Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.17 MB, 91 trang )
<span class='text_page_counter'>(1)</span>BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC THĂNG LONG. NGUYỄN THỊ NỮ. KIẾN THỨC, THỰC HÀNH PHÒNG CHỐNG BỆNH TAY CHÂN MIỆNG CỦA NGƯỜI CHĂM SÓC TRẺ TẠI BỆNH VIỆN VINMEC NĂM 2019 VÀ MỘT SỐ YẾU TỐ LIÊN QUAN. LUẬN VĂN THẠC SĨ Y TẾ CÔNG CỘNG. Hà Nội - 2020.
<span class='text_page_counter'>(2)</span> BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC THĂNG LONG KHOA: KHOA HỌC SỨC KHỎE BỘ MÔN: Y TẾ CÔNG CỘNG. NGUYỄN THỊ NỮ. KIẾN THỨC, THỰC HÀNH PHÒNG CHỐNG BỆNH TAY CHÂN MIỆNG CỦA NGƯỜI CHĂM SÓC TRẺ TẠI BỆNH VIỆN VINMEC NĂM 2019 VÀ MỘT SỐ YẾU TỐ LIÊN QUAN Chuyên ngành: Y TẾ CÔNG CỘNG Mã số: 8720701. LUẬN VĂN THẠC SĨ Y TẾ CÔNG CỘNG. NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:. TS. Nguyễn Xuân Tùng. Hà Nội – 2020. Thang Long University Library.
<span class='text_page_counter'>(3)</span> LỜI CẢM ƠN Hoàn thành được luận văn này, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành đến: - Quý Thầy cô trong Ban Giám hiệu Trường Đại học Thăng Long - Quý Thầy cô trong Ban đào tạo sau đại học Đại học Thăng Long - Quý Thầy cô trong Khoa Khoa học sức khỏe Trường Đại học Thăng long - Phòng đào tạo sau đại học Trường Đại học Thăng Long Về sự quan tâm và giúp đỡ tận tình cho tôi trong thời gian học tập và thực hiện luận văn này. Đặc biệt, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến TS. Nguyễn Xuân Tùng đã tận tình hướng dẫn, giúp đỡ cho tôi để luận văn này được hoàn thành. Xin chân thành cảm ơn - Bệnh viện Đa khoa Quốc tế Vinmec Times City - Khoa Nhi 2, Bệnh viện Đa khoa Quốc tế Vinmec Times City - Các đồng nghiệp trong Khoa Nhi 2 Đã chia sẻ kinh nghiệm và giúp đỡ tôi trong quá trình thực hiện luận văn. Tôi xin được cảm ơn tất cả các bệnh nhi cùng các bà mẹ đã đồng ý hợp tác trong quá trình thực hiện luận văn. Tôi vô cùng biết ơn đến những người thân trong gia đình, bạn bè và đồng nghiệp đã động viên, giúp đỡ và chia sẻ những khó khăn trong quá trình học tập để tôi có thể hoàn thành luận văn này. Tôi xin chân thành cám ơn! Hà Nội ngày 20 tháng 08 năm 2020. Nguyễn Thị Nữ.
<span class='text_page_counter'>(4)</span> LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đề tài luận văn này là công trình nghiên cứu của riêng tôi, do chính bản thân tôi thực hiện, tất cả số liệu trong luận văn này là trung thực, khách quan và chưa từng được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Nếu có gì sai trái tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm Hà Nội ngày 20 tháng 08 năm 2020 Người cam đoan. Nguyễn Thị Nữ. Thang Long University Library.
<span class='text_page_counter'>(5)</span> DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT Tiếng Việt. TCM. : Tay chân miệng (hand – foot – and mouth). EV. : Enterovirus. NCS. : Người chăm sóc. KT. : Kiến thức. TH. : Thực hành. SL. : Số lượng. YTCC. : Y tế công cộng. Tiếng Anh. KAP. Knowledge, Attitude, Practice. Kiến thức, thái độ, thực hành. PCR. Polymerase Chain Reaction. Phản ứng chuỗi polymerase. WHO. World Health Organization. Tổ chức Y tế Thế giới. SD. Standard deviation. Độ lệch tiêu chuẩn.
<span class='text_page_counter'>(6)</span> MỤC LỤC ĐẶT VẤN ĐỀ .................................................................................................. 1 CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN........................................................................... 3 1.1. Khái niệm và nguyên nhân gây bệnh ...................................................... 3 1.2. Đường lây truyền và cơ chế gây bệnh TCM........................................... 5 1.3. Đặc điểm dịch tễ học............................................................................... 6 1.4. Đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng, chẩn đoán và điều trị bệnh TCM..... 8 1.4.1. Triệu chứng lâm sàng ....................................................................... 8 1.4.2. Triệu chứng cận lâm sàng ................................................................ 8 1.4.3. Chẩn đoán ......................................................................................... 9 1.4.4. Điều trị ........................................................................................... 10 1.4.5. Phòng bệnh...................................................................................... 11 1.4.5.1. Nguyên tắc phòng bệnh: ........................................................... 11 1.4.5.2. Phòng bệnh tại các cơ sở y tế: ................................................. 11 1.4.5.3. Phòng bệnh ở cộng đồng: ......................................................... 11 1.5. Những nghiên cứu về bệnh chân tay miệng ........................................ 11 1.5.1. Các nghiên cứu về kiến thức, thực hành với bệnh tay chân miệng trên thế giới ...................................................................................................... 12 1.5.1.1. Kiến thức về bệnh tay chân miệng ........................................... 12 1.5.1.2. Thực hành về bệnh tay chân miệng .......................................... 19 1.5.1.3. Xác định mối liên quan với bệnh tay chân miệng .................... 21 1.5.2. Các nghiên cứu về kiến thức, thực hành với bệnh TCM tại Việt Nam ................................................................................................................... 23 1.6. Tổng quan địa điểm nghiên cứu............................................................ 25 1.6.1. Một số nét về bệnh viện Đa khoa Quốc tế Vinmec Times City ..... 25 1.6.2. Một số nét về Đơn nguyên Nhi 2- Bệnh viện Đa khoa Quốc tế Vinmec Times City ................................................................................................. 26 CHƯƠNG 2. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU ......... 27 2.1. Đối tượng, địa điểm, thời gian nghiên cứu ........................................... 27 2.1.1. Đối tượng nghiên cứu ..................................................................... 27 2.1.2. Địa điểm nghiên cứu ....................................................................... 27. Thang Long University Library.
<span class='text_page_counter'>(7)</span> 2.1.3. Thời gian nghiên cứu: ..................................................................... 27 2.2. Phương pháp nghiên cứu ................................................................... 27 2.2.1. Thiết kế nghiên cứu ........................................................................ 27 2.2.2. Cỡ mẫu và cách chọn mẫu .............................................................. 27 2.3. Các biến số, chỉ số nghiên cứu .......................................................... 28 2.4. Phương pháp thu thập số liệu ................................................................ 30 2.4.1. Công cụ thu thập thông tin.............................................................. 30 2.4.2. Kỹ thuật thu thập thông tin ............................................................. 30 2.4.3. Quy trình thu thập thông tin và sơ đồ nghiên cứu .......................... 30 2.5. Xử lý số liệu .......................................................................................... 31 2.6. Sai số và biện pháp khắc phục .............................................................. 31 2.7. Đạo đức trong nghiên cứu ..................................................................... 31 2.8. Hạn chế của nghiên cứu ........................................................................ 31 CHƯƠNG 3: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU ................................................... 33 3.1. Thông tin chung của đối tượng nghiên cứu .......................................... 33 3.2. Kiến thức, thực hành của NCS trẻ với bệnh TCM ............................... 35 3.2.1. Kiến thức của NCS về bệnh TCM .................................................. 35 3.2.2. Thực hành của NCS về bệnh TCM................................................. 38 3.3. Một số yếu tố liên quan đến kiến thức và thực hành của NCS bệnh nhi ...................................................................................................................... 43 CHƯƠNG 4: BÀN LUẬN ............................................................................ 51 4.1. Thông tin chung của đối tượng nghiên cứu .......................................... 51 4.2. Kiến thức và thực hành của NCS về bệnh TCM .................................. 52 4.2.1. Kiến thức của NCS về bệnh TCM .................................................. 52 4.2.2. Thực hành của NCS về phòng chống bệnh TCM ........................... 58 4.3. Một số yếu tố liên quan đến kiến thức, thực hành phòng bệnh TCM của đối tượng nghiên cứu ................................................................................ 63 4.3.1. Mối liên quan về kiến thức bệnh TCM của đối tượng nghiên cứu. 63 4.3.2. Mối liên quan đến thực hành phòng bệnh TCM của đối tượng nghiên cứu ............................................................................................................. 65 KẾT LUẬN .................................................................................................... 67.
<span class='text_page_counter'>(8)</span> 1. Kiến thức, thực hành phòng chống bệnh tay chân miệng của người chăm sóc trẻ tại Khoa Nhi 2, Bệnh viện Vinmec năm 2019 ................................. 67 1.1. Kiến thức phòng chống bệnh TCM của NCS trẻ .................................. 67 1.2. Thực hành về phòng chống bệnh TCM của NCS trẻ............................ 67 2. Một số yếu tố liên quan đến kiến thức, thực hành phòng chống bệnh tay chân miệng của đối tượng nghiên cứu ......................................................... 68 2.1. Một số yếu tố liên quan đến kiến thức phòng chống bệnh TCM của NCS trẻ...................................................................................................... 68 2.2. Một số yếu tố liên quan đến thực hành phòng chống bệnh TCM của NCS trẻ...................................................................................................... 68 KHUYẾN NGHỊ............................................................................................ 69 TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................ 70. Thang Long University Library.
<span class='text_page_counter'>(9)</span> DANH MỤC BẢNG, BIỂU ĐỒ, HÌNH Danh mục bảng Bảng 2.1. Bảng biến số và chỉ số nghiên cứu ................................................. 28 Bảng 3.1. Quan hệ với bệnh nhi của người chăm sóc (n= 380)...................... 33 Bảng 3.2. Đặc điểm nhóm tuổi của người chăm sóc (n= 380) ....................... 33 Nhận xét: ......................................................................................................... 33 Bảng 3.3. Đặc điểm giới của người chăm sóc (n= 380) ................................. 33 Bảng 3.4. Đặc điểm dân tộc của người chăm sóc (n= 380) ............................ 34 Nhận xét: ......................................................................................................... 34 Bảng 3.5. Đặc điểm người có con dưới 5 tuổi (n= 380) ................................. 34 Nhận xét: ......................................................................................................... 34 Bảng 3.6. Đặc điểm thu nhập bình quân đầu người của người chăm sóc (n= 380).................................................................................................................. 34 Bảng 3.7. Đặc điểm tiếp cận phương tiện truyền thông của người chăm sóc (n= 380) ........................................................................................................... 35 Bảng 3.8. Bảng thể hiện những NCS đã từng nghe nói về bệnh TCM(n=380) ......................................................................................................................... 35 Bảng 3.9. Tiếp cận nguồn thông tin của những NCS về bệnh TCM .............. 36 Bảng 3.10. Kiến thức về khả năng lây bệnh, đường lây truyền, biểu hiện bệnh và kiến thức chăm sóc trẻ khi trẻ mắc bệnh TCM của NCS (n=380) ............. 36 Bảng 3.11. Kiến thức về phòng bệnh TCM của NCS ..................................... 37 Bảng 3.12. Mức độ kiến thức về bệnh TCM của NCS( n=380) ..................... 38 Bảng 3.13. Thực hành phòng bệnh TCM của NCS (n=380) .......................... 38 Bảng 3.14. Thực hành rửa tay cho trẻ của NCS( n=380) ............................... 39 Bảng 3.15. Thực hành rửa tay của NCS( n=380)............................................ 40 Bảng 3.16. Thực hành vệ sinh đồ đạc trong nhà của NCS ............................. 40 Bảng 3.17. Cách xử trí của NCS khi có trẻ mắc TCM (n= 96) ...................... 42 Bảng 3.18. Điểm quan sát thực hành của NCS có trẻ mắc TCM(n=47) ........ 42 Bảng 3.19. Một số yếu tố liên quan đến kiến thức về bệnh TCM .................. 43.
<span class='text_page_counter'>(10)</span> Bảng 3.20. Một số yếu tố liên quan đến thực hành rửa tay cho trẻ của NCS về bệnh TCM ....................................................................................................... 45 Bảng 3.21. Một số yếu tố liên quan đến thực hành rửa tay của NCS ............. 46 Bảng 3.22. Một số yếu tố liên quan đến thực hành vệ sinh môi trường của NCS ................................................................................................................. 48 Bảng 3.23. Một số yếu tố liên quan đến thực hành xử trí khi trẻ mắc TCM của NCS ................................................................................................................. 49 Danh mục hình ảnh Hình 1. Một số hình ảnh về hình thể và cấu trúc của vi rút Coxsackie gây bệnh TCM .................................................................................................................. 4 Hình 2. Lý do hay gặp ở trẻ vì trẻ mút tay, dùng chung đồ chơi ...................... 7. Thang Long University Library.
<span class='text_page_counter'>(11)</span> 1 ĐẶT VẤN ĐỀ Bệnh tay chân miệng là bệnh truyền nhiễm lây từ người sang người, dễ gây thành dịch do các vi rút đường ruột (enterovirus) gây ra. Bệnh thường gặp ở trẻ sơ sinh và trẻ nhỏ dưới 5 tuổi. Các triệu chứng điển hình của bệnh tay chân miệng bao gồm sốt, lở miệng và phát ban [21]. Hầu hết các ca bệnh đều diễn biến nhẹ. Tuy nhiên ở một số trường hợp, bệnh có thể diễn biến nặng và gây biến chứng nguy hiểm như viêm não - màng não, viêm cơ tim, phù phổi cấp dẫn đến tử vong nên cần được phát hiện sớm, điều trị kịp thời. Bệnh xảy ra quanh năm và lây truyền theo đường tiêu hóa, nguyên nhân là do vệ sinh cá nhân, vệ sinh môi trường yếu kém, đặc biệt là kỹ năng vệ sinh cho trẻ, chưa thực hiện rửa tay với xà phòng thường xuyên [10]. Theo Tổ chức Y tế thế giới, bệnh tay chân miệng gặp ở các quốc gia khu vực Tây Thái Bình Dương như: Trung Quốc, Nhật Bản, Ma Cao (Trung Quốc) và phổ biến tại nhiều nước châu Á. Đặc biệt tại Malaysia: Ngày 23/8/2018, Bộ trưởng Bộ Y tế Malaysia thông báo từ đầu năm 2018 đến ngày 14/8/2018, Malaysia đã ghi nhận 51.147 trường hợp mắc bệnh tay chân miệng, trong đó có 02 trường hợp tử vong. Trong số các trường hợp mắc, có 90% số mắc ở trẻ dưới 6 tuổi. Đã có 701 cơ sở bao gồm trường học, trung tâm chăm sóc trẻ và trường mầm non đã bị đóng cửa do căn bệnh này và một số trường trong số đó cũng đã được mở trở lại theo từng giai đoạn. Bộ Y tế Malaysia đã thực hiện các biện pháp y tế công cộng, bao gồm tăng cường giám sát, tổ chức các chiến dịch truyền thông và tăng cường các biện pháp khử trùng, đặc biệt là đồ chơi, bề mặt sàn, bàn tại các trường học… để ngăn ngừa sự lây lan của dịch bệnh [4]. Tại Việt Nam, bệnh lưu hành và gặp tại hầu hết 63 tỉnh, thành phố, thường ghi nhận cao vào tháng 9 đến tháng 11 hàng năm, đặc biệt là mùa đầu năm học mới. Theo báo cáo của hệ thống giám sát bệnh truyền nhiễm, trong 9 tháng đầu năm 2018, cả nước ghi nhận 53.529 trường hợp mắc tay chân miệng,.
