Tải bản đầy đủ (.pdf) (8 trang)

Hiệu quả can thiệp lồng ghép cho người nghiện chích ma túy và thành viên gia đình tại Phú Thọ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.37 MB, 8 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>

<b>HIỆU QUẢ CAN THIỆP LỒNG GHÉP CHO NGƯỜI NGHIỆN CHÍCH MA TÚY </b>


<b>VÀ THÀNH VIÊN GIA ĐÌNH TẠI PHÚ THỌ</b>



<b>Lê Anh Tuấn1<sub>*, Phạm Đức Mạnh</sub>2<sub>, Nguyễn Anh Tuấn</sub>1</b>


<i><b>1</b><b><sub>Viện Vệ sinh Dịch tễ Trung ương, Hà Nội</sub></b></i>
<i><b>2</b><b><sub>Cục Phòng, chống HIV/AIDS, Bộ Y tế</sub></b></i>


<b>TĨM TẮT</b>



Gia đình đóng vai trị quan trọng và ảnh hưởng lớn đến cuộc sống của người nghiện chích ma túy (NCMT)
ở Việt Nam. Nghiên cứu này đánh giá hiệu quả can thiệp thử nghiệm lồng ghép cho người NCMT và thành
viên gia đình, thơng qua một chương trình can thiệp cộng đồng ngẫu nhiên có đối chứng, với 83 người
NCMT và 83 TVGĐ ở 4 xã/phường của tỉnh Phú Thọ tham gia. Những người NCMT và TVGĐ trong nhóm
can thiệp tham giacác buổi can thiệp với mục đích cải thiện sức khỏe tinh thần và mối quan hệ trong gia
đình và để khuyến khích thay đổi hành vi tích cực. Đánh giá trước và sau can thiệp, so sánh với nhóm đối
chứng cho thấy giảm đáng kể dấu hiệu trầm cảm (khác biệt về mức độ giảm kể từ đánh giá ban đầu giữa
nhóm can thiệp và đối chứng sau 3 tháng là 5,118; p<0.0001 và sau 6 tháng là 3,674; p=0.0004) và cải
thiện mối quan hệ gia đình (sau 3 tháng 4,923; p<0.0001 và sau 6 tháng (3,075; p=0.011) ở nhóm NCMT.
TVGĐ ở nhóm can thiệp có kỹ năng đối mặt với khó khăn tốt hơn (sau 3 tháng ở nhóm can thiệp 1,735;
p=0.030), giảmdấu hiệu trầm cảm (sau 6 tháng 3,681; p<0.0001) và tăng mối quan hệ gia đình (sau 3 tháng
3,945; p<001 và sau 6 tháng 3,850; p=0,001). Hiệu quả can thiệp không đáng kể ở những người NCMT
trong việc thay đổi hành vi sử dụng ma túy. Nghiên cứu cũng cho thấy tầm quan trọng của TVGĐ trong nỗ
lực giảm tác hại của ma túy.


<b>Từ khóa: Nghiện chích ma túy, thành viên gia đình, can thiệp</b>


*Tác giả: Lê Anh Tuấn


Địa chỉ: Viện Vệ sinh Dịch tễ Trung ương
Điện thoại: 0983738688



Email: ,


Ngày nhận bài: 24/07/2015
Ngày phản biện: 09/10/2015
Ngày đăng bài: 10/11/2015

<b>I. ĐẶT VẤN ĐỀ</b>



Việt Nam là quốc gia chịu ảnh hưởng nặng
nề bởi tình trạng bn bán và sử dụng ma túy.
Theo thống kê, có hơn 170.000 người sử dụng
ma túy ở nước ta, trong đó có khoảng 85%
sử dụng heroin. Tỷ lệ hiện nhiễm HIV trong
nhóm nghiện chích ma túy (NCMT) trung bình
khoảng 20%, trong đó rất cao tại một số tỉnh
như Điện Biên (56%), Quảng Ninh (56%), Hải
Phòng (48%)… Tỷ lệ dùng chung bơm kim
tiêm giữa những người NCMT từ 40-80%, khác
nhau giữa các tỉnh [1].


