữ
là một yêu cầu cấp thiết nhằm nâng cao chất lượng
dạy và học ngoại ngữ trong hệ thống nhà trường quân
đội; nâng cao năng lực sử dụng ngoại ngữ của đội
ngũ giảng viên, học viên ở các cơ sở đào tạo; tạo nền
tảng để cán bộ, sĩ quan sau khi ra trường có thể khai
thác, làm chủ vũ khí, trang thiết bị kỹ thuật; thực hiện
tốt cơng tác qn sự quốc phịng và có khả năng tự
nghiên cứu học tập, phát triển trong môi trường hội
nhập quốc tế.
<b>3. MỘT SỐ BIỆN PHÁP ĐỔI MỚI PHƯƠNG </b>
<b>PHÁP GIẢNG DẠY NGOẠI NGỮ</b>
Căn cứ vào chiến lược quốc gia và chỉ thị của Bộ
trưởng Bộ quốc phòng về phát triển năng lực ngoại
ngữ, việc đổi mới và hiện đại hóa phương pháp dạy
học ngoại ngữ sẽ chuyển từ việc truyền đạt kiến thức
ngôn ngữ thụ động sang hướng dẫn học viên chủ động
tư duy trong quá trình tiếp cận tri thức, dạy cho học
viên phương pháp tự học, tự thu nhận thơng tin một
cách có hệ thống, tăng cường tính chủ động, tính tự
chủ của học viên trong quá trình học tập và sinh hoạt.
Như vậy đổi mới phương pháp dạy học ngoại ngữ
pháp dạy học ngoại ngữ cụ thể bằng một phương pháp
cụ thể khác, mà là sự thay đổi mang tính định hướng,
thay đổi trong quan điểm về dạy học ngoại ngữ và
hướng tiếp cận quan điểm này. Việc đổi mới phương
pháp dạy học ngoại ngữ theo định hướng phát triển
năng lực phải được thực hiện thông qua các biện pháp
cụ thể như sau:
<b>3.1. Đổi mới việc thiết kế chương trình và tổ </b>
<b>chức dạy học</b>
Một trong những quyết định quan trọng trong việc
tổ chức giảng dạy ngoại ngữ là lựa chọn chương trình
phù hợp với nhu cầu đào tạo và đặc điểm của học viên
(Lê Thị Tuyết Hạnh, 2012). Một chương trình ngoại
ngữ tại môi trường học tập được cho là thành công
khi đáp ứng nhu cầu đào tạo về phát triển các kỹ năng
ngôn ngữ cần thiết cho mục đích học tập cũng như
phục vụ cho nghề nghiệp tương lai của học viên.
Bất kỳ một chương trình đào tạo nào cũng phải
được xuất phát từ việc xác định mục tiêu. Việc xác
định mục tiêu giúp người thiết kế chương trình:
– Mơ tả được mục đích của các hoạt động dạy và học
– Thiết đặt các kết quả mà học viên cần đạt được
– Xác định các phương pháp giảng dạy
– Xác định các phương pháp đo lường kết quả
Đối với một chương trình dạy ngoại ngữ trong
quân đội thì mục tiêu đào tạo được xác định xuất phát
từ mục tiêu đào tạo tổng thể của đơn vị, đó là phải
cung cấp cho học viên kiến thức và kỹ năng ngoại ngữ
để có thể giao tiếp trong môi trường học thuật và môi
trường nghề nghiệp sau khi tốt nghiệp, tạo cở sở để
học viên sau khi ra trường có thể khai thác, làm chủ
vũ khí, trang thiết bị kỹ thuật; thực hiện tốt cơng tác
qn sự quốc phịng.
Ngồi ra, thời lượng cho chương trình cũng là yếu
tố hết sức quan trọng. Mặc dù quá trình tiếp thu ngơn
ngữ là một q trình lâu dài và đòi hỏi ở học viên sự
nỗ lực, chiến thuật học và đặc biệt khả năng tự học,
nhưng thời gian giảng dạy trên lớp với các hoạt động
tương tác giữa giảng viên và học viên và giữa học
viên với nhau vẫn là yếu tố quan trọng giúp việc dạy
học ngoại ngữ thành công. Với mục tiêu tổng thể như
trên thì việc phân bổ thời gian dạy và học phải được
xem xét lại. Việc học ngoại ngữ phải được tập trung
cho giai đoạn đại cương mới có thể đáp ứng được yêu
cầu và nhu cầu đọc tài liệu cũng như các kỹ năng ngôn
ngữ khác của học viên trong các giai đoạn sau.