<span class='text_page_counter'>(12)</span> 2 trong đó có 25.845 trường hợp nhập viện và đã có 06 trường hợp tử vong tại 5 tỉnh, thành phố khu vực phía Nam. So với cùng kỳ năm 2017, số mắc cả nước giảm 25,3%, số trường hợp nhập viện giảm 20,1%, tuy nhiên một số tỉnh, thành phố ghi nhận số mắc tích lũy cao và gia tăng nhanh như TP. Hồ Chí Minh, Đồng Nai, Bình Dương, Đồng Tháp, Bà Rịa - Vũng Tàu, Long An, Đà Nẵng, Ninh Thuận, Quảng Ngãi, Tây Ninh, Hà Nội. Số mắc tay chân miệng chủ yếu ghi nhận ở khu vực miền Nam 41.218 trường hợp (chiếm 77%), miền Bắc 5.984 trường hợp (chiếm 11,2%), miền Trung 5.392 trường hợp (chiếm 10,1%) và Tây Nguyên 935 trường hợp (chiếm 1,7%). Số mắc tay chân miệng chủ yếu gặp ở trẻ dưới 10 tuổi (chiếm 99,5%), trong đó hay gặp ở nhóm từ 1-5 tuổi, tuổi trẻ đi nhà trẻ và mẫu giáo (chiếm 79%) và dưới 1 tuổi (chiếm 17%). Dự báo dịch bệnh tay chân miệng có nguy cơ gia tăng trong thời gian tới đây do tính chất lây truyền, đặc biệt trong mùa tựu trường, trẻ tập trung vào năm học mới, điều kiện thời tiết thuận lợi, điều kiện vệ sinh chưa đảm bảo là yếu tố thuận lợi cho sự lây lan và phát triển của dịch bệnh [4]. Tạị bệnh viện Vinmec 6 tháng cuối năm 2018 ghi nhận 449 trường hợp khám và nhập viện vì tay chân miệng. Cho đến nay vẫn chưa có bất cứ một nghiên cứu nào về kiến thức, thực hành phòng chống bệnh của những người chăm sóc trẻ được triển khai tại đây. Do đó, chúng tôi tiến hành đề tài “Kiến thức, thực hành phòng chống bệnh tay chân miệng của người chăm sóc trẻ tại Bệnh viện Vinmec năm 2019 và một số yếu tố liên quan” với những mục tiêu sau: 1. Đánh giá kiến thức, thực hành phòng chống bệnh tay chân miệng của người chăm sóc trẻ tại Khoa Nhi 2, Bệnh viên Vinmec năm 2019. 2. Phân tích một số yếu tố liên quan đến kiến thức, thực hành phòng chống bệnh tay chân miệng của đối tượng nghiên cứu.. Thang Long University Library.
<span class='text_page_counter'>(13)</span> 3 CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN 1.1. Khái niệm và nguyên nhân gây bệnh Bệnh được mô tả lần đầu tại Toronto-Canada năm 1957. Đến năm 1959, trong vụ dịch tại Birmingham (Anh) bệnh đã được đặt tên là “hand – foot – and mouth disease” ( HFMD) - Bệnh tay chân miệng TCM với tổn thương đặc hiệu ở tay, chân và miệng, bệnh thường gặp ở trẻ em [23] . Bệnh tay chân miệng do một nhóm virus thuộc nhóm Enterovirus gây nên. Enterovirusbao gồm 4 nhóm: poliovirus, Coxsackie A virus (CA), Coxsackie B virus (CB) và Echovirus. Các serotyp thuộc loài A gồm: EV68, EV71, EV76, EV89, EV90, EV91 và EV92. Trong khi các serotyp EV khác thì thuộc dưới loài Enterovirus B hoặc C. Týp EV71 là một trong những tác nhân gây nên bệnh TCM và đôi khi chúng còn có khả năng gây nên bệnh ở hệ thần kinh trung ương. Khả năng gây bệnh của týp EV71 đã được minh chứng là lần đầu tiên (1969) phân lập được chúng ở tổ chức thần kinh trung ương của một số trường hợp tại California (Mỹ) [9]. Loài Coxsackievirus thuộc họ Picornaviridae gồm 29 typ. Chúng khác biệt với các Enterovirus khác ở khả năng gây bệnh ở chuột ổ, các enterovirus khác thì hiếm hoặc không. Chúng chia thành 2 nhóm: nhóm A và nhóm B có khả năng gây bệnh ở chuột khác nhau. Chúng gây nhiều chứng bệnh khác nhau: Coxsackie A gây viêm họng, phát ban ngòai da, bệnh tay chân miệng, gây viêm kết mạc chảy máu, viêm màng não vô khuẩn...,Coxsackie B gây viêm cơ tim ở trẻ sơ sinh, viêm đường hô hấp trên, viêm màng ngoài tim, viêm màng trong tim... [9]. Người ta cũng đã cho biết rằng týp virus EV 71 đã xuất hiện ở Đài Loan vào năm 1968 cũng như đã từng xuất hiện ở các nước Đông Nam Á như: Philipines, Indonesia, Singapore. Tuy rằng đây không phải là một týp enterovirus mới nhưng đặc tính của týp virus này có độc tính rất mạnh và có.
<span class='text_page_counter'>(14)</span> 4 khả năng làm tổn thương tổ chức thần kinh trung ương gây ra những bệnh cảnh lâm sàng nặng và hậu quả để lại xấu, hơn nữa nước ta lại nằm trong khu vực này cho nên cần cảnh giác và thận trọng khi có bệnh TCM xuất hiện [9]. EV71 có 4 nhóm gen là nhóm A, B, C và D. Nhóm A và D bao gồm một thành viên. Thành viên duy nhất của nhóm A là chủng RrCr. Nhóm B được chia làm 6 dưới nhóm (subgenotipe): B1-5 và BO. Nhóm C cũng được chia thành 5 dưới nhóm (subgenotype): C1-5 Coxsackie virus được chia thành 2 nhóm A và B. Nhóm A có 24 dưới nhóm có thể gây bệnh lý ở người trong đó CA16 là một trong những căn nguyên quan trọng gây bệnh TCM. Ngoài ra một số dưới nhóm khác như A5, A6, A7, A9, A10 cũng gây bệnh này. Coxsackie nhóm B có 6 dưới nhóm trong đó B1, B2, B3,B5 cũng là nguyên nhân gây bệnh TCM [15].. Hình 1. Một số hình ảnh về hình thể và cấu trúc của vi rút Coxsackie gây bệnh TCM Khả năng tồn tại trong môi trường bên ngoài: EV bị đào thải ra ngoại cảnh từ phân, dịch hắt hơi, sổ mũi và dịch trong nốt phỏng. EV bị bất hoạt bởi nhiệt độ 56oC trong vòng 30 phút và tia cực tím hoặc tia gama. EV chịu được pH với phổ rộng từ 3-9. EV Bị bất hoạt bởi 2% Sodium hyproclorite (Nước Javen), Chlorine tự do. Không hoặc ít bị bất hoạt bởi các chất hòa tan lipid như: Cồn, Chloroform, phenol, Ether. Ở nhiệt độ lạnh -40oC, EV sống được 2-3 tuần [15].. Thang Long University Library.
<span class='text_page_counter'>(15)</span> 5 1.2. Đường lây truyền và cơ chế gây bệnh TCM Bệnh xảy ra ở mọi lứa tuổi nhưng thường là trẻ em và người là nguồn lây bệnh duy nhất. Bệnh lây truyền chủ yếu theo đường tiêu hóa phân – miệng, dịch tiết nơi tổn thương – miệng và có thể lây do tiếp xúc trực tiếp với dịch tiết từ mũi, hầu, họng, nước bọt, dịch tiết từ các nốt phỏng của người bệnh hoặc tiếp xúc gián tiếp với các chất tiết của người bệnh trên đồ chơi, bàn ghế, dụng cụ sinh hoạt, nền nhà…Bệnh TCM xảy ra rải rác quanh năm nhưng thường mắc cao hơn vào mùa hè và mùa thu. Bệnh xuất hiện nhiều ở các nước có điều kiện vệ sinh kém. Sau khi xâm nhập vào cơ thể, các enterovirus nhân lên trong các mô bạch huyết của khoang hầu họng (amidan) và ruột non (mãng Peyer), sau đó đến các hạch bạch huyết khu vực (hạch mạc treo ruột), gây tình trạng virus máu nhẹ. Đa phần nhiễm virus được giới hạn ở đây và không gây ra triệu chứng gì. Với EV71, tình trạng nhiễm trùng lan rộng khi virus lan ra hệ võng nội mô (gan, lách, tủy xương, và các hạch bạch huyết), lan đến tim, phổi, tuyến tụy, da, niêm mạc, thần kinh trung ương và trùng hợp thời kỳ khởi phát lâm sàng [34]. Trong giai đoạn này, có thể phát hiện được tác nhân gây bệnh ở phân, chất dịch ngoáy họng, dịch mụn nước của bệnh nhân. Theo một nghiên cứu, tỷ lệ phân lập được enterovirus ở bệnh phẩm là dịch ngoáy họng là 49% (288/592); ở dịch mụn nước là 48% (169/333); ở bệnh nhân không có biểu hiện bóng nước, bệnh phẩm ngoáy họng và phân cho kết quả dương tính với enterovirus là 53% (138/259) [30]. Như vậy, thời kỳ lây truyền bệnh TCM bắt đầu một vài ngày trước khi phát bệnh, mạnh nhất trong tuần đầu của bệnh. Virus có thể tiếp tục được bài tiết từ dịch hầu họng hoặc phân đến sau 2 tuần, cá biệt có thể tới 11 tuần kể từ khi khởi bệnh [25]..
<span class='text_page_counter'>(16)</span> 6 1.3. Đặc điểm dịch tễ học Các vụ bùng phát dịch bệnh tay chân miệng (TCM) cứ vài năm lại xảy ra một lần ở nhiều khu vực khác nhau trên thế giới, và trong thập niên vừa qua đã có báo cáo về nhiều vụ bùng phát dịch TCM ở các quốc gia trong khu vực Tây Thái Bình Dương. Những nước châu Á ghi nhận có số ca mắc TCM tăng nhanh trong thời gian gần đây gồm Trung Quốc, Hồng Kông (Trung Quốc), Hàn Quốc, Malaysia, Singapore, Thái Lan, Đài Loan (Trung Quốc) và Việt Nam [19]. Nhiều vụ dịch lớn và nhỏ liên quan đến nhiễm EV71 đã được báo cáo trên toàn thế giới kể từ đầu những năm 1970 [34], [32]. Trẻ em đã bị ảnh hưởng phổ biến nhất trong những đợt bùng phát này, và biểu hiện lâm sàng của các trường hợp chủ yếu là điển hình của bệnh TCM, với sốt, mụn nước ở da tay, chân và mụn nước ở miệng. Tuy nhiên, các trường hợp liên quan đến biến chứng hệ thống thần kinh trung ương (CNS) và / hoặc phù phổi cũng đã được quan sát [29]. Một ví dụ, trong năm 2009, vụ dịch ở Trung Quốc đại lục liên quan đến 1.155.525 trường hợp mắc TCM, trong đó 13.810 trường hợp nghiêm trọng và 353 trường hợp tử vong. Tại Việt Nam bệnh TCM xảy ra rải rác quanh năm ở hầu hết các địa phương nhưng phần lớn tại các tỉnh phía Nam. Một vụ dịch lớn đã xảy ra vào năm 2011 với 113.121 trường hợp mắc và 170 ca tử vong. Bệnh có quanh năm, tăng mạnh ở 2 thời điểm, từ tháng 3-5 và tháng 9-12 trong năm [15]. Bệnh gặp ở trẻ em dưới 10 tuổi, nhiều hơn ở trẻ dưới 5 tuổi, tập trung ở dưới 3 tuổi, đỉnh cao là 1-2 tuổi [15]. Nguồn lây bệnh là người bệnh và người lành mang vi rút. Tác nhân gây bệnh có trong các dịch tiết từ các nốt phỏng hoặc phân của người bệnh [15]. Thời gian ủ bệnh từ 3-7 ngày. Thời kỳ lây lan là vài ngày trước khi phát bệnh, mạnh nhất trong đầu tuần của bệnh và có thể kéo dài vài tuần sau đó,. Thang Long University Library.
<span class='text_page_counter'>(17)</span> 7 thậm chí sau khi người bệnh hết triệu chứng. Vi rút có khả năng đào thải qua phân trong vòng 2 đến 4 tuần, cá biệt có thể tới 12 tuần sau [15]. Bệnh lây truyền qua đường tiêu hóa phân miệng, thức ăn, nước uống, bàn tay của trẻ hoặc của người chăm sóc trẻ, các đồ dùng. Nhưng chủ yếu lây lan qua tiếp xúc trực tiếp với dịch tiết từ mũi, hầu, họng, nước bọt, dịch tiết từ các nốt phỏng hoặc tiếp xúc với chất tiết và bài tiết của người bệnh, trên dụng cụ sinh hoạt, đồ chơi, bàn ghế, nền nhà. Đặc biệt khi người bệnh mắc bệnh đường hô hấp tiếp xúc trực tiếp từ người – người qua các dịch tiết đường hô hấp, hạt nước bọt, việc hắt hơi, ho, nói chuyện sẽ tạo điều kiện cho vi rút lây lan trực tiếp từ người sang người. một số yếu tố có thể làm gia tang sự lây truyền và bùng phát dịch bao gồm: mật độ dân số cao, sống chật chội, điều kiện vệ sinh kém, thiếu nhà vệ sinh, thiếu hoặc không có nước sạch phục vụ cho sinh hoạt hang ngày [15]. Bệnh TCM có tính cảm thụ cao, mọi người đều có tính cảm nhiễm với vi rút gây bệnh TCM, không phải tất cả mọi người nhiễm vi rút đều có biểu hiện bệnh mà phần lớn bệnh ở hình thái thể ẩn, không biểu hiện các triệu chứng, đây là nguồn lây nhiễm nguy hiểm, bệnh thường gặp ở trẻ em dưới 10 tuổi đặc biệt là trẻ em dưới 5 tuổi có tỷ lệ mắc cao hơn [15].. Hình 2. Lý do hay gặp ở trẻ vì trẻ mút tay, dùng chung đồ chơi.
<span class='text_page_counter'>(18)</span> 8 1.4. Đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng, chẩn đoán và điều trị bệnh TCM 1.4.1. Triệu chứng lâm sàng Giai đoạn ủ bệnh từ 3 - 7 ngày. Giai đoạn khởi phát trong 1 - 2 ngày với các triệu chứng như sốt nhẹ, mệt mỏi, đau họng, biếng ăn, tiêu chảy vài lần trong ngày. Giai đoạn toàn phát: Có thể kéo dài 3-10 ngày với các triệu chứng điển hình của bệnh, gồm [7]: - Loét miệng: vết loét đỏ hay phỏng nước đường kính 2-3 mm ở niêm mạc miệng, lợi, lưỡi, gây đau miệng, bỏ ăn, bỏ bú, tăng tiết nước bọt. - Phát ban dạng phỏng nước: Ở lòng bàn tay, lòng bàn chân, gối, mông; tồn tại trong thời gian ngắn (dưới 7 ngày) sau đó có thể để lại vết thâm, rất hiếm khi loét hay bội nhiễm. - Sốt nhẹ. - Nôn. Nếu trẻ sốt cao và nôn nhiều dễ có nguy cơ biến chứng: - Biến chứng thần kinh, tim mạch, hô hấp thường xuất hiện sớm từ ngày 2 đến ngày 5 của bệnh. - Giai đoạn lui bệnh: Thường từ 3-5 ngày sau, trẻ hồi phục hoàn toàn nếu không có biến chứng. Các thể lâm sàng: - Thể tối cấp - Thể cấp tính với bốn giai đoạn điển hình như trên. - Thể không điển hình 1.4.2. Triệu chứng cận lâm sàng - Công thức máu: Bạch cầu thường trong giới hạn bình thường. Bạch cầu tăng trên 16.000/mm3 thường liên quan đến biến chứng - Protein C phản ứng (CRP) trong giới hạn bình thường (< 10 mg/L). - Đường huyết, điện giải đồ, X quang phổi có thay đối trong các trường hợp có biến chứng.. Thang Long University Library.