Theo văn hóa Việt Nam, gia đình đóng một
vai trò quan trọng và ảnh hưởng lớn đến cuộc
sống của người NCMT. Hầu hết những người
NCMT sống cùng hoặc liên lạc hàng ngày với
gia đình. Gia đình cũng là nguồn hỗ trợ chính


cho những người NCMT [2]. Sử dụng ma túy
(SDMT) không chỉ tác động lên sức khỏe thể
chất và tinh thần của cá nhân họ mà còn tác
động đến hạnh phúc của toàn bộ gia đình.Vì


thế, can thiệp nhằm tác động tới các thành viên
gia đình và người NCMT được xác định như
một vấn đề ưu tiên trong lĩnh vực y tế cộng
đồng [3].


</div>
<span class='text_page_counter'>(2)</span><div class='page_container' data-page=2>

<b>II. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU</b>


<b>2.1 Thiết kế</b>


Nghiên cứu can thiệp cộng đồng ngẫu nhiên
có đối chứng.


 


Nhóm can thiệp
2 xã/phường
43 người NCMT, 43 TVGĐ
hoàn thành đánh giá ban đầu


4 xã/phường
83 NCMT, 83 TVGĐ


Nhóm đối chứng
2 xã/phường
40 người NCMT, 40 TVGĐ
hoàn thành đánh giá ban đầu


43 người NCMT, 43 TVGĐ


hoàn thành đánh giá sau 3 tháng <sub>hoàn thành đánh giá sau 3 tháng </sub>40 người NCMT, 40 TVGĐ



Không bỏ Không bỏ


42 người NCMT, 43 TVGĐ


hoàn thành đánh giá sau 6 tháng hoàn thành đánh giá sau 6 tháng 40 người NCMT, 40 TVGĐ


1 NCMT
bỏ


Không bỏ
Chọn ngẫu


nhiên


<b>Hình 1. Sơ đồ mơ hình nghiên cứu</b>


<b>2.2 Đối tượng</b>


Người NCMT được chọn từ 18 tuổi trở
lên, đã từng và đang TCMT, sống tại địa bàn
nghiên cứu và đồng ý mời một thành viên trong
gia đình mình tham gia cùng. Một TVGĐ của
người NCMT đủ tiêu chuẩn tham gia ở trên
được tuyển chọn, là những người từ 18 tuổi trở
lên, có quan hệ họ hàng, sống cùng với người
NCMT và có biết tình trạng sử dụng ma túy của
người NCMT trong gia đình mình.


<b>2.3 Địa điểm và thời gian</b>



Bốn xã/phường của Tp. Việt Trì, tỉnh Phú
Thọ được chọn ngẫu nhiên từ danh sách các
xã/phường có từ 25 người NCMT trở lên. 4
xã/phường này được ghép cặp theo số người
NCMT và khoảng cách. Sau khi đánh giá ban
đầu, 2 xã/phường của 2 cặp được chọn ngẫu
nhiên vào can thiệp và đối chứng. Nghiên cứu
được thực hiện trong 2 năm, 2011 – 2012.
<b>2.4 Quy trình thực hiện</b>


Chương trình can thiệp


Trong năm thứ nhất, mơ hình, nội dung


buổi can thiệp được thực hiện riêng cho người
NCMT và TVGĐ, trong bốn tuần liên tục, mỗi
buổi 10 người tham gia. Chủ đề can thiệp phản
ánh những thách thức mà người NCMT và gia
đình họ gặp phải, bao gồm 1)gia đình tơi, 2)
trách nhiệm của tôi, 3) sự hỗ trợ của tôi và 4)
cộng đồng nơi tôi sống. Buổi thứ nhất tập trung
vào tầm quan trọng của sự hỗ trợ từ gia đình,
giải quyết các vấn đề chăm sóc sức khỏe thường
ngày. Buổi hai nhắm đến những thách thức của
gia đình, kiểm sốt cảm xúc tiêu cực và các kỹ
năng đối mặt với khó khăn. Buổi ba nhấn mạnh
việc đưa ra các mục tiêu thực tế trong cuộc
sống và những hỗ trợ cần thiết để thay đổi hành
vi tích cực. Buổi bốn khuyến khích phá vỡ các
rào cản xã hội để hòa nhập cộng đồng.Hai buổi


can thiệp bổ sung được thực hiện 2 tháng và 4
tháng sau các buổi can thiệp chính thức để củng
cố hiệu quả.