Có được mục tiêu đào tạo thì việc lựa chọn nội
dung và loại hình chương trình đào tạo sẽ hết sức
thuận lợi. Tuy nhiên khi lựa chọn loại hình chương
trình ngoại ngữ cũng cần tính đến các yếu tố sau đây:
– Trình độ đầu vào của người học
– Nguồn ngữ liệu cho giảng dạy và học tập
– Khả năng và vai trò của người dạy
– Các yếu tố về cơ sở vật chất
Đổi mới phương pháp dạy học ngoại ngữ theo
định hướng phát triển năng lực cần bắt đầu từ việc
đổi mới việc thiết kế chương trình và tổ chức dạy học.
Trong việc thiết kế chương trình, giảng viên cần xác
định các mục tiêu dạy học về kiến thức ngôn ngữ, kỹ
năng ngôn ngữ một cách rõ ràng, có thể đạt được và có
dung để tổ chức dạy học, khơng chỉ chú ý đến các kiến
thức ngôn ngữ chuyên sâu mà cần lưu tâm tới những
nội dung có thể phát triển các năng lực ngôn ngữ
khác như năng lực giao tiếp, năng lực giải quyết vấn
đề, năng lực học tập cá nhân hay học tập theo nhóm.
<b>3.2. Kết hợp đa dạng các phương pháp dạy học </b>
<b>ngoại ngữ</b>
Không có một phương pháp dạy học ngoại ngữ
tồn năng phù hợp với mọi mục tiêu và nội dung dạy
học ngoại ngữ. Mỗi phương pháp dạy học có những
ưu, nhược điểm và giới hạn sử dụng riêng. Vì vậy
việc phối hợp đa dạng các phương pháp và hình thức
dạy học ngoại ngữ trong tồn bộ q trình dạy học là
phương hướng quan trọng để phát huy tính tích cực và
nâng cao chất lượng dạy học ngoại ngữ.
Theo phương pháp dạy học truyền thống, dạy học
ngoại ngữ thường được coi như một quá trình truyền
thụ kiến thức từ thầy sang trị thì với việc sử dụng
phương pháp thực hành giao tiếp, việc dạy và học
ngoại ngữ giờ đây được nhìn nhận như một q trình
khám phá, trong đó, học viên dần sử dụng ngơn ngữ
phù hợp với những mục đích giao tiếp cụ thể (Davies
và Pearse, 2000). Đây là mô hình dạy học lấy học viên
làm trung tâm, trong đó cả giảng viên và học viên đều
cùng chia sẻ trách nhiệm dạy và học. Song song với
việc nhấn mạnh vào mục tiêu phát triển năng lực giao
tiếp ở học viên, việc lựa chọn các hoạt động học tập
phải đặt vào trong những bối cảnh thật mà học viên có
nhiều khả năng sẽ gặp phải trong cuộc sống hàng ngày.
Học ngoại ngữ là quá trình nhận biết các kiến thức
và rèn luyện các kỹ năng, vì vậy khi giảng dạy ngoại
ngữ, giảng viên cần thiết kế, phân bố thời gian hợp lý
giữa các khâu giảng, giữa thời lượng truyền đạt kiến
thức mới và thời lượng cho học viên thực hành. Tăng
cường thực hành theo nhóm, theo cặp nhằm tạo điều
kiện cho học viên phát triển các kỹ năng ngôn ngữ,
giảm được tâm lý ngại ngùng, tăng tính chủ động, tính
hợp tác giữa học viên; học lẫn nhau và luyện được
cách học tập, làm việc đồng đội, tập thể. Giảng viên
cần thiết kế các dạng bài tập theo hướng tạo tính chủ
động sáng tạo cho học viên và tuỳ theo trình độ của
học viên. Cụ thể, đối với học viên có trình độ thấp thì
Giảng viên nên đa dạng hoá các hoạt động dạy
học bằng cách xen kẽ các trị chơi ngơn ngữ (đóng
vai, đốn từ, giải ô chữ …) nhằm tạo hứng thú học tập
cho học viên; nên kết hợp uyển chuyển trong vai trò là
người truyền tải kiến thức mới, là người giúp đỡ giảm
độ khó cho học viên, là người hướng dẫn và củng cố
kiến thức toàn bài, góp phần tích cực hố hoạt động
nhận thức và tái tạo kiến thức ngôn ngữ của học viên.
<b>3.3. Áp dụng dạy học ngoại ngữ giải quyết vấn đề </b>
Dạy học ngoại ngữ giải quyết vấn đề (dạy học nêu
vấn đề, dạy học nhận biết và giải quyết vấn đề) là
quan điểm dạy học nhằm phát triển năng lực tư duy,
khả năng nhận biết và giải quyết vấn đề của người
học thể hiện bằng công cụ ngoại ngữ (Richards và
Rodgers, 1968). Học được đặt trong một tình huống
gợi vấn đề, thơng qua việc tranh luận và giải quyết
vấn đề, giúp học viên lĩnh hội tri thức, kỹ năng và
phương pháp nhận thức. Các tình huống gợi vấn đề là
những tình huống khoa học chun mơn, cũng có thể
là những tình huống gắn với thực tiễn.