<span class='text_page_counter'>(19)</span> 9 - Khi có biến chứng, thay đổi các chỉ số trong khí máu, siêu âm tim, dịch não tủy. - Xét nghiệm phát hiện vi rút: Lấy bệnh phẩm hầu họng, phỏng nước, trực tràng, dịch não tuỷ để thực hiện xét nghiệm RT-PCR hoặc phân lập vi rút chẩn đoán xác định nguyên nhân. - Chụp cộng hưởng từ não: Chỉ thực hiện khi có điều kiện và khi cần chẩn đoán phân biệt với các bệnh lý ngoại thần kinh. 1.4.3. Chẩn đoán - Chẩn đoán ca lâm sàng dựa vào triệu chứng lâm sàng và dịch tễ học: Yếu tố dịch tễ như tuổi, mùa, vùng lưu hành bệnh, số trẻ mắc bệnh trong cùng một thời gian. Lâm sàng gồm phỏng nước điển hình ở miệng, lòng bàn tay, lòng bàn chân, gối, mông, kèm sốt hoặc không. - Chẩn đoán xác định: Xét nghiệm RT-PCR hoặc phân lập có vi rút gây bệnh. - Chẩn đoán phân biệt với các bệnh có biểu hiện loét miệng, ban trên da khác - Biến chứng: bệnh TCM hay có biến chứng ở thần kinh và tim mạch. -. Biến chứng thần kinh là viêm não, viêm thân não, viêm não tủy, viêm màng não với các biểu hiện: Rung giật cơ; ngủ gà, bứt rứt, chới với, đi loạng choạng, run chi, mắt nhìn ngược; Rung giật nhãn cầu; Yếu, liệt chi (liệt mềm cấp); Liệt dây thần kinh sọ não; Co giật, hôn mê là dấu hiệu nặng, thường đi kèm với suy hô hấp, tuần hoàn; Tăng trương lực cơ (biểu hiện duỗi cứng mất não, gồng cứng mất vỏ).. - Biến chứng tim mạch, hô hấp thể hiện: Viêm cơ tim, phù phổi cấp, tăng huyết áp, suy tim, trụy mạch. Phân độ lâm sàng, gồm các mức độ: - Độ 1: Chỉ loét miệng và/hoặc tổn thương da. - Độ 2: ❖ Độ 2a: Bệnh sử có giật mình dưới 2 lần/30 phút và không ghi nhận lúc khám, sốt trên 2 ngày, hay sốt trên 39oC, nôn, lừ đừ, khó ngủ, quấy khóc vô cớ..
<span class='text_page_counter'>(20)</span> 10 ❖ Độ 2b: Có dấu hiệu thuộc nhóm 1 hoặc nhóm 2: Nhóm 1: Có một trong các biểu hiện sau: ✓ Giật mình ghi nhận lúc khám. ✓ Bệnh sử có giật mình ≥ 2 lần / 30 phút. ✓ Bệnh sử có giật mình kèm theo một dấu hiệu sau: Ngủ gà; Mạch nhanh > 150 lần /phút (khi trẻ nằm yên, không sốt); Sốt cao ≥ 39oC không đáp ứng với thuốc hạ sốt Nhóm 2: Có một trong các biểu hiện sau: ✓ Thất điều: run chi, run người, ngồi không vững, đi loạng choạng; ✓ Rung giật nhãn cầu, lác mắt; ✓ Yếu chi hoặc liệt chi; ✓ Liệt thần kinh sọ: nuốt sặc, thay đổi giọng nói. - Độ 3: Mạch nhanh > 170 lần/phút (khi trẻ nằm yên, không sốt); ❖ Một số trường hợp có thể mạch chậm (dấu hiệu rất nặng); ❖ Vã mồ hôi, lạnh toàn thân hoặc khu trú; ❖ Huyết áp tăng; ❖ Thở nhanh, thở bất thường: Cơn ngưng thở, thở bụng, thở nông, rút lõm ngực, khò khè, thở rít thanh quản; ❖ Rối loạn tri giác (Glasgow < 10 điểm); Tăng trương lực cơ. - Độ 4: ❖ Sốc; ❖ Phù phổi cấp; ❖ Tím tái, SpO2 < 92%; ❖ Ngưng thở, thở nấc. 1.4.4. Điều trị Nguyên tắc điều trị: Hiện nay chưa có thuốc điều trị đặc hiệu, chỉ điều trị hỗ trợ (không dùng kháng sinh khi không có bội nhiễm). Theo dõi sát, phát. Thang Long University Library.
<span class='text_page_counter'>(21)</span> 11 hiện sớm và điều trị biến chứng. Bảo đảm dinh dưỡng đầy đủ, nâng cao thể trạng. 1.4.5. Phòng bệnh 1.4.5.1. Nguyên tắc phòng bệnh: - Hiện chưa có vắc xin phòng bệnh đặc hiệu. - Áp dụng các biện pháp phòng ngừa chuẩn và phòng ngừa đối với bệnh lây qua đường tiêu hoá, đặc biệt chú ý tiếp xúc trực tiếp với nguồn lây. 1.4.5.2. Phòng bệnh tại các cơ sở y tế: - Cách ly theo nhóm bệnh. - Nhân viên y tế: Mang khẩu trang, rửa, sát khuẩn tay trước và sau khi chăm sóc. - Khử khuẩn bề mặt, giường bệnh, buồng bệnh bằng Cloramin B 2%. Lưu ý khử khuẩn các ghế ngồi của bệnh nhân và thân nhân tại khu khám bệnh. - Xử lý chất thải, quần áo, khăn trải giường của bệnh nhân và dụng cụ chăm sóc sử dụng lại theo quy trình phòng bệnh lây qua đường tiêu hoá. 1.4.5.3. Phòng bệnh ở cộng đồng: - Vệ sinh cá nhân, rửa tay bằng xà phòng (đặc biệt sau khi thay quần áo, tã, sau khi tiếp xúc với phân, nước bọt). - Rửa sạch đồ chơi, vật dụng, sàn nhà. -. Lau sàn nhà bằng dung dịch khử khuẩn Cloramin B 2% hoặc các dung dịch khử khuẩn khác.. -. Cách ly trẻ bệnh tại nhà. Không đến nhà trẻ, trường học, nơi các trẻ chơi tập trung trong 10-14 ngày đầu của bệnh. 1.5. Những nghiên cứu về bệnh chân tay miệng Các chương trình phòng chống bệnh TCM tại cộng đồng đã được triển khai tại nhiều quốc gia. Các chương trình này có nhiều điểm tương đồng, bao gồm những nội dung chính: Giáo dục vệ sinh tốt và vệ sinh cơ bản thông qua chiến dịch truyền thông sâu rộng; xây dựng và củng cố hệ thống giám sát dịch; hỗ trợ cho trường học và các cơ sở chăm sóc trẻ; phổ biến những yếu tố nguy.
<span class='text_page_counter'>(22)</span> 12 cơ của bệnh; tuyên truyền các biện pháp thực hành phòng bệnh. Các nghiên cứu đã có nhiều cách tiếp cận và nhiều biện pháp khác nhau để phòng bệnh TCM, triển khai các chương trình phòng bệnh TCM tại cộng đồng ở nhiều quốc gia như Trung Quốc, Singapore..., nội dung chính gồm: Giáo dục vệ sinh tốt và vệ sinh cơ bản thông qua chiến dịch truyền thông sâu, rộng; Xây dựng và củng cố hệ thống giám sát dịch; hỗ trợ cho trường học và các cơ sở chăm sóc ban ngày; Phổ biến những yếu tố nguy cơ của bệnh; tuyên truyền các biện pháp thực hành phòng bệnh, các nghiên cứu đều đạt kết quả tốt trong quá trình thực hiện. Một số can thiệp YTCC hiệu quả đã được áp dụng phòng chống bệnh TCM tại Trung Quốc, Singapore, Hồng Kông và được WHO khuyến cáo như: thiết lập hệ thống giám sát và cảnh báo dịch sớm, thường xuyên; triển khai các chiến dịch truyền thông; triển khai các chiến dịch vệsinh, rửa tay bằng xà phòng, chủ động xây dựng kế hoạch, chính sách phòng bệnh TCM. Tại Việt Nam, Bộ Y tế đã ban hành quyết định số 581/QĐ-BYT ngày 24/2/2012 hướng dẫn “Giám sát và phòng bệnh TCM” nhằm tuyên truyền cho người dân các nội dung: Nguy cơ mắc bệnh; đường lây truyền; các triệu chứng của bệnh và những dấu hiệu bệnh chuyển nặng để người dân chủ động phòng bệnh, có thể phát hiện sớm các trường hợp mắc bệnh và đưa đến cơ sở y tế kịp thời; không để bệnh lây lan ra cộng đồng; Thực hiện 3 sạch: Ăn sạch, ở sạch, bàn tay và chơi đồ chơi sạch. Do vậy, cần có những nghiên cứu can thiệp tiếp theo, xây dựng mạng lưới truyền thông, huy động sự tham gia của cộng đồng để phòng chống dịch bệnh được tốt hơn 1.5.1. Các nghiên cứu về kiến thức, thực hành với bệnh tay chân miệng trên thế giới 1.5.1.1. Kiến thức về bệnh tay chân miệng Một nghiên cứu của Ruttiya Charoenchokpanit và cộng sự tại Bang Kok, Thái Lan năm 2013 từ 456 người chăm sóc trẻ tại nhà cho thấy có 5,5% người trả lời phải đối mặt với dịch TCM trong cộng đồng trước đây và 12,1% trẻ em. Thang Long University Library.
<span class='text_page_counter'>(23)</span> 13 của họ đã bị nhiễm TCM trước đó. Gần như tất cả (94,0%) số người được hỏi, có con bị nhiễm bệnh tìm cách điều trị tại bệnh viện. Tất cả những người được hỏi đã từng được biết thông tin về bệnh TCM trước đây và nguồn phương tiện chính cung cấp thông tin là truyền hình (97,6%). Tuy nhiên, điểm kiến thức hiểu biết của họ về bệnh của họ trung bình chỉ là 13 điểm so với số điểm đầy đủ là 22 điểm. Trong đó, một nửa trong số họ (50,4%) có mức điểm hiểu biết thấp và chỉ 3,7 % có kiến thức tổng thể cao. Có tới 31,8% trong số họ có thể không xác định bất kỳ triệu chứng nào của bệnh TCM. Ngoài ra, họ có thể nhầm lẫn giữa bệnh TCM với các bệnh về chân và miệng khác. Chỉ 39% trong số họ biết rằng bệnh TCM không phải là bệnh tương tự như bệnh về chân và miệng, và 47,1% nghĩ rằng cừu, gia súc và lợn có thể lây truyền bệnh TCM sang người [24]. Nghiên cứu của Nursyuhadah Othman và cộng sự năm 2012 tại Malaysia được thực hiện với tổng số 32 người được phỏng vấn, có 72% (n = 23) số người được hỏi nằm trong khoảng từ 21-40 tuổi. Gần 69% (n = 22) trong số những người được hỏi đã kết hôn, 31% (n = 9) chưa kết hôn. Cuộc khảo sát có sự tham gia của 87% (n = 27) người trả lời là nữ và 13% (n = 5) người trả lời là nam. Gần 50% (n = 16) số người được hỏi đã tốt nghiệp cao đẳng hoặc đại học trong khi 37,5% (n = 12) học trung học, 6,3% (n = 2) học tiểu học và có tới 6,3% (n = 2) người không bao giờ tham dự bất kỳ một trường giáo dục chính thức nào, 84,4% (n = 27) người được hỏi đang làm việc và 15,6% (n = 5) người được hỏi đang thất nghiệp. Nghiên cứu cho thấy mối quan hệ trên những người được hỏi kiến thức về bệnh TCM và kinh nghiệm có con / trẻ bị nhiễm TCM. Thấy rằng, có 59,4% (n = 19) có kiến thức cơ bản về TCM mặc dù con cái họ chưa bao giờ bị nhiễm TCM, 9,4% (n = 3) người được biết TCM từ kinh nghiệm trước đây của họ khi con / trẻ bị nhiễm bệnh tật. Tám người được hỏi (25%) không có con bị nhiễm bệnh, được thông báo rằng họ không chắc chắn và không quen thuộc với TCM. Đáng ngạc nhiên, 3,1% (n = 1) người được hỏi đã có một kinh.
<span class='text_page_counter'>(24)</span> 14 nghiệm đối phó với bệnh TCM. Trong số 22 người được hỏi biết về TCM, có 40,1% (n = 9) lấy thông tin từ báo, 22,7% (n = 5) lấy thông tin từ truyền hình, 18,2% (n = 4), 13,6% (n = 3) số người được hỏi tiếp xúc với TCM từ chuyến thăm bệnh viện của họ và một người được hỏi (4,5%) biết từ việc nghe nói từ những người trong khu vực sinh sống của họ. Mười bảy người được hỏi (53,1%) thông báo rằng họ biết về các triệu chứng của bệnh TCM. Trẻ bị nhiễm TCM có thể bị một số triệu chứng sau đây như sốt, loét họng, miệng và lưỡi, phát ban với mụn nước ở tay, chân, đế và ở vùng tã lót sau đó là nôn mửa và tiêu chảy. Tám người được hỏi (25%) cho biết họ không chắc chắn về các triệu chứng và 21,9% còn lại (n = 7) không biết gì về các triệu chứng. Dựa trên cuộc phỏng vấn với những người được hỏi, một số người trong số họ nhầm lẫn với sốt nói chung, bao gồm các triệu chứng giống như sốt như tiêu chảy và nôn mửa. Có 56,3% (n = 18) số người được hỏi đồng ý rằng TCM có thể gây tử vong. Chín người được hỏi (28,1%) không chắc chắn về điều đó và năm người được hỏi (15,6%) không tin rằng TCM có thể gây bệnh. Có 40,6% (n = 13) người được hỏi tin rằng TCM lây lan qua tiếp xúc với người hoặc chạm từ người bị nhiễm bệnh. Chín người được hỏi (28,1%) quyết định rằng họ không chắc chắn về đường lây truyền. Sáu người được hỏi (18,8%) cho rằng TCM là bệnh truyền qua đường nước và bốn người được hỏi (n = 12,5%) cho rằng TCM lây lan qua không khí [31]. Nghiên cứu khác tại Malaysia của tác giả Qudsiah Suliman và cộng sự năm 2017 phỏng vấn tổng số 353 bà mẹ trong độ tuổi từ 22 đến 56, thấy tỷ lệ trả lời là 80,2%. Hầu hết những người được hỏi đã kết hôn (96,3%), nội trợ (44,2%) và có trình độ học vấn cho đến trung học cơ sở (64,8%). Hơn nữa, hầu hết những người được hỏi nói rằng họ chưa bao giờ thuê bất kỳ người giúp việc nào cho đến nay (96,9%) [35]. Xác nhận kiến thức về bệnh TCM, tổng điểm trung bình là 13,61 (SD = 4,04). Hơn nữa, năm câu hỏi hàng đầu mà những người được hỏi trả lời sai là. Thang Long University Library.