</div>
<span class='text_page_counter'>(3)</span><div class='page_container' data-page=3>

cho hai nhóm, cho người NCMT nhấn mạnh
việc tạo ra sự thay đổi hành vi tích cực, trong
khi TVGĐ tập trung vào giải quyết gánh nặng
chăm sóc và hỗ trợ cho người NCMT. Sau mỗi
buổi, cán bộ can thiệp đề xuất các hoạt động
tại nhà tạo cơ hội để người NCMT và TVGĐ
cùng làm việc, chia sẻ cùng nhau, tăng thêm
mối quan hệ gia đình.


Cán bộ can thiệp là cán bộ y tế tại địa
phương, đảm bảo phù hợp với văn hóa địa
phương và có tính bền vững. Đội ngũ này có
mối liên hệ với người NCMT và TVGĐ ở cộng
đồng,được tập huấn về đạo đức nghiên cứu, kỹ
năng hỗ trợ, nguyên tắc của can thiệp và được
thực hành các hoạt động trước khi triển khai.


Nhóm đối chứng được cung cấp các thông
tin cơ bản về sức khỏe hoặc khám chữa bệnh
thường quy nếu đến trạm y tế xã/phường.


<i>Đánh giá tác động can thiệp</i>


Toàn bộ người NCMT và TVGĐ của 2 nhóm
can thiệp và đối chứng được phỏng vấn đánh
giá trước, sau can thiệp 3 tháng, 6 tháng. Các


cuộc phỏng vấn cá nhân trực tiếp giữa phỏng
vấn viên đã được tập huấn với mỗi người tham
gia, trong vòng 30-60 phút.


<b>2.5 Phân tích số liệu</b>


Sử dụng phân tích mơ tả cho các thông tin
cơ bản của người NCMT và TVGĐ. Sự khác
biệt của nhóm can thiệp và đối chứng được
phân tích sử dụng t test. Các yếu tố như “dấu
hiệu trầm cảm”, “mối quan hệ gia đình”, “đối
mặt thách thức” được tính điểm, sử dụng mơ
hình ước tính hiệu quả kết hợp để đánh giá hiệu
quả can thiệp.


Tác động của can thiệp được đo lường thông
qua mức độ cải thiện hay giảm các yếu tố sau
đây giữa nhóm can thiệp và nhóm đối chứng
qua phân tích mơ hình tác động phối hợp.“Dấu
hiệu trầm cảm”được đo lường dựa vào thang


đo mức độ trầm cảm Zung [4, 5], người tham
gia được hỏi mức độ thường xuyên họ gặp phải
một cảm giác cụ thể nào đó (ví dụ như cảm thấy
chán nản và thất vọng) cho 10 tình huống,với
câu trả lời từ 1(ít khi gặp) đến 4 (thường xuyên
gặp).“Mối quan hệ gia đình”được đánh giá
theo 3 khía cạnh: sự gắn kết gia đình, xung
độttrong gia đình và đời sống xã hội trong gia
đình, thang đo bao gồm 15 câu hỏi, với mức


độ từ 1 (rất không đúng) tới 4 (rất đúng) cho
mỗi tình huống được hỏi [6].“Thách thức của
TVGĐ” được đo lường sử dụng thang đovới 4
khía cạnh (đối phó tích cực, lập kế hoạch, hình
thành trạng thái tích cực và sự chấp nhận) với
mức độ câu trả lời từ 1(khơng có gì) đến 4 (có
nhiều)[7].“Hành vi sử dụng ma túy”được tính
tốn theo thang điểm ASI [8]. Người NCMT
được hỏi về mức độ thường xuyên SDMT và
mức độ nghiêm trọng họ nhận thức về vấn đề
SDMT trong 30 ngày qua, các câu trả lời được
kết hợp hợp, với số điểm cao hơn chỉ ra mức độ
SDMT nghiêm trọng hơn.


<b>2.6 Đạo đức trong nghiên cứu</b>


Nghiên cứu cung cấp thông tin và thỏa thuận
tham gia với đối tượng nghiên cứu. Đề cương,
quy trình nghiên cứu được Hội đồng đạo đức
của trường Đại học California tại Los Angeles
và Viện Vệ sinh Dịch tễ Trung ương phê duyệt.