Dạy học ngoại ngữ giải quyết vấn đề được tiến
hành theo 4 bước sau:
<i>Bước 1: Đưa ra vấn đề:</i> Đưa ra các nhiệm vụ và
tình huống, mục đích của hoạt động.
<i>Bước 2: Nghiên cứu vấn đề: </i>Thu thập thông tin
liên quan
<i>Bước 3: Giải quyết vấn đề: </i>Đưa ra lời giải, kết quả
<i>Bước 4: Vận dụng: </i>Vận dụng kết quả để giải
quyết tình huống và vấn đề tương tự.
Quá trình học tập có thể diễn ra với những cách tổ
chức đa dạng lôi cuốn học viên tham gia thể hiện năng
lực ngôn ngữ cùng tập thể, tư duy, tranh luận dưới sự
dẫn dắt, gợi mở, cố vấn của giảng viên; ví dụ:
– Làm việc theo nhóm nhỏ (trao đổi ý kiến,
khuyến khích tìm tịi...);
– Thực hiện những kỹ thuật hỗ trợ tranh luận
(ngồi vịng trịn, chia nhóm nhỏ theo những ý kiến
cùng loại...);
– Tư duy (brain storming), đây thường là bước
thứ nhất trong sự tìm tịi giải quyết vấn đề (học viên
thường được yêu cầu suy nghĩ, đề ra những ý hoặc
giải pháp ở mức độ tối đa có thể có của mình);
– Báo cáo và trình bày (thực hiện nhiều cách làm,
từ cá nhân viết, trình bày ở nhóm nhỏ, báo cáo của
nhóm trước cả lớp)...
<b>3.4. Vận dụng dạy học ngoại ngữ theo tình huống</b>
Dạy học ngoại ngữ theo tình huống là quan điểm
dạy học trong đó việc dạy học được tổ chức theo
một chủ đề phức hợp gắn với các tình huống thực
tiễn trong cuộc sống và nghề nghiệp (Richards và
Rodgers, 1968). Vận dụng dạy học ngoại ngữ theo
các tình huống gắn với thực tiễn là con đường quan
trọng để gắn việc đào tạo ngoại ngữ trong nhà trường
với thực tiễn cơng việc, góp phần khắc phục tình trạng
giáo dục hàn lâm, xa rời thực tiễn.
đó phát huy tính tích cực của học viên trong việc tái
tạo kiến thức. Phương pháp tình huống thuyết phục
học viên bằng chính kinh nghiệm và những suy luận
cá nhân rút ra sau khi tham gia vào tình huống. Do
đó, những tri thức, kỹ năng ngôn ngữ mà học viên thu
nhận được trở thành của chính họ, do họ tự nhận thức,
khơng bị áp đặt bởi giảng viên.
Phương pháp dạy học bằng tình huống gồm có ba
thành phần liên quan với nhau:
– Nội dung của tình huống: nêu bật các vấn đề
được đặt ra mang tính thực tiễn cao, có tính logic của
vấn đề cần được mang ra phân tích, đánh giá cụ thể.
– Phân tích tình huống: từ các vấn đề nêu ra trong
tình huống học viên xây dựng các câu hỏi cụ thể về
các vấn đề cần giải quyết, cần quan tâm, cách thức
giải quyết vấn đề trong tình huống.
– Thảo luận tình huống: nêu ra các giải pháp để
giải quyết các vấn đề gắn với nội dung bài học.
Các bước tiến hành phương pháp dạy học ngoại
ngữ bằng tình huống trong một buổi học:
<i>Bước 1:</i> Giảng viên cần xác định mục tiêu của
buổi học
Ví dụ: Unit 3-Safety check
Mục tiêu: Cách đưa ra chỉ dẫn bằng tiếng Anh,
ôn tập từ vựng chỉ các bộ phận cơ bản của súng ngắn
bán tự động
<i>Bước 2</i>: Lựa chọn tình huống
Ví dụ: “Lớp của đồng chí đang tham gia huấn
luyện quân sự. Đồng chí A vắng mặt buổi học hơm
trước do bị ốm. Đồng chí có nhiệm vụ giúp, hướng
dẫn đồng chí A thực hiện các bước kiểm tra an toàn
đối với súng ngắn bán tự động”.