<span class='text_page_counter'>(25)</span> 15 về loét miệng và họng đảm bảo nhập viện (97,7%), phát ban, ngứa gây ra bởi triệu chứng của bệnh TCM (94,9%). Bệnh TCM còn được gọi là bệnh lở mồm long móng (81,3%). Tiêu chảy là triệu chứng của bệnh TCM (80,2%) và cừu có thể truyền bệnh TCM sang người (70,2%). Hầu hết bệnh nhân mắc bệnh TCM sẽ hồi phục trong vòng 1 tuần (52,1%), bệnh TCM có thể được liên kết với viêm màng não (52,1%), người bị nhiễm bệnh có thể bài tiết mầm bệnh TCM trong phân có thể truyền sang người khác (49,4%) và tác nhân gây bệnh TCM xâm nhập vào cơ thể người qua đường tiêu hóa (40,2%) [35]. Nghiên cứu của Q. Liao tại Hồng Kông năm 2014 khi khảo sát quan điểm của phụ huynh về bệnh TCM ở trẻ em, kết quả thu được như sau: Khoảng 19% số người được hỏi nói rằng con của họ trước đó đã bị nhiễm bệnh TCM và tỷ lệ nhiễm được báo cáo là cao hơn ở những gia đình có nhiều hơn một đứa trẻ trong độ tuổi mục tiêu so với những gia đình chỉ có một đứa con (26% so với 15%, P = 0,001). Chỉ có 24% số người được hỏi cho biết họ lo lắng về việc con họ bị nhiễm bệnh TCM và chỉ 5% nhận thấy khả năng cao là con của họ sẽ bị nhiễm bệnh TCM. Tuy nhiên, bệnh TCM được coi là phổ biến vừa phải ở Hồng Kông. Cảm nhận tác động của việc trẻ em nhiễm bệnh TCM đối với việc ở trường học cao hơn so với các hoạt động hàng ngày của phụ huynh và gánh nặng tài chính gia đình. Cha mẹ đi làm nhận thấy ít ảnh hưởng của bệnh TCM của trẻ với gánh nặng tài chính của gia và công việc ở trường của con. Khoảng hai phần ba số người được hỏi nhận thấy rằng con của họ ít nhất có khả năng phải nhập viện và hơn 60% dự đoán ít nhất một số điều hối tiếc nếu con họ bị nhiễm bệnh TCM [28]. Trong số những người được phỏng vấn, 61% tin rằng, nếu có sẵn, tiêm chủng sẽ có hiệu quả hoặc hiệu quả cao trong việc ngăn ngừa bệnh TCM. Hầu hết, những người được hỏi chỉ ra rằng họ ít nhất có phần tự tin trong việc bảo vệ con mình chống lại bệnh TCM. Ảnh hưởng của nhận thức về phòng bệnh là trung bình đến cao trong số những người được hỏi. So với những người được hỏi chưa từng bị nhiễm TCM, những người có con bị nhiễm trước.
<span class='text_page_counter'>(26)</span> 16 đó nhận thấy tỷ lệ mắc bệnh TCM cao hơn và khả năng cao là con họ sẽ bị nhiễm bệnh, nhưng tác động của con họ thấp hơn một chút. Theo dõi hơn 80% số người được hỏi nói rằng họ thường xuyên rửa tay cho con mình và tránh cho con mình chia sẻ vật dụng cá nhân với người khác và khử trùng hộ gia đình trong 1 tuần qua. Ngoài ra, khoảng 42% và 46% số người được hỏi nói rằng nên để con họ tránh xa những nơi đông người và khử trùng đồ chơi của trẻ. Tuy nhiên, chỉ có 3 người (8%) số người được hỏi báo cáo thực hiện các hành động này để ngăn ngừa bệnh TCM. Những người được hỏi có hai con không có khả năng khử trùng đồ chơi của con mình nhiều hơn những người chỉ có một con. Có 90% (408/452) số người được hỏi cho biết họ sẽ không cho con đi học nếu bị nhiễm TCM. Trong số 374 người được hỏi có con đang theo học tại một trung tâm chăm sóc trẻ em, mẫu giáo hoặc trường học, 16% (60/374) cho biết họ sẽ giữ không cho con đi học nếu một trường hợp mắc bệnh TCM được báo cáo ở trường, tăng lên 40% (151 / 374) nếu một trường hợp tử vong được báo cáo do nhiễm trùng. Trong số những người trả lời hoàn thành khảo sát tiếp theo, 53% (238/52) chỉ ra rằng họ sẽ chấp nhận tiêm vắc-xin TCM cho con của họ. Điều này bao gồm 29% (132/452), 9% (40/452) và 15% (66/452) nói rằng họ sẽ 'có khả năng', 'rất có thể' và 'chắc chắn', đưa con họ đi tiêm phòng. Chấp nhận cho đi học và tiêm chủng không liên quan đến lịch sử trẻ em mắc bệnh TCM [28]. Nghiên cứu của Ha Thi Kim Phung tại bệnh viện Mỹ Phước cho thấy: trong phần phân tích, dữ liệu được trích xuất từ 52 người chăm sóc trẻ em dưới 5 tuổi trước và sau một buổi giáo dục sức khỏe. Kết quả cho thấy các biện pháp can thiệp đã cải thiện kiến thức về bệnh TCM ở những người tham gia sau can thiệp. Ở mức đẹp nhất, 34,6% người chăm sóc có mức độ hiểu biết kém và rất kém, 38,5% có mức độ trung bình và 26,9% có mức độ hiểu biết tốt và rất tốt. Kết quả này so với 86,5% người chăm sóc đạt mức kiến thức rất tốt sau can thiệp [42].. Thang Long University Library.
<span class='text_page_counter'>(27)</span> 17 Nghiên cứu của Trần Triệu Ngọc Huyền tại một số xã cho kết quả: nhóm được khảo sát tại các trung tâm chăm sóc trẻ em ban ngày không chính thức có kiến thức về bệnh tốt hơn so với nhóm ở hộ gia đình. Đa số những người chăm sóc trẻ em được khảo sát nghĩ rằng bệnh TCM có thể xảy ra với những đứa trẻ mà họ đang chăm sóc. Những người cung cấp thông tin tại các trung tâm giữ trẻ thể hiện thái độ tích cực hơn trong việc tìm hiểu về căn bệnh này so với những người ở hộ gia đình và họ cũng bày tỏ sự quan tâm hơn nếu có trường hợp mắc bệnh TCM xảy ra trong cộng đồng của họ. Họ quan tâm vì họ nghĩ bệnh TCM là nguy hiểm đến tính mạng của trẻ và có thể truyền từ người này sang người khác. Nhóm được khảo sát tại các trung tâm giữ trẻ thực hành rửa tay thường xuyên hơn nhóm tại các hộ gia đình. Nhóm này cũng sử dụng xà phòng, chất lỏng chống vi khuẩn để rửa tay của họ hoặc trẻ em thường xuyên hơn. Việc thực hành rửa tay cho trẻ tại các nhà trẻ tốt hơn nhiều so với tại các hộ gia đình. Nhóm hộ không chú ý đến các bước làm sạch ngón tay, kẽ ngón tay, móng tay và rửa sạch xà phòng dưới vòi nước đang chảy. Tại các trung tâm giữ trẻ, trẻ em 3 tuổi có thể tự rửa tay với sự giám sát của người giữ trẻ. Nhóm khảo sát tại nhà trẻ sử dụng xà phòng, chất sát khuẩn khi vệ sinh đồ chơi của trẻ với tỷ lệ cao hơn so với cùng nhóm hộ gia đình. Không có sự khác biệt thống kê về tần suất sử dụng xà phòng, chất sát trùng để lau sàn giữa hai nhóm khảo sát. Hầu hết những người được khảo sát cho biết họ biết về bệnh TCM chủ yếu qua các phương tiện thông tin đại chúng. Thông tin về căn bệnh này trên các phương tiện thông tin đại chúng đã bão hòa và các nhóm đối tượng cần được thông tin sâu hơn và tập trung hơn vào mức độ thay đổi hành vi [43]. Một cuộc khảo sát KAP về người giám hộ của những bệnh nhân mắc bệnh TCM dưới 5 tuổi ở Trùng Khánh năm 2015 của tác giả ZHANG Shi-yong và cộng sự cho thấy: Tỷ lệ nhận thức và điểm trung bình của người giám hộ là cha mẹ (46. 9%, 6. 9 ± 2. 1) cao hơn người giám hộ khác (29. 7%, 4. 7 ± 1. 6); tỷ lệ nhận thức và điểm trung bình của người giám hộ nữ (43. 3%, 6. 7 ± 1..
<span class='text_page_counter'>(28)</span> 18 9) cao hơn người giám hộ nam (33. 2%, 5. 0 ± 2. 0); tỷ lệ nhận thức và điểm trung bình của người giám hộ từ thành phố (54. 9%, 7. 2 ± 2. 4) cao hơn so với người giám hộ là người nhập cư (30. 8%, 4. 7 ± 1. 6) [22]. Nghiên cứu của tác giả Vorapoj Promasatayaprot nhằm điều tra kiến thức, thái độ và hành vi về phòng chống bệnh tay chân miệng của những người chăm sóc trẻ em tại các trung tâm phát triển trẻ em, tỉnh Ubon Ratchathani. Kết quả cho thấy đa số là nữ (96,3%), trung bình 41 tuổi (68,3%), tình trạng hôn nhân là vợ chồng (85,7%) và đang học đại học (75,2%). với thời gian làm giáo viên tại các trung tâm phát triển trẻ em từ 10 đến 14 tuổi là 58,7% và 71,8% trong số họ đã được nhân viên y tế tập huấn về kiểm soát bệnh TCM. Kiến thức phòng bệnh tay chân miệng cho người chăm sóc trẻ ở mức cao. Điểm trung bình là 2,76 (SD = 0,114). Thái độ của người chăm sóc trẻ ở mức vừa phải. Điểm trung bình của nó là 2,28 (SD = 0,247). Mặt khác, mức độ quản lý môi trường để ngăn ngừa bệnh TCM còn thấp. Điểm trung bình là 1,34 (SD = 0,215). Các yếu tố về đặc điểm cá nhân như giới tính, tuổi, trình độ học vấn, thời gian làm việc, kiến thức và thái độ phòng ngừa bệnh TCM có liên quan đến Phòng ngừa hành vi ở mức có ý nghĩa thống kê (p <0,05) [41]. Abu Zarin bin Zahari và cộng sự tại Malaysia nghiên cứu kiến thức, thái độ và thực hành về bệnh TCM của cha mẹ hoặc người chăm sóc trẻ em từ 10 tuổi trở xuống tại Chương trình tái định cư Nanga Sekuau từ ngày 26 tháng 3 đến ngày 10 tháng 6 năm 2012. Kết quả cho thấy 61,1% người được hỏi có kiến thức tốt, 52,2% có thái độ tốt trong khi 55,8% có thực hành phòng ngừa tốt đối với bệnh TCM. Phân tích cho thấy mối liên hệ có ý nghĩa giữa tổng điểm kiến thức và trình độ học vấn (p <0,05). Mối liên hệ có ý nghĩa tương tự cũng được tìm thấy giữa tổng điểm thái độ và trình độ học vấn (p <0,05) và tình trạng hôn nhân (p <0,05). Tuy nhiên, không có mối liên hệ đáng kể nào được tìm thấy giữa tổng điểm thực hành và các đặc điểm nhân khẩu học xã hội. Mối tương quan thuận được tìm thấy giữa kiến thức và thái độ (p <0,01) cũng như. Thang Long University Library.
<span class='text_page_counter'>(29)</span> 19 thái độ và thực hành (p <0,001). Nghiên cứu sau can thiệp cho thấy sự cải thiện đáng kể về kiến thức về phương thức lây lan của TCM (p <005), nhưng không có sự gia tăng đáng kể về mức độ kiến thức, thái độ và thực hành (p> 0,05) [39]. 1.5.1.2. Thực hành về bệnh tay chân miệng Nghiên cứu của Haliza Abdul Rahman trên 102 cô giáo mầm non, trong đó có 83 người trả lời từ trường công lập trong khi 26 người trả lời từ các khu dân cư ở Thung lũng Klang. Kết quả cho thấy không có sự khác biệt ý nghĩa giữa kiến thức, thái độ và thực hành giữa hai nhóm (Z = -0,321, p> 0,005; Z = -1,196, p> 0,005; Z = -1,155, p> 0,005). Hơn nữa, không có mối liên hệ giữa kiến thức với thực hành (p = 0,581, p> 0,005) và thái độ với thực hành (p = 0,298, p> 0,005). Do đó, các cô giáo mầm non trong nghiên cứu này nhận thức được mức độ kiến thức và thái độ vừa phải. Tuy nhiên, trên thực tế, các trường học công lập cho thấy việc áp dụng thực hành tốt hơn nếu so với các khu dân cư [40]. Một nghiên cứu của Jakrapong Aiewtrakun tại thành phố Khon Kaen, Thái Lan cho kết quả tỷ lệ phản hồi chung là 88,1% (342/388). Tỷ lệ người chăm sóc trẻ có đủ kiến thức về tầm soát, kiến thức phòng chống bệnh TCM lần lượt là 95% (KTC 95%: 91,9,96,9) và 39,8 (KTC 95%: 34,5,45,2). Chỉ có 3,5% trong số họ biết rửa tay bằng xà phòng trước khi ăn và sau khi đi vệ sinh, và 6,1% biết chính xác việc khám sàng lọc trước khi vào cổng CSKH. Việc khám sàng lọc trước cổng trước sự chứng kiến của phụ huynh đã được những người chăm sóc có kinh nghiệm chấp nhận như một biện pháp hiệu quả nhất để kiểm soát bệnh TCM. Trong thời gian bùng phát, một số người chăm sóc trẻ (23,7%) không giảm bớt các hoạt động tiếp xúc gần gũi giữa trẻ với trẻ, và 19,1% không báo cáo với cơ quan y tế công cộng. Kết luận: Hầu hết những người chăm sóc người bệnh trong CSKH đều có đủ kiến thức về sàng lọc bệnh.
<span class='text_page_counter'>(30)</span> 20 TCM nhưng kiến thức về phòng ngừa của họ vẫn chưa đủ. Kiểm tra ở cổng trường có thể là biện pháp hiệu quả nhất để kiểm soát bệnh TCM [38]. Nghiên cứu của Ruttiya Charoenchokpanit cho thấy phần lớn số người được hỏi (60,3%) có mức độ thực hành phòng ngừa bệnh TCM tốt. Tuy nhiên, có một số phát hiện đáng lo ngại, 41,2% người trả lời hiếm khi hoặc chưa bao giờ xoa tay trong ít nhất 20 giây mỗi lần rửa tay, 25% họ chưa bao giờ tránh việc đưa con đến những nơi công cộng khi con mắc bệnh TCM và 43,6% trả lời rằng họ hiếm khi hoặc chưa bao giờ làm sạch đồ chơi sau khi con họ sử dụng chúng [24]. Nghiên cứu của Nursyuhadah Othman cho thấy về hành động của người chăm sóc trẻ khi con của họ bị nhiễm TCM như sau: Đa số những người được hỏi (93,8%) (n = 30) đồng ý tìm cách điều trị ngay lập tức từ bác sĩ trong khi nhận thấy các triệu chứng của TCM. Một người được hỏi (3,1%) chọn dùng thuốc không kê đơn. Một người trả lời khác đã quyết định chờ đợi để theo dõi thêm trong trường hợp các triệu chứng có thể tái phát, nếu các triệu chứng không thuyên giảm hoặc trở nên tồi tệ hơn sau vài ngày họ sẽ tìm kiếm sự tư vấn của bác sĩ. Nghiên cứu cho thấy, có 65,6% số người được hỏi (n = 21) đồng ý thực hành vệ sinh đầy đủ để ngăn ngừa bệnh lây lan và 6,3% (n = 2) người trả lời quyết định không cho con đi học mẫu giáo hoặc trường học trong thời gian dịch TCM. Chín người được hỏi (n= 28,1%) đã quyết định thực hành cả hai phương pháp để ngăn ngừa TCM [31]. Trong nghiên cứu của Qudsiah Suliman và cộng sự tại Malaysia có liên quan đến các biện pháp phòng bệnh với bệnh TCM, tổng điểm trung bình cao, là 56,29 (SD = 5.10). Ba biện pháp phòng ngừa ít được thực hành nhất là làm sạch đồ chơi trẻ em với chất khử trùng có điểm trung bình là 3,00, luôn luôn xoa ít nhất 20 giây mỗi khi rửa tay đạt được điểm trung bình là 4,00 và thường xuyên lau bàn, ghế và mặt sàn có điểm trung bình là 4,00 [35].. Thang Long University Library.