<b>III. KẾT QUẢ</b>



</div>
<span class='text_page_counter'>(4)</span><div class='page_container' data-page=4>

<b>Bảng 1. Đặc điểm cơ bản của đối tượng nghiên cứu</b>
<b>Đặc điểm</b>


<b>NCMT</b> <b>TVGĐ</b>


<b>Đối chứng</b> <b>Can thiệp</b> <b>p</b> <b>Đối chứng Can thiệp</b> <b>p</b>



<b>N (%)</b> <b>N (%)</b> <b>N (%)</b> <b>N (%)</b>


<b>Số người tham gia</b> 40 43 40 43


<b>Giới tính (Nam)</b> 40 (100) 43 (100) 1,0000 0 8 (18,6) 0,0037


Tuổi 0,5026 0,0375


<=30 15 (37,5) 11 (25,6) 16 (40,0) 10 (23,8)


31-40 19 (47,5) 24 (55,8) 3 (7,5) 12 (28,6)


>=41 6 (15,0) 8 (18,6) 21 (52,5) 20 (47,6)


Hôn nhân 0,8540 0,1309


Chưa lập gia đình 16 (40,0) 15 (34,9) 2 (5,0) 3 (7,0)


Đang sống với bạn đời/bạn tình 22 (55,0) 25 (58,1) 29 (72,5) 37 (86,1)


Li thân/li dị/góa 2 (5,0) 3 (7,0) 9 (22,5) 3 (7,0)


Số năm đi học 0,0020 0,2313


<=9 năm 6 (15,0) 20 (46,5) 18 (45,0) 19 (47,5)


10-12 năm 27 (67,5) 22 (51,2) 10 (25,0) 15 (37,5)


>=13 năm 7 (17,5) 1 (2,3) 12 (30,0) 6 (15,0)



Việc làm


Thất nghiệp 9 (22,5) 14 (32,6) 0,3063 23 (57,5) 11 (25,6) 0,0031


Thời gian SDMT


>=10 năm 20 (50,0) 26 (60,5) 0,3378


Tình trạng HIV


Dương tính 7 (17,5) 7 (16,3) 0,8820


<i>NCMT-Nghiện chích ma túy; TVGĐ-Thành viên gia đình</i>
TVGĐ ở nhóm can thiệp trẻ hơn (p=0,0375)
và tình trạng thất nghiệp ít hơn (p=0,0031) so
với nhóm đối chứng. Tình trạng hơn nhân và
trình độ học vấn của TVGĐ ở hai nhóm can
thiệp và đối chứng tương tự nhau. Một nửa số
người NCMT nhóm đối chứng và 60,5% nhóm
can thiệp đã SDMT từ 10 năm trở lên. 7 người
NCMT nhóm can thiệp (16,3%) và 7 người
trong nhóm đối chứng (17,5%) nhiễm HIV ở
đánh giá ban đầu.


<b>3.2 Kết quả đánh giá trước và sau can thiệp</b>
Hình 1 trình bày các chỉ số trung bình (và độ
lệch chuẩn, ±2SD) của nhóm NCMT và TVGĐ


đo lường được ở thời điểm trước can thiệp, 3


tháng và 6 tháng sau can thiệp.


</div>
<span class='text_page_counter'>(5)</span><div class='page_container' data-page=5>

  <b>NCMT-sử dụng ma túy </b> <b>NCMT-dấu hiệu trầm cảm </b> <b>NCMT-quan hệ gia đình </b>


<b>TVGĐ-đối mặt thách thức </b> <b>TVGĐ-dấu hiệu trầm cảm </b> <b>TVGĐ-quan hệ gia đình </b>


Trước 3 tháng 6 tháng Trước 3 tháng 6 tháng Trước 3 tháng 6 tháng


Trước 3 tháng 6 tháng Trước 3 tháng 6 tháng Trước 3 tháng 6 tháng


_____ can thiệp _ _ _ _ đối chứng


<b>Hình 1. Sự thay đổi các yếu tố trước và sau can thiệp 3 tháng, 6 tháng</b>


<i>NCMT-Nghiện chích ma túy; TVGĐ-Thành viên gia đình</i>


Kết quả của TVGĐ ở 2 nhóm tương tự nhau
ở đánh giá ban đầu. TVGĐ trong nhóm can thiệp
có tăng điểm trong việc đương đầu với những
khó khăn (28,88–30,98–30,86), giảm dấu hiệu
trầm cảm (17,95–14,81–13,26) và cải thiện mối


quan hệ gia đình (47,7–51,93–51,44). Kết quả
của nhóm TVGĐ đối chứng khơng cho thấy rõ xu
hướng tích cực này.