<i>Bước 3: </i>Phân cơng các nhóm để giải quyết
tình huống
Học viên sẽ thực hiện nhiệm vụ đưa ra các chỉ dẫn
<i>Bước 4:</i> Báo cáo tình huống
Đại diện các nhóm trình bày kết quả thảo luận, các
nhóm khác nhận xét, bổ sung ý kiến.
<i>Bước 5:</i> Giảng viên tổng kết, nhận xét và đánh giá
các nhóm
Với phương pháp giảng dạy ngoại ngữ bằng tình
huống, học viên sẽ có khả năng làm việc tập thể, làm
việc nhóm, tự nghiên cứu, suy luận, tích cực chủ động
hơn trong học tập. Nó cịn nhằm trang bị cho học viên
những kỹ năng hết sức cần thiết cho quá trình làm việc
sau khi tốt nghiệp ra trường.
<b>3.5. Tăng cường sử dụng đa phương tiện dạy </b>
<b>học và công nghệ thông tin trong dạy học ngoại ngữ</b>
Phương tiện dạy học có vai trị quan trọng trong
việc đổi mới phương pháp dạy học ngoại ngữ, nhằm
tăng cường tính trực quan và thực hành trong dạy học.
Đa phương tiện và công nghệ thông tin vừa là nội
dung dạy học vừa là phương tiện dạy học trong dạy
học ngoại ngữ hiện đại.
Để phát triển các năng lực sáng tạo, hợp tác, sử
dụng ngôn ngữ… của học viên thì giảng viên phải
giảm bớt thời gian thuyết trình và chú ý nhiều hơn đến
việc tổ chức các hoạt động cho học viên để huy động
sự tham gia của học viên vào nội dung của bài. Giảng
viên có thể làm phong phú bài giảng thơng qua việc
khai thác tiện ích của công nghệ thông tin, sử dụng các
đoạn video, giáo cụ trực quan, tranh ảnh có nội dung
liên quan đến chủ đề đang học. Việc làm này cũng
khơi dạy niềm say mê hứng thú học tập của học viên.
Ví dụ:
Khi dạy về từ vựng tiếng Anh liên quan đến Điều
lệnh đội ngũ, giảng viên có thể kết hợp cho học viên
xem băng hình mơ phỏng các động tác hoặc chuẩn bị
hình ảnh minh họa kèm từ vựng tiếng Anh liên quan
như ở ví dụ dưới đây. Với hình ảnh minh họa, từ vựng
tiếng Anh sẽ trở nên dễ hiểu, đồng thời học viên sẽ nhớ
từ lâu hơn và có thể tái tạo từ nhanh hơn khi cần đến.
phần mềm hỗ trợ học trực tuyến (online) hoặc ngoại
tuyến (offline) cũng như các phương pháp dạy học sử
dụng mạng điện tử (E-Learning). Phương tiện dạy học
mới cũng hỗ trợ việc tìm ra và sử dụng các phương
pháp dạy học ngoại ngữ mới.
<b>3.6. Sử dụng các kỹ thuật dạy học phát huy </b>
<b>tính tích cực và sáng tạo của học viên</b>
Kỹ thuật dạy học ngoại ngữ tích cực là những
cách thức hành động của giảng viên và học viên trong
các tình huống hành động nhỏ nhằm thực hiện và điều
khiển quá trình dạy học ngoại ngữ (Scrivener, 2011).
Các kỹ thuật dạy học ngoại ngữ tích cực có ý
nghĩa đặc biệt trong việc phát huy sự tham gia tích
cực của học viên vào q trình dạy học, kích thích tư
duy, sự sáng tạo và sự cộng tác làm việc của học viên.
Ngày nay, chúng ta chú trọng phát triển và sử dụng
các kỹ thuật dạy học ngoại ngữ phát huy tính tích cực,
sáng tạo của người học như “tư duy” (brainstorming),
“tranh luận” (debating), “sơ đồ tư duy” (mindmap),
“chia sẻ nhóm đơi” (think-pair-share)…. Thực chất đó
là sự kết hợp hài hoà giữa thuyết giảng và đối thoại
với mục tiêu phát huy cao độ tính tích cực, năng động,
độc lập, sáng tạo của học viên. Với các kỹ thuật dạy
học ngoại ngữ tích cực này, giảng viên không chỉ nắm
vững những vấn đề cần trình bày mà cịn phải rất năng
động nhạy bén và sáng tạo ngay trong giờ giảng, trên
cơ sở đó giảng viên có thể giúp phát triển năng lực
ngôn ngữ của học viên một cách hiệu quả nhất.
<b>3.7. Bồi dưỡng phương pháp học tập ngoại ngữ </b>
<b>tích cực cho học viên</b>