<span class='text_page_counter'>(31)</span> 21 1.5.1.3. Xác định mối liên quan với bệnh tay chân miệng Trong nghiên cứu của Ruttiya Charoenchokpanit có nhiều biến số nhân khẩu học xã hội có liên quan đến kiến thức, thái độ và hành vi của người chăm sóc tại nhà. Họ tìm thấy liên quan giữa bệnh TCM và người chăm sóc trẻ với tuổi (p = 0,024), trình độ học vẫn (p = 0,012), nghề nghiệp (p = 0,001), thu nhập gia đình (p <0,001), mối quan hệ với trẻ em (p = 0,006) và tiền sử mắc bệnh TCM (p = 0,004). Thái độ được tìm thấy gắn liền với trình độ học vấn (p <0,001), thu nhập gia đình (p = 0,001). Hành vi phòng bệnh TCM có liên quan đến giới tính (p = 0,007), giáo dục (p = 0,034), thu nhập gia đình (p <0,001). Những người được hỏi có trình độ học vấn hoặc thu nhập cao hơn thường có kiến thức cao, thái độ tốt hơn và thực hành tốt hơn so với những người có trình độ học vấn thấp hơn và thu nhập gia đình thấp hơn [24]. Nghiên cứu của Benjawan Chaiwut tại chín bệnh viện ở tỉnh Chiang Rai đã được chọn cho nghiên cứu. Các trường hợp là trẻ em được chẩn đoán mắc bệnh TCM được đưa vào một trong các bệnh viện nghiên cứu. Đối chứng là trẻ em không được chẩn đoán mắc bệnh TCM nhưng được nhập viện cùng bệnh viện với các trường hợp mắc bệnh TCM. Nghiên cứu đã sử dụng bảng câu hỏi đã được xác thực để thu thập dữ liệu từ các đối tượng và cha mẹ của họ. Tổng số 58 trường hợp và 232 đối chứng được đưa vào nghiên cứu. Nam giới chiếm 63,8% tổng số đối tượng; 66,2% từ 1-2 tuổi; 13,1% là sinh non; và 6,5% có tiền sử bệnh tiềm ẩn. Sáu mươi chín phần trăm người chăm sóc là cha mẹ; 79,3% người chăm sóc là nữ; và 43,1% người chăm sóc ở độ tuổi từ 30 đến 45 tuổi. Phân tích đa biến cho kết quả: 1) đối tượng <1 tuổi gấp 5,45 lần [Khoảng tin cậy 95% (CI): 1,07-27,67] có nguy cơ mắc bệnh TCM cao hơn đối tượng ≥ 1 tuổi; 2) đối tượng có cân nặng lúc sinh <2.500 gam có nguy cơ mắc bệnh TCM cao hơn 3,58 lần (KTC 95%: 1,32-9,74) so với đối tượng có cân nặng lúc sinh ≥ 2.500 gam; 3) những đối tượng có thể tích trung bình hồng cầu thấp (MCV) gấp 5,52 lần (KTC 95%: 1,25-24,48) có nhiều khả năng mắc bệnh TCM hơn.
<span class='text_page_counter'>(32)</span> 22 những người có mức MCV bình thường; 4) những đối tượng có đường cong tăng trưởng CI: 1,95-11,34) có nguy cơ mắc bệnh TCM hơn những người có đường cong tăng trưởng bình thường. Bệnh TCM ở trẻ em ở tỉnh Chiang Rai, Thái Lan có liên quan đến nhẹ cân, thấp hơn bình thường và các đường cong tăng trưởng của trẻ cao hơn bình thường, có mức MCV thấp và tuổi <1 tuổi. Nghiên cứu đã rút ra được kết luận đó là các can thiệp phòng ngừa và kiểm soát TCM hiệu quả ở miền Bắc Thái Lan cần tập trung vào các yếu tố trên [37]. Nghiên cứu của Q. Liao thấy: không có biến nhân khẩu học nào được liên kết đáng kể với 'Vệ sinh' hoặc 'Khoảng cách'. Do đó, mối liên hệ của hai kết quả này với các biến về nhận thức không được điều chỉnh với bất kỳ biến nhân khẩu học nào. Về vệ sinh, những người được hỏi dự đoán rằng họ sẽ vô cùng hối hận nếu con của họ bị nhiễm bệnh, họ lo lắng hơn về việc con của họ bị nhiễm bệnh và nhận thấy sự tự tin trong việc bảo vệ con của họ khi được rửa tay thường xuyên hơn. Họ cũng nhận thấy khả năng cao là con của họ phải nhập viện một khi đã bị nhiễm bệnh và nhận thấy tác động cao hơn của nhiễm trùng của bệnh TCM với trẻ em ở trường học, đa số họ có ý định giữ cho con họ nghỉ học khi được thông báo về các trường hợp mắc TCM trong trường học. Tuổi của trẻ có liên quan đáng kể đến việc chấp nhận tiêm chủng, với những người được hỏi có con từ 5 tuổi trở lên ít có khả năng chấp nhận tiêm vắc-xin TCM. Mô hình hồi quy logistic cho của nghiên cứu cho thấy sau khi điều chỉnh theo độ tuổi của trẻ, cha mẹ có con đã được tiêm phòng cúm theo mùa vào mùa đông 2013, năm 2014 sẽ có nhiều khả năng đưa con đi tiêm vắc-xin phòng bệnh TCM [28]. Nghiên cứu của Chadaporn Inta và cộng sự tại tỉnh Chiang Rai, Thái Lan trên 380 đối tượng cho thấy mối liên quan với bệnh TCM như sau: Mô hình hồi quy logistic đơn giản tiết lộ rằng ba yếu tố có liên quan đến TCM: trẻ em có cha mẹ theo đạo Phật có nguy cơ nhiễm bệnh cao hơn (3,34 lần) so với những người có cha mẹ theo đạo Kitô (90% CI: 1,58-7,03); những đứa trẻ. Thang Long University Library.
<span class='text_page_counter'>(33)</span> 23 có cha mẹ tốt nghiệp với bằng cử nhân có cơ hội bị nhiễm trùng cao hơn so với những người có cha mẹ không được học hành (2,96 lần) (90% CI =1,14-7,73) và những đứa trẻ có cha mẹ có kiến thức về TCM trung bình và cao có cơ hội lớn hơn 3,49 lần (90% CI =1,58-7,71) và 4,39 lần (90% CI = 2,06-9,35) nhiễm trùng hơn những người có kiến thức thấp. Trong số những trẻ mắc bệnh được theo dõi, mô hình hồi quy logistic đơn giản cho thấy ba yếu tố có một liên kết quan trọng với TCM: nữ có cơ hội lớn hơn (1,80 lần) để phát triển TCM so với nam giới (90% CI = 1,08-3,00); trẻ thiếu cân có cơ hội lớn hơn (3,50 lần) để phát triển TCM hơn những người thừa cân (90% CI = 1,24-9,88); và trẻ có tiền sử bú sữa mẹ <6 tháng có cơ hội lớn hơn (2,12 lần) để phát triển TCM so với những trẻ có tiền sử bú sữa mẹ 6 tháng (90% CI = 1,31-3,33). Sau khi phân tích mô hồi quy logistic đa biến, loại bỏ tất cả các yếu tố gây nhiễn, mô hình cho thấy hai yếu tố có liên quan đến mắc bệnh TCM ở trẻ em: trẻ em dưới 2 tuổi có cơ hội mắc lớn hơn (6,35 lần) (95% CI = 1,37-29,38) so với những người ở độ tuổi> 5 tuổi; và những trẻ có tiền sử bú mẹ dưới 6 tháng có cơ hội lớn hơn (1,97 lần) để phát triển bệnh TCM so với những trẻ được bú sữa mẹ ≥ 6 tháng [26]. 1.5.2. Các nghiên cứu về kiến thức, thực hành với bệnh TCM tại Việt Nam Có sự khác nhau về đặc điểm bệnh TCM giữa hai miền Nam và Bắc, trong đó phần lớn bệnh xảy ra ở miền Nam, do đó các nghiên cứu về bệnh cũng chủ yếu tập trung ở khu vực này. Nghiên cứu của Vũ Thị Huyền và cộng sự trên 200 hộ gia đình được thực hiện tại xã Sơn Thịnh, huyện Văn Chấn của tỉnh Yên Bái năm 2013 cho thấy kiến thức chung về bệnh TCM đạt 11%, không đạt 89%. Người dân có khiến thức khá tốt về đối tượng dễ mắc bệnh TCM nhưng lại chưa có kiến thức đầy đủ về đường lây truyền, triệu chứng bệnh và các biện pháp phòng chống bệnh TCM. Có mối liên quan có ý nghĩa thống kê giữa nghề nghiệp và kiến thức về bệnh TCM của đối tượng nghiên cứu. Người làm ruộng có kiến thức về bệnh TCM đạt thấp hơn các đối tượng khác 21.2% [1]..
<span class='text_page_counter'>(34)</span> 24 Theo nghiên cứu của Trần Đỗ Hùng và cộng sự tại Khoa Nhiễm Bệnh viện Nhi Đồng Cần Thơ từ tháng 12/2012 đến tháng 3/2013 có 93 bệnh nhi có triệu chứng lần đầu tiên khởi bệnh là sốt chiếm 77,5% và đây cũng là lý do chủ yếu khiến bệnh nhi nhập viện. 77,5% bệnh nhi nhập viện vào ngày thứ 2 và ngày thứ 3 của bệnh. Các triệu chứng khi bệnh nhi mới nhập viện thường gặp nhất là sốt 43,3% và sang thương ở miệng 33,3%. Các dấu hiệu biểu hiện biến chứng thường gặp nhất là giật mình 70% và bứt rứt 7,5%. Cận lâm sàng 54,2% bệnh nhi có số lượng bạch cầu tăng còn tiểu cầu đa số nằm trong giới hạn bình thường (87,5%) 75% bệnh nhi có kết quả xét nghiệm đường huyết bình thường và 37/85 cho kết quả dương tính với EV71. Kiến thức chung về bệnh TCM 99,2% bà mẹ trước đây đã từng nghe nói về bệnh, nguồn thông tin chủ yếu là ti vi, loa phát thanh chiếm tỷ lệ tương ứng là 71,7% và 31,7%, có 85% bà mẹ biết TCM là bệnh gì, 38,3% biết thời điểm xảy ra bệnh và 93,3% biết nhóm tuổi dễ mắc bệnh [8]. Một nghiên cứu can thiệp cải thiện kiến thức, thực hành phòng chống bệnh tay-chân-miệng của bà mẹ có con dưới 5 tuổi ở xã An Lão, Bình Lục, Hà Nam năm 2018 cho thấy: tỷ lệ các bà mẹ có con dưới 5 tuổi biết bệnh TCM là bệnh lây, bệnh TCM có thể phòng ngừa được và trẻ em là đối tượng dễ mắc bệnh khá cao, chiếm từ 81,9% - 89,5%. Về đường lây truyền của bệnh, tỷ lệ bà mẹ có con dưới 5 tuổi biết các đường lây truyền của bệnh đều thấp, đường lây truyền do tiếp xúc trực tiếp với biểu hiện rõ nhất của bệnh TCM là dịch của mụn, bọng nước là cao nhất, cũng chỉ xấp xỉ 50%. Về biểu hiện của bệnh, tỷ lệ bà mẹ có con dưới 5 tuổi biết biểu hiện của bệnh như mụn nước trong miệng, bàn tay/bàn chân/mông là 71,4%. Nhưng tỷ lệ bà mẹ có con dưới 5 tuổi biết các biểu hiện khác là rất thấp, biểu hiện trẻ mệt mỏi (3,8%), biểu hiện trẻ sốt (32,4%). Tỷ lệ bà mẹ không biết một biểu hiện nào của bệnh là trên 15%. Rửa tay với xà phòng là biện pháp được nhiều người biết nhất cũng chỉ đạt 38,1%. Các biện pháp khác đều dưới 30,0% số người biết, thấp nhất là tỷ lệ các bà mẹ. Thang Long University Library.
<span class='text_page_counter'>(35)</span> 25 biết thu gom chất thải của trẻ đổ vào nhà tiêu hợp vệ sinh để phòng bệnh TCM chỉ chiếm 1,9%. Tỷ lệ thực hành phòng bệnh TCM của các bà mẹ có con dưới 5 tuổi cao nhất là vệ sinh nhà cửa sạch sẽ và rửa tay bằng xà phòng (33,3 % và 32,4%), thấp nhất là tỷ lệ không cho trẻ dùng chung khăn ăn, khăn tay và vật dụng ăn uống. Trong nghiên cứu này, có mối tương quan đồng biến giữa kiến thức và thực hành phòng bệnh TCM cho trẻ của các bà mẹ có con dưới 5 tuổi (p<0,001, r = 0,594). Khi điểm kiến thức phòng bệnh TCM của đối tượng nghiên cứu tăng thêm 1 điểm thì điểm thực hành phòng bệnh TCM cũng tăng thêm 0,343 điểm. Tuy nhiên, chỉ có 35,2% sự biến thiên của điểm thực hành phòng bệnh TCM được lý giải bởi sự biến thiên của điểm kiến thức phòng TCM ở bà mẹ có con dưới 5 tuổi [16]. Nhìn chung các nghiên cứu về TCM ở Việt Nam còn lẻ tẻ, số liệu tập trung tại một số bệnh viện lớn ở hai miền Nam và Bắc, do đó chưa đại diện cho cả nước. Nghiên cứu về kiến thức, thực hành của bà mẹ có con mắc TCM còn hạn chế. 1.6. Tổng quan địa điểm nghiên cứu 1.6.1. Một số nét về bệnh viện Đa khoa Quốc tế Vinmec Times City Bệnh viện Đa khoa Quốc tế Vinmec Times City là Bệnh viện đầu tiên trong chuỗi hệ thống Y tế Vinmec được đưa vào vận hành. Bệnh viện nằm trong khu Đô thị Times City có diện tích 24.670m2, bao gồm 2 tầng hầm và 7 tầng nổi. Vinmec Times City là bệnh viện đa khoa đầu tiên tại Việt Nam đạt chứng chỉ JCI - chứng chỉ uy tín hàng đầu thế giới về thẩm định chất lượng dịch vụ y tế, được công nhận trên 90 quốc gia, “tiêu chuẩn vàng” tại các bệnh viện danh tiếng toàn cầu. Bệnh viện cũng quy tụ đội ngũ bác sĩ và chuyên gia y tế đầu ngành của Việt Nam và quốc tế, có trình độ chuyên môn cao, giàu kinh nghiệm, hướng đến mục tiêu trở thành bệnh viện hàng đầu Việt Nam cả về chuyên môn và công.