<b>3.3 Hiệu quả can thiệp qua phân tích mơ hình kết </b>
<b>hợp </b>


<b>Bảng 2. Hiệu quả can thiệp của nhóm nghiện chích ma tuý</b>



<b>Chỉ số</b> <b>Hành vi SDMT</b> <b>Dấu hiệu trầm cảm</b> <b>Mối quan hệ gia đình</b>


<b>Est.</b> <b>SE</b> <b>p</b> <b>Est.</b> <b>SE</b> <b>p</b> <b>Est.</b> <b>SE</b> <b>p</b>


<b>Đặc điểm NCMT</b>


Tuổi -0,001 0,001 0,663 0,019 0,078 0,807 0,016 0,068 0,818


Có gia đình -0,023 0,017 0,182 -1,845 0,901 0,042 -0,860 0,781 0,272


Học vấn -0,010 0,003 0,007 -0,444 0,193 0,023 0,058 0,174 0,737


Thất nghiệp 0,012 0,014 0,384 1,543 0,834 0,066 -0,191 0,825 0,817
Năm SDMT -0,002 0,002 0,340 -0,122 0,101 0,227 0,017 0,089 0,848
Nhiễm HIV -0,022 0,019 0,251 -0,365 1,018 0,720 0,902 0,916 0,326


<b>So sánh kết quả</b>


So sánh ban đầu -0,029 0,020 0,140 0,379 1,081 0,726 1,595 1,015 0,118
Sau can thiệp


3 tháng -0,015 0,017 0,390 -5,118 1,007 0,000 4,923 1,042 0,000


6 tháng -0,009 0,016 0,581 -3,674 1,019 0,000 3,075 1,202 0,011


</div>
<span class='text_page_counter'>(6)</span><div class='page_container' data-page=6>

Với người NCMT, số liệu không cho
thấy can thiệp có hiệu quả đáng kể vềhành vi
SDMT. So với nhóm đối chứng, nhóm can
thiệp có dấu hiệu trầm cảm giảm đáng kể sau 3


tháng (khác biệt về mức độ giảm kể từ đánh giá
ban đầu giữa nhóm can thiệp và đối chứng là
5,118; p<0.0001) vàsau 6 tháng (khác biệt ước
tính=3,674; p=0.0004) sau khi phân tích mơ


hình kết hợp với các yếu tố tuổi, tình trạng hơn
nhân, học vấn, việc làm, thời gianSDMT và tình
trạng nhiễm HIV. Mức độ dấu hiệu trầm cảm của
nhóm NCMT có liên quan tiêu cực tới các yếu tố
như đã có gia đình (p=0.042) và có học vấn hơn
(p=0.023). Mối quan hệ gia đình được cải thiện
đáng kể sau 3 tháng (4,923; p<0.0001) và sau 6
tháng (3,075; p=0.011) ở nhóm can thiệp.


<b>Bảng 3. Hiệu quả can thiệp của nhóm thành viên gia đình</b>


<b>Chỉ số</b> <b>Đối mặt với thách thức</b> <b>Dấu hiệu trầm cảm</b> <b>Mối quan hệ gia đình</b>


<b>Est.</b> <b>SE</b> <b>p</b> <b>Est.</b> <b>SE</b> <b>p</b> <b>Est.</b> <b>SE</b> <b>p</b>