<span class='text_page_counter'>(36)</span> 26 nghệ, đồng thời đạt tiêu chuẩn quốc tế cao nhất về quản lý chất lượng và an toàn cho bệnh nhân. 1.6.2. Một số nét về Đơn nguyên Nhi 2- Bệnh viện Đa khoa Quốc tế Vinmec Times City Với sự đầu tư bài bản và chuyên nghiệp, Trung tâm Nhi bệnh viện Vinmec Times City có đầy đủ các chuyên ngành gồm Nội trú Nhi và Ngoại trú Nhi. Hệ thống khoa Nội trú Nhi nằm ở tầng 5 và tầng 6 gồm 80 giường bệnh, đặt tại 3 đơn nguyên: Đơn nguyên Nhi 1: 28 giường bệnh Đơn nguyên Nhi 2: 28 giường bệnh Đơn nguyên Nhi 3: 24 giường bệnh Đơn nguyên Nhi 2 nằm tại tầng 5, điều trị các bệnh nhi khoa thông thường và 1 số bệnh chuyên khoa (bệnh về tiêu hóa, hô hấp, lây nhiễm). Đơn nguyên điều trị các bệnh truyền nhiễm: Bệnh sởi, cúm, sốt xuất huyết, tay chân miệng, quai bị, thủy đậu…. Các bệnh về tiêu hóa: tiêu chảy cấp, tiêu chảy kéo dài, tiêu chảy nhiễm khuẩn, viêm dạ dày….. Thang Long University Library.
<span class='text_page_counter'>(37)</span> 27 CHƯƠNG 2. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 2.1. Đối tượng, địa điểm, thời gian nghiên cứu 2.1.1. Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu: là người nhà chăm sóc trẻ nằm viện điều trị nội trú tại Đơn nguyên Nhi 2 của Bệnh viện Vinmec Times City. - Tiêu chuẩn chọn đối tượng: Gồm tất cả những người đang trực tiếp chăm sóc trẻ và đồng ý tham gia nghiên cứu. - Tiêu chuẩn loại trừ: người chăm sóc trẻ không đồng ý và không hợp tác nghiên cứu. 2.1.2. Địa điểm nghiên cứu Đơn nguyên Nhi 2- Bệnh viện Vinmec Times City, Hà Nội. 2.1.3. Thời gian nghiên cứu: từ tháng 4/2019 đến 08/2019. 2.2. Phương pháp nghiên cứu 2.2.1. Thiết kế nghiên cứu Nghiên cứu mô tả cắt ngang có phân tích. 2.2.2. Cỡ mẫu và cách chọn mẫu Cỡ mẫu: Cỡ mẫu được tính theo công thức ước tính cho một tỷ lệ để xác định số bệnh nhi mắc TCM và đó cũng là cỡ mẫu người chăm sóc của bệnh nhi: p x (1-p) n = Z²(1 – α/2) d² Trong đó: n là số lượng NCS cần nghiên cứu.
<span class='text_page_counter'>(38)</span> 28 p là tỷ lệ ước tính NCS trẻ có kiến thức và thực hành đúng về chăm sóc bệnh TCM, lấy theo nghiên cứu của tác giả Trần Thị Anh Đào là 44% [18]. d là khoảng sai lệch mong muốn, lấy d=0,05 Z1-α/2: độ tin cậy 95%, khi α=0,05 thì Z1-α/2=1,96 Cỡ mẫu tính được n tối thiểu = 380 người chăm sóc các bệnh nhi. Phương pháp chọn mẫu: chọn toàn bộ đối tượng đáp ứng tiêu chuẩn lựa chọn. 2.3. Các biến số, chỉ số nghiên cứu Bảng 2.1. Bảng biến số và chỉ số nghiên cứu Phương Biến số. Loại biến. Chỉ số/tiêu chí đánh giá. pháp thu thập. THÔNG TIN DÂN SỐ HỌC CỦA ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU A1. Tuổi. Định lượng, Tỷ lệ phần trăm các nhóm Tự điền rời rạc. A2. Giới tính. Định tính,. tuổi Tỷ lệ phần trăm nam và nữ Tự điền. nhị phân A3 A4 A5 A6. Tình trạng hôn. Định tính,. Tỷ lệ phần trăm các nhóm Tự điền. nhân. danh mục. tình trạng hôn nhân. Tôn giáo. Định tính,. Tỷ lệ phần trăm các nhóm Tự điền. danh mục. tôn giáo. Định tính,. Tỷ lệ phần trăm các nhóm Tự điền. danh mục. dân tộc. Dân tộc Số con dưới 5 tuổi. Định lượng, Tỷ lệ phần trăm các nhóm Tự điền liên tục. có con dưới 5 tuổi. Thang Long University Library.
<span class='text_page_counter'>(39)</span> 29 Phương Biến số. Loại biến. Chỉ số/tiêu chí đánh giá. pháp thu thập. A7. Thu nhập trung bình/đầu. Địn lượng, rời rạc. người/hộ gia. Trung bình thu nhập đầu Tự điền người /gia đình của đối tượng. đình THÔNG TIN VỀ KIẾN THỨC, THỰC HÀNH 1. Thông tin về. Định tính,. Đánh giá dựa trên tổng Tự điền. kiến thức của. thứ hạng. điểm câu hỏi tương ứng từ. người chăm sóc. B1 – B9 trong phụ lục.. trẻ. Phân loại thành 2 mức đúng, chưa đúng. (Kiến thức đúng khi đạt ≥75% câu trả lời đúng của các câu hỏi từ B1-B9 (10/13 câu, bắt buộc đúng câu 3,5,6).. 2. Thông tin về. Định tính,. Đánh giá dựa trên tổng Tự điền. thực hành của. thứ hạng. điểm từ câu C1 – C13. người chăm sóc. trong phụ lục. Phân loại. trẻ. thành 2 mức đúng, chưa đúng.. 3. Quan sát thực. Định tính,. Đánh giá dựa trên tổng Quan. hành của người. thứ hạng. điểm từ câu D1 – D8, thực trực tiếp. chăm sóc trẻ. hành đúng khi đạt 75% số điểm của tình huống thực hiện đúng.. sát.
<span class='text_page_counter'>(40)</span> 30 2.4. Phương pháp thu thập số liệu 2.4.1. Công cụ thu thập thông tin - Sử dụng bảng câu hỏi tự điền và bảng kiểm thực hành. 2.4.2. Kỹ thuật thu thập thông tin - Số liệu được điều tra viên thu thập bằng cách phát phiếu phỏng vấn, quan sát đối tượng nghiên cứu. 2.4.3. Quy trình thu thập thông tin và sơ đồ nghiên cứu - Thông tin được thu thập trong vòng 4 tháng từ thời điểm tháng 4 - 8 năm 2019. - Sau khi điều tra viên phát phiếu phỏng vấn, đối tượng nghiên cứu sẽ tự điền các thông tin trả lời vào phiếu, điều tra viên sẽ thu lại phiếu từ đối tượng nghiên cứu. Những đối tượng nghiên cứu hiện đang có trẻ mắc TCM điều trị tại Đơn nguyên 2, khoa Nhi bệnh viện đa khoa quốc tế Vinmec sẽ được điều tra viên tiếp tục quan sát thực hành chăm sóc trẻ bệnh. - Sơ đồ nghiên cứu:. Thang Long University Library.
<span class='text_page_counter'>(41)</span> 31 2.5. Xử lý số liệu Nhập số liệu bằng Epidata, phân tích số liệu bằng phần mềm SPSS 16.0. Thực hiện các phép tính thống kê mô tả (số trung bình, tỷ lệ %), và thống kê phân tích, tính hệ số tương quan R pearson và tỷ số chênh OR hiệu chỉnh qua hồi quy logistic. Sử dụng test χ² với biến định tính để so sánh sự khác nhau, ý nghĩa thống kê được chấp nhận ở mức = 0,05. 2.6. Sai số và biện pháp khắc phục Sai số ngẫu nhiên có thể xảy ra do điều tra viên không được tập huấn hoặc điều tra viên và đối tượng phỏng vấn hiểu sai các khái niệm trong bộ câu hỏi. Để khắc phục các sai số ngẫu nhiên chúng tôi sử dụng các điều tra viên được tập huấn trước khi tiến hành điều tra để giải thích và hướng dẫn cho đối tượng tự điền phiếu. Sai số hệ thống: chọn toàn bộ đối tượng dựa theo tiêu chuẩn lựa chọn và tiêu chuẩn loại trừ trong thời gian nghiên cứu. Bộ câu hỏi được đánh giá lại chỉ số Cronbach’alpha đánh giá tính phù hợp bên trong của phiên bản tiếng Việt. 2.7. Đạo đức trong nghiên cứu - Nghiên cứu được sự đồng tình và hợp tác của đối tượng nghiên cứu, thông tin cá nhân của đối tượng nghiên cứu và bệnh nhi được bảo mật, chỉ được sử dụng cho việc nghiên cứu, kết quả đề tài mang lại lợi ích cho bệnh nhi. - Nghiên cứu được tiến hành trung thực, chính xác. - Nghiên cứu được sự đồng ý của lãnh đạo Bệnh viện Đa khoa Quốc tế Vinmec, Hội đồng đạo đức của Đại học Thăng Long. 2.8. Hạn chế của nghiên cứu -. Đây là nghiên cứu cắt ngang, chỉ đánh giá được kiến thứ, thực hành của đối tượng trên 1 nhóm không có nhóm so sánh nên không kiểm định được giả thuyết về quan hệ..
<span class='text_page_counter'>(42)</span> 32 - Ghi nhận hiện trạng tại một thời điểm nên không ghi nhận được sự chuyển dịch của các cá thể trong quần thể. - Cỡ mẫu còn khá hạn chế, khó suy rộng cho quần thể lớn.. Thang Long University Library.
<span class='text_page_counter'>(43)</span> 33 CHƯƠNG 3: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU 3.1. Thông tin chung của đối tượng nghiên cứu Bảng 3.1. Quan hệ với bệnh nhi của người chăm sóc (n= 380) Số lượng (SL). Tỷ lệ %. Cha/mẹ. 256. 67,3. Ông/bà. 50. 13,1. Họ hàng. 64. 16,9. Người giúp việc. 10. 2,7. Quan hệ. Nhận xét: Trong số những người được phỏng vấn, người chăm sóc bệnh nhi chủ yếu là cha/mẹ của bệnh nhi (67,3%), ông bà, họ hàng chiếm tỷ lệ thấp hơn, trong đó người giúp việc thấp nhất với 2,7%. Bảng 3.2. Đặc điểm nhóm tuổi của người chăm sóc (n= 380) Số lượng (SL). Tỷ lệ %. Từ 18-35. 250. 65,8. ≥35 tuổi. 130. 34,2. Nhóm tuổi. Tuổi trung bình. 35,7 (18 – 74). Nhận xét: Trong số những người chăm sóc trẻ, không có ai dưới 18 tuổi, chủ yếu là những người ở nhóm tuổi từ 18 – 35 tuổi (65,8%), còn lại nhóm tuổi >35 chiếm 34,2%. Bảng 3.3. Đặc điểm giới của người chăm sóc (n= 380) Số lượng (SL). Tỷ lệ %. Nam. 55. 14,5. Nữ. 323. 85,5. Giới tính.
<span class='text_page_counter'>(44)</span> 34 Bảng 3.4. Đặc điểm dân tộc của người chăm sóc (n= 380) Số lượng (SL). Tỷ lệ %. Kinh. 375. 98,7. Khác. 5. 1,3. Dân tộc. Nhận xét: Trong số 380 người chăm sóc trẻ được phỏng vấn, có tới 323 người (85,5%) là nữ giới, nam giới chiếm một tỉ lệ rất nhỏ (14,5%), trong đó đa số đều là người dân tộc Kinh (98,7%). Bảng 3.5. Đặc điểm người có con dưới 5 tuổi (n= 380) Số con dưới 5 tuổi. Số lượng (SL). Tỷ lệ %. Không có con dưới 5 tuổi. 93. 24,5. Có 1 con dưới 5 tuổi. 209. 55. Có 2 con dưới 5 tuổi. 76. 20. Có 3 con dưới 5 tuổi. 2. 5. Nhận xét: Số người không có con dưới 5 tuổi là 93 người (24,5%), số người có 1 con dưới 5 tuổi chiếm tỷ lệ cao nhất 55%, người có 3 con dưới 5 tuổi chỉ có 2 trường hợp (5%). Bảng 3.6. Đặc điểm thu nhập bình quân đầu người của người chăm sóc (n= 380) Số lượng (SL). Tỷ lệ %. Dưới 10 triệu đồng. 137. 36. Từ 10 đến dưới 20 triệu đồng. 191. 50. Từ 20 triệu đồng trở lên. 52. 14. Thu nhập bình quân hộ gia đình. Thang Long University Library.
<span class='text_page_counter'>(45)</span> 35 Nhận xét: Thu nhập trung bình đầu người ở nhóm từ 10 – 20 triệu/tháng chiếm tỷ lệ cao nhất 50%, nhóm >20 triệu/tháng chiếm 14%, còn lại là nhóm <10 triệu/tháng chiếm 36%. Bảng 3.7. Đặc điểm tiếp cận phương tiện truyền thông của người chăm sóc (n= 380) Các phương tiện thông tin có sẵn Đài Ti vi Máy vi tính Báo Tạp chí Không có phương tiện gì Phương tiện khác: điện thoại, internet…. Nhận xét:. Số lượng (SL). Tỷ lệ %. 73 380 336 27 3 1 58. 19,2 100 88,4 7,1 0,8 0,3 15,2. Có 100% đối tượng được phỏng vấn đều tiếp cận với ti vi, 88,4% người được phỏng vấn có máy vi tính, các phương tiện khác như điện thoại, internet chiếm 15,2%, các phương tiện như báo, tạp chí chiếm một tỉ lệ rất nhỏ. Ngoài ra, có 1 trường hợp không có bất kỳ phương tiện gì (0,3%). 3.2. Kiến thức, thực hành của NCS trẻ với bệnh TCM 3.2.1. Kiến thức của NCS về bệnh TCM Bảng 3.8. Bảng thể hiện những NCS đã từng nghe nói về bệnh TCM(n=380) Người chăm sóc Đã từng nghe về bệnh TCM Chưa từng nghe về bệnh TCM Tổng. Số lượng( SL). Tỷ lệ %. 376. 98,9. 4. 1,1. 380. 100.
<span class='text_page_counter'>(46)</span> 36 Nhận xét: Đa số những người chăm sóc được phỏng vấn đều đã từng nghe nói về bệnh TCM 376 người (chiếm 98,9%), chỉ có 4 người chưa từng nghe về bệnh TCM (chiếm 1,1%). Bảng 3.9. Tiếp cận nguồn thông tin của những NCS về bệnh TCM. Tiếp cận thông tin 340 (90%). 135 (36%) 76 (20%) BÁO, ĐÀI, TI VI. GIA ĐÌNH, BẠN BÈ. NHÂN VIÊN Y TẾ. Nhận xét: Nguồn tiếp cận thông tin về bệnh TCM của những người chăm sóc tại nhà chủ yếu qua báo, đài, ti vi chiếm 90%, qua gia đình bạn bè là 36%, qua nhân viên y tế chỉ có 20%. Bảng 3.10. Kiến thức về khả năng lây bệnh, đường lây truyền, biểu hiện bệnh và kiến thức chăm sóc trẻ khi trẻ mắc bệnh TCM của NCS (n=380) Kiến thức. Số lượng. Tỷ lệ %. 363. 95,5. Khả năng lây bệnh 1. Bệnh TCM là bệnh lây. Đường lây truyền 2. Hô hấp. 140. 37. 3. Tiêu hóa. 128. 33,8. Thang Long University Library.