<b>Đặc điểm TVGĐ</b>


Giới -0,956 0,934 0,307 -1,272 1,089 0,244 -0,877 1,355 0,518


Tuổi 0,054 0,023 0,020 0,109 0,027 0,000 -0,031 0,033 0,346


Hôn nhân 0,782 0,635 0,220 0,159 0,730 0,288 -1,473 0,914 0,109


Học vấn 0,101 0,079 0,199 -0,085 0,092 0,352 0,155 0,114 0,175



Việc làm -0,416 0,598 0,488 -0,297 0,677 0,662 1,259 0,853 0,142


<b>So sánh kết quả</b>


So sánh ban đầu 0,661 0,744 0,375 -1,084 0,8506 0,2045 2,069 1,066 0,054


<b>Tác động can thiệp </b>


3 tháng 1,735 0,794 0,030 -1,536 0,872 0,080 3,945 1,111 0,000


6 tháng 0,494 0,803 0,539 -3,681 0,882 0,000 3,850 1,124 0,001


<i>NCMT-Nghiện chích ma túy; TVGĐ-Thành viên gia đình</i>
Với TVGĐ, sau khi phân tích với các yếu
tố giới tính, tuổi, học vấn, tình trạng hơn nhân,
việc làm, cho thấy mức độ đối phó khó khăn
có sự cải thiện đáng kể sau 3 tháng ở nhóm
can thiệp (1,735; SE=0.794; p=0.030). Hiệu
quả can thiệp giảm dấu hiệu trầm cảm tăng lên
sau 6 tháng (Est=3,681; SE=0.882; p<0.0001).
Quan hệ gia đình tăng ở cả sau 3 tháng và sau 6
tháng. TVGĐ lớn tuổi hơn thể hiện mức độ đối
phó với khó khăn tốt hơn (p=0,020) và mức độ
dấu hiệu trầm cảm cao hơn (p<0,0001).


<b>IV. BÀN LUẬN</b>


Mơ hình can thiệp thử nghiệm này được
thực hiện lần đầu tiên ở Việt Nam nhằm nâng
cao sức khỏe tinh thần và mối quan hệ gia đình


cho cả người NCMT và TVGĐ. Chương trình
can thiệp được người tham gia hưởng ứng khi
gần như 100% người NCMT và TVGĐ tham


thiệp (là cán bộ y tế cơ sở) cũng đánh giá cao
quy trình và nội dung đã áp dụng cho can thiệp,
khi họ đã học được các kỹ năng và kinh nghiệm
khi giao tiếp với người NCMT và TVGĐ.


</div>
<span class='text_page_counter'>(7)</span><div class='page_container' data-page=7>

Trong văn hóa gia đình như ở Việt Nam, tác
động của việc SDMT cần được đánh giá lên
cả gia đình chứ không chỉ là thách thức của cá
nhân người SDMT. Kết quả nghiên cứu này
cho thấy mối liên kết giữa mối quan hệ gia
đình và việc SDMT của các cá nhân. Tham gia
chương trình can thiệp thử nghiệm này đã giúp
cho TVGĐ của những người NCMT cải thiện
kỹ năng đối phó với hồn cảnh bất lợi, giảm
dấu hiệu trầm cảm và củng cố mối quan hệ gia
đình. Các chương trình can thiệp trong tương
lai nên hướng đến việc khai thác sức mạnh của
gia đình để giải quyết những thách thức liên
quan đến SDMT.


Có một số hạn chế cần lưu ý trong nghiên
cứu này. Đầu tiên là cỡ mẫu nhỏ và thời gian
theo dõi ngắn, do đó kết quả nghiên cứu chưa
đưa ra được bằng chứng thuyết phục về hiệu
quả của can thiệp, đặc biệt là về thay đổi hành
vi SDMT. Thứ hai là đo lường kết quả đầu ra


dựa trên số liệu tự báo cáo của người tham gia,
nên các vấn đề như sai số do yếu tố xã hội hoặc
sai số nhớ lại có thể xẩy ra. Cần lưu ý khi suy
rộng kết quả của nghiên cứu này cho các nhóm
NCMT ở khu vực địa lý khác, người NCMT
từ chối tham gia, những người NCMT không
nhận dịch vụ ở trạm y tế, hoặc những người
NCMT khơng cơng khai tình trạng sử dụng ma
túy của mình với cán bộ y tế. Điểm cuối cùng
là do khơng có hoạt động nào dành cho nhóm
đối chứng, nên khó để thấy rõ được sự thay đổi
là do hiệu quả của can thiệp hay do điều kiện
khác ở nhóm can thiệp. Mặc dù tồn tại những
hạn chế như trên, những phát hiện tích cực của
nghiên cứu cũng đã chỉ ra hiệu quả tích cực của
can thiệp cho nhóm NCMT và TVGĐ. Điểm
cần nhấn mạnh cho những người xây dựng các
chương trình can thiệp trong tương lai là tầm
quan trọng của TVGĐ đối với người NCMT
cũng như vai trò của họ trong hoạt động can
thiệp giảm hại để đạt được hiệu quả can thiệp
phù hợp và bền vững.