<span class='text_page_counter'>(47)</span> 37 4. Tiếp xúc từ nốt phỏng nước trên da. 289. 76,5. 5. Không biết. 32. 8,5. 6. Sốt. 354. 93,1. 7. Ho, khó thở. 138. 36,3. 8. Nôn, tiêu chảy. 183. 48,1. 9. Bọng nước trong long bàn tay, bàn chân. 353. 92,9. 10. Bọng nước trong niêm mạc miệng, lợi, lưỡi. 358. 94,2. 11. Trẻ quấy khóc, ngủ gà, li bì. 280. 73,7. Biểu hiện của bệnh. Kiến thức chăm sóc 12. Có kiêng tắm. 134. 35,2. 13. Có cách ly trẻ mắc bệnh. 353. 92,9. Nhận xét: Khi khảo sát về kiến thức của NCS về biểu hiện bệnh, đường lây truyền và cách chăm sóc với bệnh TCM chúng tôi thấy: 95,5% người biết rằng bệnh TCM là một bệnh lây nhiễm, trong đó biểu hiện bệnh có sốt là 93,1%, nổi bọng nước ở lòng bàn tay, chân là 92,9%, ở miệng, lưỡi là 94,2%, trẻ quấy khóc, ngủ gà là 73,7%. Các triệu chứng khác như ho, khó thở chỉ chiếm 36,3% và nôn, tiêu chảy 48,1%. Khi trẻ mắc bệnh TCM có 92,9% người cho rằng cần cách ly trẻ mắc bệnh, và 35,2% người cho rằng nên kiêng tắm. Bảng 3.11. Kiến thức về phòng bệnh TCM của NCS Kiến thức về các biện pháp phòng bệnh TCM. Số lượng. Tỷ lệ %. 1. Bệnh có phòng được. 353. 92,9. 2. Biện pháp phòng bệnh bằng vệ sinh cá nhân. 352. 92,6. 3. Rửa tay trẻ và NCS bằng xà phòng. 360. 94,7. 4. Rửa sạch đồ chơi, vật dụng, sàn nhà. 353. 92,9. 5. Cách ly trẻ bệnh trong tuần đầu tiên. 336. 88,4. 6. Tất cả các biện pháp trên. 316. 83,2. 7. Không biết. 5. 1.3.
<span class='text_page_counter'>(48)</span> 38 Nhận xét: Khi được hỏi về cách phòng bệnh TCM của NCS thì đa số mọi người đều trả lời rằng bệnh TCM có thể phòng được. Trong đó, 92,6% cho rằng phòng bệnh bằng vệ sinh cá nhân, 94,7% cho rằng rửa tay bằng xà phòng, 92,9% chọn phương án rửa sạch đồ chơi, vật dụng, sàn nhà và 88,4% cho rằng nên cách ly trẻ bị bệnh trong tuần đầu tiên. Có 83,2 % NCS đã lựa chọn tất cả các biện pháp phòng bệnh được đưa ra, chỉ có 5 người (1,3%) không biết nên phòng bệnh bằng cách nào. Bảng 3.12. Mức độ kiến thức về bệnh TCM của NCS( n=380) Mức độ kiến thức. Số lượng. Tỷ lệ %. Đạt. 284. 75. Không đạt. 96. 25. Tổng. 380. 100. Nhận xét: Tổng hợp lại các phương án trả lời về kiến thức bệnh TCM của NCS thì thấy có 284 người có mức độ kiến thức đạt về bệnh TCM chiếm 75%, và có 96 người có mức độ kiến thức chưa đạt chiếm 25%. 3.2.2. Thực hành của NCS về bệnh TCM Bảng 3.13. Thực hành phòng bệnh TCM của NCS (n=380) Các biện pháp đã thực hiện. Số lượng. Tỷ lệ %. 1. Rửa tay thường xuyên bằng xà phòng. 351. 92,4. 2. Cho trẻ ăn chín, uống chín. 347. 91,3. 3. Rửa sạch vật dụng ăn uống trước khi sử dụng. 284. 74,8. 4. Không cho trẻ ăn bốc, mút tay, ngậm mút đồ. 297. 78,2. chơi. Thang Long University Library.
<span class='text_page_counter'>(49)</span> 39 Không cho trẻ dùng chung khăn ăn, cốc, bát,. 5. 270. 71,1. thìa 6. Làm sạch đồ chơi, nơi trẻ hay bám tay. 295. 77,7. 7. Vệ sinh nhà cửa sạch sẽ. 330. 86,8. 8. Thu gom, xử lý phân, chất thải của trẻ đổ vào. 276. 72,7. 252. 66,3. 2. 0,5. nhà tiêu hợp vệ sinh Không cho trẻ có biểu hiện bệnh đến lớp/không. 9. cho tiếp xúc với trẻ bệnh 10. Không làm gì Nhận xét:. Trong các biện pháp thực hành được đưa ra để phòng bệnh TCM của NCS thì tỷ lệ rửa tay bằng xà phòng là cao nhất chiếm 92,4%, các biện pháp ăn chin, uống chín chiếm 91,3%, vệ sinh nhà cửa sạch sẽ chiếm 86,8%. Còn lại, các biện pháp thực hành khác như: rửa sạch vật dụng ăn uống trước khi sử dụng, không cho trẻ ăn bốc, mút tay, ngậm đồ chơi… đều chiếm > 70%. Biện pháp không cho trẻ bệnh đến lớp/không cho trẻ tiếp xúc với trẻ bệnh chỉ chiếm 66,3% và vẫn có 0,5% (2 NCS) không có biện pháp thực hành nào để phòng bệnh TCM. Bảng 3.14. Thực hành rửa tay cho trẻ của NCS( n=380) Số lượng. Tỷ lệ %. Nước sạch đơn thuần. 101. 26,6. Rửa nước sạch với xà phòng. 279. 73,4. Tổng. 380. 100. Cách rửa tay cho trẻ của NCS. Nhận xét: Khi phỏng vấn 380 NCS thì thấy 100% đều luôn luôn rửa tay cho trẻ, trong đó có 26,6% NCS rửa tay cho trẻ bằng nước đơn thuần, và 73,4% NCS rửa tay cho trẻ bằng nước kết hợp với xà phòng..
<span class='text_page_counter'>(50)</span> 40 Bảng 3.15. Thực hành rửa tay của NCS( n=380) Thời điểm rửa tay của NCS. Số lượng Tỷ lệ %. Rửa tay trước khi chăm sóc trẻ 1. Luôn luôn. 377. 99,2. 2. Thỉnh thoảng. 3. 0,8. Rửa tay sau khi đi vệ sinh, sau thay tã, vệ sinh cho trẻ 1. Luôn luôn. 379. 99,7. 2. Thỉnh thoảng. 1. 0,3. 3. Hiếm khi. 0. 0. 4. Không bao giờ. 0. 0. 1. Nước sạch đơn thuần. 60. 15,8. 2. Rửa tay nước sạch và xà phòng. 320. 84,2. 3. Khác. 0. 0. Cách thức rửa tay. Nhận xét: Về thực hành rửa tay của NCS thì 99,2% luôn luôn rửa tay trước khi chăm sóc trẻ, 99,7% NCS luôn rửa tay sau khi đi vệ sinh, sau thay tã hay vệ sinh cho trẻ. Trong đó, rửa tay bằng nước sạch và xà phòng là 84,2%, rửa tay bằng nước sạch đơn thuần là 15,8%. Bảng 3.16. Thực hành vệ sinh đồ đạc trong nhà của NCS Vệ sinh đồ đạc trong nhà của NCS. Số lượng. Tỷ lệ %. Cách vệ sinh đồ chơi của trẻ (n=350) 1. Lau cho sạch bụi. 52. 14,9. 2. Rửa bằng nước sạch. 134. 38,3. Thang Long University Library.
<span class='text_page_counter'>(51)</span> 41 3. Ngâm bằng nước sạch và xà phòng. 178. 50,1. 4. Ngâm bằng dung dịch khử khuẩn. 51. 14,6. 5. Khác. 7. 2,0. NCS lau sàn nhà, bàn ghế, giường tủ…nơi trẻ thường bám tay (n=380) 1. Hàng ngày. 378. 99,7. 2. Thỉnh thoảng, vài ba ngày/lần. 1. 0,3. 3. Hiếm khi/ít. 0. 0. 4. Không lau. 0. 0. Cách thức lau sàn nhà, bàn ghế (n=380) 1. Nước sạch đơn thuần. 92. 24,3. 2. Lau nước sạch và xà phòng/dung dịch khử. 288. 75,7. 0. 0. khuẩn 3. Khác. Cho trẻ dùng riêng khăn lau mặt, lau tay (n=380) 1. Có. 347. 91,3. 2. Không. 33. 8,7. Nhận xét: Có 350 NCS trong số 380 NCS có vệ sinh đồ chơi của trẻ. Cách vệ sinh đồ chơi của NCS trẻ đa số là rửa bằng nước sạch và xà phòng chiếm tới 50,1 %, sau đó là biện pháp rửa bằng nước sạch 38,3%, các biện pháp dùng dung dịch khử khuẩn và lau bụi chiếm hơn 14%, các biện pháp khác chiếm 2% (hấp đồ chơi, rửa bằng dung dịch rửa bình sữa). Có 378 NCS (chiếm 99,7%) hàng ngày đều lau sàn nhà, bàn ghế, giường tủ nơi trẻ bám vào, chỉ có 1 NCS (chiếm 0,3%) thi thoảng vài ba ngày/lần lau chùi. Trong đó, cách thức lau sàn nhà, bàn ghế bằng nước sạch và xà phòng/dung dịch khử khuẩn là 288 người (chiếm 75,7%), lau bằng nước sạch đơn thuần là 92 người (chiếm 24,3%)..
<span class='text_page_counter'>(52)</span> 42 Có 347 NCS (chiếm 91,3%) sử dụng khăn riêng để lau tay, lau mặt cho trẻ, và 33 NCS (8,7%) không sử dụng khăn riêng để lau cho trẻ. Bảng 3.17. Cách xử trí của NCS khi có trẻ mắc TCM (n= 96) Số lượng. Tỷ lệ %. Đưa trẻ đến cơ sở y tế khám và điều trị. 60. 62,5. Cho trẻ nghỉ học đến khi khỏi hẳn. 77. 80,2. Báo cho các nhà hàng xóm có trẻ biết. 33. 34,4. Báo cho cán bộ y tế biết. 29. 30,2. Báo cho chính quyền biết. 10. 10,3. Báo cho cô giáo/người trông trẻ biết. 65. 67,0. Không làm gì. 0. 0. Khác. 0. 0. Cách xử trí của NCS khi trẻ mắc TCM. Nhận xét: Trong những NCS được phỏng vấn, có 96 người đã và đang chăm sóc cho trẻ <5 tuổi mắc bệnh TCM. Trong đó, 60 người (62,5%) NCS đưa trẻ đến cơ sở y tế khám và điều trị, 77 người (80,2%) cho trẻ nghỉ học đến khi khỏi hẳn, báo cho cô giáo/người trông trẻ biết rằng trẻ mắc bệnh TCM 65 người (67,0%). Các biện pháp khác như: báo cho hàng xóm, cán bộ y tế đều chiếm >30%, báo cho chính quyền chỉ có 10,3%. Bảng 3.18. Điểm quan sát thực hành của NCS có trẻ mắc TCM(n=47) Mức độ thực hành. Số lượng. Tỷ lệ %. Đạt. 33. 70,2. Không đạt. 14. 29,8. Tổng. 47. 100. Thang Long University Library.
<span class='text_page_counter'>(53)</span> 43 Nhận xét: Khi phỏng vấn NCS trẻ tại khoa Nhi bệnh viện Vinmec, nhóm nghiên cứu đã quan sát được 47 NCS có trẻ nhi đang mắc bệnh TCM tại khoa. Các hoạt động quan sát bao gồm cách thức rửa tay của NCS, cách thức vệ sinh răng, miệng, vệ sinh da, nốt phỏng của trẻ, cách thức rửa đồ chơi, vật dụng của trẻ, cách thức rửa tay cho trẻ. Sau khi quan sát thực hành chúng tôi thấy có 33 NCS (chiếm 70,2%) đạt yêu cầu, 14 NCS (29,8%) chưa đạt yêu cầu. 3.3. Một số yếu tố liên quan đến kiến thức và thực hành của NCS bệnh nhi Bảng 3.19. Một số yếu tố liên quan đến kiến thức về bệnh TCM OR. p. 95%CI. Bố/mẹ. 1. -. -. Ông/bà. 0,79. 0,49. 0,4 – 1,6. Họ hàng. 0,78. 0,43. 0,4 – 1,5. Người giúp việc. 0,46. 0,23. 0,1 – 1,7. 1. -. -. 0,13. 0,69. 0,4 – 1,1. 1. -. -. 1,6. 0,16. 0,8 – 2,9. 1. -. -. Các yếu tố Quan hệ với bệnh nhi. Nhóm tuổi Từ 18 - < 35 tuổi ≥ 35 tuổi Giới tính Nam Nữ Tôn giáo Không.
<span class='text_page_counter'>(54)</span> 44 Đạo phật. 0,2. 0,56. 0,2 – 1,5. Thiên chúa giáo. 0,8. 1,31. 0,1 – 11,9. Kinh. 1. -. -. Khác. 0,08. 0,0046. 0,0009 – 0,076. 1. -. -. Có 1 con dưới 5 tuổi. 1,3. 0,31. 0,8 – 2,3. Có 2 con dưới 5 tuổi. 0,7. 0,3. 0,4 – 1,4. Có 3 con dưới 5 tuổi. -. 0,4. -. Dân tộc. Có con dưới 5 tuổi Không có con dưới 5 tuổi. Thu nhập trung bình đầu người/hộ gia đình/tháng < 10 triệu. 1. -. -. Từ 10 - < 20 triệu. 1,1. 0,7. 0,7 – 1,8. ≥ 20 triệu. 4,9. 0,018. 1,6 – 15,1. Nhận xét: Có mối liên quan giữa nhóm dân tộc với kiến thức về bệnh TCM của NCS. Từ kết quả trên cho thấy, nhóm người dân tộc khác có kiến thức đúng về bệnh TCM chỉ bằng 8% so với nhóm dân tộc kinh, sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê với p=0,0046<0,05. Có mỗi liên quan giữa thu nhập trung bình đầu người/tháng/hộ gia đình với kiến thức về bệnh TCM. Người thuộc nhóm thu nhập cao từ ≥ 20 triệu/tháng có kiến thức đúng về bệnh TCM cao gấp 4,9 lần so với nhóm có thu nhập thấp hơn 10 triệu/tháng, sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê với p=0,018.. Thang Long University Library.
<span class='text_page_counter'>(55)</span> 45 Bảng 3.20. Một số yếu tố liên quan đến thực hành rửa tay cho trẻ của NCS về bệnh TCM OR. p. 95%CI. Bố/mẹ. 1. -. -. Ông/bà. 0,63. 0,34. 0,5 – 1,9. Họ hàng. 0,56. 0,27. 0,6 – 1,7. Người giúp việc. 0,38. 0,25. 0,2 – 1,8. 1. -. -. 1,3. 0,3. 0,8– 2,1. 1. -. -. 0,8. 0,55. 0,4 – 1,6. 1. -. -. Đạo phật. 2,1. 0,3. 0,6 – 7,2. Thiên chúa giáo. 1,5. 0,7. 0,2 – 14,0. Kinh. 1. -. -. Khác. 1,5. 0,72. 0,2 – 13,6. Các yếu tố Thực hành rửa tay cho trẻ Quan hệ với bệnh nhi. Nhóm tuổi Từ 18 - < 35 tuổi ≥ 35 tuổi Giới tính Nam Nữ Tôn giáo Không. Dân tộc.