<b>V. KẾT LUẬN</b>



Chương trình can thiệp thử nghiệm có tác
động đối với nhóm NCMT trong việc giảm dấu
hiệu trầm cảm (khác biệt về mức độ giảm kể từ
đánh giá ban đầu giữa nhóm can thiệp và đối
chứng sau 3 tháng là 5,118; p<0.0001 và sau


6 tháng là 3,674; p=0.0004) và cải thiện mối
quan hệ gia đình (sau 3 tháng 4,923; p<0.0001
và sau 6 tháng (3,075; p=0.011) ở nhóm can
thiệp).


Nhóm TVGĐ tăng kỹ năng đối mặt với khó
khăn (sau 3 tháng ở nhóm can thiệp 1,735;
p=0.030), giảm dấu hiệu trầm cảm (sau 6 tháng
3,681; p<0.0001)và tăng mối quan hệ gia đình
(sau 3 tháng 3,945; p<001 và sau 6 tháng 3,850;
p=0,001).


<b>TÀI LIỆU THAM KHẢO</b>



1. Ủy ban Quốc gia phòng, chống AIDS và phòng,
chống tệ nạm ma túy, mại dâm. Báo cáo tiến độ
phòng, chống AIDS ở Việt Nam giai đoạn
2010-2011. NXB Hồng Đức, 2012.


2. Hammett, T. M., et al. Patterns of HIV prevalence
and HIV risk behaviors among injection drug users
prior to and 24 months following implementation of
cross-border HIV prevention interventions in
north-ern Vietnam and southnorth-ern China. AIDS Education
and Prevention2006; 18: 97-115.


3. Go, V. F., et al. Characteristics of high-risk
HIV-pos-itive IDUs in Vietnam: Implications for future
inter-ventions. Substance Use & Misuse2011; 46:
381-389.



4. Zung, W. W. A Self-rating Depression Scale.
Ar-chives of General Psychiatry1965; 12: 63-70.
5. Li, L., et al. Facing HIV as a family: predicting


de-pressive symptoms with correlated responses.
Jour-nal of Family Psychology, 2011; 25; 202-209.
6. Bloom, B. L., Naar, S. Self-report measures of


fam-ily functioning: Extensions of a factorial analysis.
Family Process1994; 33; 203–216.


7. Carver C. S. You want to measure coping but your
protocol’s too long: Consider the Brief COPE.
In-ternational Journal of Behavioral Medicine1994; 4:
92-100.


</div>
<span class='text_page_counter'>(8)</span><div class='page_container' data-page=8>

<b>EFFECTIVENESS OF AN INTEGRATED INTERVENTION FOR PEOPLE WHO </b>


<b>INJECT DRUG AND FAMILY MEMBERS IN PHU THO</b>



<b>Le Anh Tuan1<sub>, Pham Duc Manh</sub>2<sub>, Nguyen Anh Tuan</sub>1</b>


<i><b>1</b><b><sub>National Institute of Hygiene and Epidemiology, Hanoi</sub></b></i>


<i><b>2</b><b><sub>Vietnam Administration of HIV/AIDS Control, Minitry of Health</sub></b></i>


Family plays an important role and has
affect on the lives of people who inject drug
(PWID) in Vietnam. This study examined the
intervention effects of an integrated


interven-tion for both PWID and their family members
(FM) through a randomized controlled trial with
83 PWID and 83 FMs in 4 communes of Phu
Tho province. The intervened PWID and
FM-sparticipated inintervention sessions aiming to
improve their mental health, family relations and
to promote positive behavioral change.
Assess-ments at pre and post intervention, compared to
control group showed a significant reduction in
depressive symptoms (at 3 months estimated
dif-ference in reduction from baseline between
inter-vention and standard care=5.118; p<0.0001 and


at 6 months=3.674; p=0.0004) and improvement
in family relations for PWID (at 3months=4.923;
p<0.0001 and 6months=3.075; p=0.011). FMs
in the intervention group reported better coping
skills(at 3months, estimated difference in
im-provement=1.735; p=0.030), lower depressive
symptoms (at 6months=3.682; p<0.0001)and
im-proved family relations(3months=3.945; p<0.001
and 6months=3.850; p=0.001). No intervention
effect was observed for PWID in terms of
behav-ioral change. This study also indicated the
impor-tance of involving FMs in drug use intervention
efforts.


</div>

<!--links-->

×