<span class='text_page_counter'>(56)</span> 46 Có con dưới 5 tuổi 1. -. -. Có 1 con dưới 5 tuổi. 0,9. 0,9. 0,5 – 1,7. Có 2 con dưới 5 tuổi. 0,6. 0,17. 0,3 – 1,3. Có 3 con dưới 5 tuổi. 0,3. 0,42. 0,02 – 5,6. Không có con dưới 5 tuổi. Thu nhập trung bình đầu người/hộ gia đình/tháng < 10 triệu. 1. -. -. Từ 10 - < 20 triệu. 0,9. 0,7. 0,6 – 1,5. ≥ 20 triệu. 1,4. 0,4. 0,6 – 3,0. Nhận xét: Trong nghiên cứu của chúng tôi, chưa tìm thấy sự liên quan nào giữa các yếu tố của NCS với thực hành rủa tay cho trẻ trong phòng bệnh TCM. Bảng 3.21. Một số yếu tố liên quan đến thực hành rửa tay của NCS OR. p. 95%CI. Bố/mẹ. 1. -. -. Ông/bà. 1,5. 0,63. 0,3 – 8,9. Họ hàng. 0,98. 0,98. 0,2 – 5,2. Người giúp việc. 1,3. 0,74. 0,3 – 6,4. 1. -. -. Các yếu tố Thực hành rửa tay của NCS Quan hệ với bệnh nhi. Nhóm tuổi Từ 18 - < 35 tuổi. Thang Long University Library.
<span class='text_page_counter'>(57)</span> 47 ≥ 35 tuổi. 0,9. 0,67. 0,5– 1,6. 1. -. -. 1,3. 0,43. 0,6 – 2,8. 1. -. -. 0,5. 0,3. 0,2 – 1,6. -. 0,33. -. Kinh. 1. -. -. Khác. -. 0,31. -. 1. -. -. Có 1 con dưới 5 tuổi. 1,2. 0,6. 0,6 – 2,3. Có 2 con dưới 5 tuổi. 0,8. 0,67. 0,4 – 1,8. Có 3 con dưới 5 tuổi. 0,2. 0,23. 0,01 – 3,7. Giới tính Nam Nữ Tôn giáo Không Đạo phật Thiên chúa giáo Dân tộc. Có con dưới 5 tuổi Không có con dưới 5 tuổi. Thu nhập trung bình đầu người/hộ gia đình/tháng < 10 triệu. 1. -. -. Từ 10 - < 20 triệu. 1,01. 0,95. 0,6 – 1,8. ≥ 20 triệu. 1,62. 0,31. 0,6 – 4,3. Nhận xét: Trong nghiên cứu của chúng tôi, chưa tìm thấy sự liên quan nào giữa các yếu tố của NCS với thực hành rủa tay của người chăm sóc trong phòng bệnh TCM..
<span class='text_page_counter'>(58)</span> 48 Bảng 3.22. Một số yếu tố liên quan đến thực hành vệ sinh môi trường của NCS Các yếu tố. OR. p. 95%CI. Thực hành vệ sinh môi trường của NCS Quan hệ với bệnh nhi Bố/mẹ. 1. -. -. Ông/bà. 1,1. 0,79. 0,5 – 2,5. Họ hàng. 1,05. 0,86. 0,6 – 2,0. Người giúp việc. 0,8. 0,92. 0,4 – 1,9. 1. -. -. 0,65. 0,06. 0,4 – 1,0. 1. -. -. 1,1. 0,7. 0,6 – 2,1. 1. -. -. Đạo phật. 1,3. 0,7. 0,5 – 3,6. Thiên chúa giáo. 1,8. 0,6. 0,2 – 16,5. Kinh. 1. -. -. Khác. 0,7. 0,65. 0,1 – 4,0. Nhóm tuổi Từ 18 - < 35 tuổi ≥ 35 tuổi Giới tính Nam Nữ Tôn giáo Không. Dân tộc. Thang Long University Library.
<span class='text_page_counter'>(59)</span> 49 Có con dưới 5 tuổi 1. -. -. Có 1 con dưới 5 tuổi. 1,3. 0,38. 0,7 – 2,2. Có 2 con dưới 5 tuổi. 0,7. 0,19. 0,3 – 1,2. Có 3 con dưới 5 tuổi. 1. -. -. Không có con dưới 5 tuổi. Thu nhập trung bình đầu người/hộ gia đình/tháng < 10 triệu. 1. -. -. Từ 10 - < 20 triệu. 0,75. 0,24. 0,5 – 1,2. ≥ 20 triệu. 0,76. 0,44. 0,4 – 1,5. Nhận xét: Trong nghiên cứu của chúng tôi, chưa tìm thấy sự liên quan nào giữa các yếu tố của NCS với vệ sinh môi trường của NCS trong phòng bệnh TCM. Bảng 3.23. Một số yếu tố liên quan đến thực hành xử trí khi trẻ mắc TCM của NCS Các yếu tố. OR. p. 95%CI. Thực hành xử trí khi trẻ mắc TCM của NCS Quan hệ với bệnh nhi Bố/mẹ. 1. -. -. Ông/bà. 1,2. 0,8. 0,3 – 4,5. Họ hàng. 0,98. 1,0. 0,3 – 3,01. Người giúp việc. 1,1. 0,9. 0,4 – 3,8. 1. -. -. 0,9. 0,8. 0,4 – 2,0. Nhóm tuổi Từ 18 - < 35 tuổi ≥ 35 tuổi.
<span class='text_page_counter'>(60)</span> 50 Giới tính Nam. 1. -. -. 1,2. 0,78. 0,4 – 3,5. 1. -. -. Đạo phật. 0,0. 0,2. -. Thiên chúa giáo. 2,7. 0,4. 0,3 – 25,2. Kinh. 1. -. -. Khác. 0,0. 0,5. -. 1. -. -. Có 1 con dưới 5 tuổi. 0,7. 0,4. 0,3 – 1,6. Có 2 con dưới 5 tuổi. 0,6. 0,3. 0,2 – 1,8. Có 3 con dưới 5 tuổi. 0,0. 0,6. -. Nữ Tôn giáo Không. Dân tộc. Có con dưới 5 tuổi Không có con dưới 5 tuổi. Thu nhập trung bình đầu người/hộ gia đình/tháng < 10 triệu. 1. -. -. Từ 10 - < 20 triệu. 0,95. 0,9. 0,4 – 2,08. ≥ 20 triệu. 0,63. 0,5. 0,2 – 2,4. Nhận xét: Trong nghiên cứu của chúng tôi, chưa tìm thấy sự liên quan nào giữa các yếu tố của NCS với xử trí khi trẻ mắc TCM của người chăm sóc.. Thang Long University Library.
<span class='text_page_counter'>(61)</span> 51 CHƯƠNG 4: BÀN LUẬN 4.1. Thông tin chung của đối tượng nghiên cứu Trong nghiên cứu này, chúng tôi phỏng vấn được 380 người chăm sóc trẻ, trong đó cha, mẹ bệnh nhi chiếm tỉ lệ cao nhất với 67,3%, ông bà, họ hàng chiếm một tỉ lệ thấp hơn và thấp nhất là người giúp việc chỉ 2,7%. Như vậy, các đối tượng chăm sóc trẻ trong nghiên cứu của chúng tôi chủ yếu tập trung vào nhóm cha, mẹ bệnh nhi, sự chăm sóc trẻ sẽ thể hiện một cách khách quan hơn. Vì chủ yếu là cha, mẹ bệnh nhi nên nhóm chăm sóc trẻ tập trung ở lứa tuổi từ 18 – 35 tuổi, chiếm 65,8%, lứa tuổi >35 tuổi chiếm 34,2%, tuổi trung bình của NCS trẻ là 35,7%. Không có trường hợp nào mà NCS trẻ <18 tuổi. Như vậy, lứa tuổi của NCS trẻ trong nghiên cứu của chúng tôi nằm trong dộ tuổi lao động, có sức khỏe và sự minh mẫn để có thể chăm sóc trẻ tốt nhất. Tương tự như vậy, nữ giới là những người chủ yếu tham gia chăm sóc trẻ với 85,5%, trong khi nam giới chỉ có 14,5%. Đa số, trong mọi gia đình, những người phụ nữ vẫn là những người chăm sóc trẻ chính. Tại khoa Nhi, bệnh viện đa khoa quốc tế Vinmec, khi phỏng vấn NCS, chúng tôi thấy có 98,7% những người được phỏng vấn là người dân tộc Kinh, còn lại chỉ 1,3% (5 người) thuộc các nhóm dân tộc khác. Trong đó, những người có 1 con dưới 5 tuổi chiếm tỉ lệ 55%, số người có 2 con dưới 5 tuổi chiếm 20%, có 3 con dưới 5 tuổi chiếm 5%, và những người không có con dưới 5 tuổi chiếm 24,5% (đa phần là ông, bà và những người giúp việc cho gia đình bệnh nhi). Vinmec là một bệnh viện đa khoa quốc tế, do vậy chi phí nằm viện cũng không phải thấp. Do vậy, những gia đình có trẻ nhập viện đa số đều có điều kiện kinh tế khá giả. Trong nghiên cứu của chúng tôi, số gia đình có thu nhập bình quân đầu người <10 triêu/tháng chiếm 36%, số gia đình có thu nhập bình quân đầu người từ 10 đến <20 triệu chiếm tỉ lệ cao nhất 50%, và số gia đình có thu nhập bình quân đầu người từ 20 triệu trở lên chiếm 14%..
<span class='text_page_counter'>(62)</span> 52 Các phương tiện thông tin có sẵn mà NCS trẻ có thể tiếp cận được thông tin bao gồm: tivi (100%) hộ gia đình có, máy tính (88,4%), điện thoại, internet (15,2%), còn các phương tiện báo, đài, tạp chí chiếm một tỉ lệ rất nhỏ. Như vậy, đa số NCS trẻ tiếp cận thông tin qua tivi, điện thoại, máy tính kết nối internet là chủ yếu. 4.2. Kiến thức và thực hành của NCS về bệnh TCM 4.2.1. Kiến thức của NCS về bệnh TCM Bệnh TCM hiện nay chưa có vắc xin dự phòng và thuốc điều trị đặc hiệu do vâỵ, NCS trẻ có kiến thức về bệnh đóng vai trò quan trọng trong việc phòng bệnh và tránh sự lây lan của bệnh cho trẻ, cho cộng đồng. Trong nghiên cứu của chúng tôi, NCS trẻ được hỏi về các kiến thức liên quan đến bệnh TCM, bao gồm: về khả năng lây bệnh, đường lây truyền, biểu hiện bệnh, kiến thức chăm sóc trẻ khi trẻ mắc bệnh TCM và các kiến thức về phòng bệnh TCM. Kiến thức về khả năng lây bệnh, đường lây truyền, biểu hiện bệnh và kiến thức chăm sóc trẻ khi trẻ mắc bệnh TCM của NCS Nghiên cứu của chúng tôi cho thấy có tới 98,9% những người được phỏng vấn từng nghe nói về bệnh TCM. Trong đó, nguồn tiếp cận thông tin chính của họ là qua tivi, báo, đài (90%), gia đình, bạn bè (36%), nhân viên y tế (20%). Kết quả ngày gần giống với nghiên cứu của Ruttiya Charoenchokpanit và cộng sự tại Bang Kok, Thái Lan năm 2013: tất cả những người được hỏi đã từng được biết thông tin về bệnh TCM trước đây và nguồn phương tiện chính cung cấp thông tin là truyền hình (97,6%) [24]. Nghiên cứu của Nursyuhadah Othman và cộng sự năm 2012 tại Malaysia cho kết quả thấp hơn của chúng tôi: trong số 22 người được hỏi biết về TCM, có 40,1% (n = 9) lấy thông tin từ báo, 22,7% (n = 5) lấy thông tin từ truyền hình. 18,2% (n = 4), 13,6% (n = 3) số người được hỏi tiếp xúc với TCM từ chuyến thăm bệnh viện của họ và một. Thang Long University Library.
<span class='text_page_counter'>(63)</span> 53 người được hỏi (4,5%) biết từ việc nghe nói từ những người trong khu vực sinh sống của họ [31]. Kết quả nghiên cứu của chúng tôi cũng chỉ ra rằng: hầu hết NCS trẻ đều biết rằng bệnh TCM là một bệnh lây nhiễm chiếm 95,5%. Tỷ lệ này của chúng tôi cao hơn nghiên cứu của Lê Thị Lan Hương tại Hà Nam năm 2018 (chiếm 81,9%) [16] và của Nguyễn Thị Hồng Lụa chỉ đạt 60,5% [14]. Điều này có thể lý giải là việc tiếp cận thông tin về bệnh TCM ở các vùng khác nhau, đối tượng nghiên cứu khác nhau cũng ảnh hưởng đến kết quả nghiên cứu. Nghiên cứu của Nguyễn Thị Hồng Lụa được thực hiện ở vùng Tây Nguyên, việc tiếp cận thông tin về bệnh TCM có thể chưa được đầy đủ. Những người trực tiếp chăm sóc trẻ khi có kiến thức về bệnh TCM là bệnh lây, có thể phòng ngừa được là rất quan trọng trong phòng bệnh, điều này đã tác động đến ý thức, hành vi của người chăm sóc trẻ để bảo vệ cho trẻ tránh bị bệnh, đồng thời cũng chủ động trong việc phòng bệnh cho gia đình và cộng đồng. Kiến thức về đường lây truyền của bệnh: tỷ lệ NCS trẻ biết đường lây truyền từ nốt phỏng nước trên da là nguyên nhân lây bệnh chiếm 76,5%. Tỷ lệ này cao hơn nghiên cứu của Lê Thị Lan Hương (56,2%) [16], tuy nhiên thấp hơn nghiên cứu của hội chữ thập đỏ Việt Nam (83,5%) [6]. Sự khác biệt này có thể do địa bàn nghiên cứu của Hội Chữ thập đỏ Việt Nam chủ yếu là các tỉnh phía Nam, nơi đã xảy ra dịch bệnh TCM với tỷ lệ mắc và tử vong khá cao, nên đối tượng nghiên cứu có thể đã được cung cấp, cập nhật kiến thức về phòng bệnh TCM nhiều hơn. Ngoài ra, tỉ lệ NCS biết đường lây truyền của bệnh qua các con đường hô hấp, tiêu hóa cũng thấp, chỉ đạt từ 33,8% – 37%. Tỷ lệ này có cao hơn nghiên cứu của Lê Thị Lan Hương [16], Nguyễn Thị Hồng Lụa [14] và Vũ Trọng Phòng [6]. Tuy nhiên, số người biết các con đường lây truyền khác còn hạn chế, do vậy, đây là vấn đề cần quan tâm trong công tác tuyên truyền tại cộng đồng, các bà mẹ biết được đầy đủ đường lây truyền của bệnh sẽ.
<span class='text_page_counter'>(64)</span> 54 chủ động phòng bệnh được tốt hơn, tránh sự lây lan của bệnh trong cộng đồng và bùng phát dịch bệnh. Trong những người được phỏng vấn, có 32 người (chiếm 8,5%) không biết bệnh lây qua con đường gì. Tỷ lệ này thấp hơn nghiên cứu của Hội chữ thập đỏ Việt Nam (VNRC) phối hợp cùng hội chữ thập đỏ Quốc tế (IFRC) (19,2%) [27] và nghiên cứu của Nguyễn Thanh Liêm là 22,8% [13]. Nghiên cứu của Lê Thị Ánh Kim cho kết quả như sau: có 31,4% giáo viên có kiến thức đạt về đường lây truyền, trong đó hai đường lây được biết nhiều nhất là qua dịch nốt phỏng/bọng nước của trẻ bệnh (77,3%) và qua nước bọt của trẻ bệnh (58,2%), 10% giáo viên có kiến thức đạt về triệu chứng của bệnh [2]. NCS trẻ biết được bệnh TCM là bệnh lây nhưng tỷ lệ biết đúng đường lây truyền bệnh lại rất thấp, trong khi đây lại là kiến thức quan trọng và cơ bản nhất ảnh hưởng tới cách phòng bệnh TCM. Vì thế, trong các hoạt động can thiệp đề xuất sau này, cần tập trung công tác truyền thông, bổ sung kiến thức NCS trẻ để họ biết đầy đủ đường lây truyền của bệnh TCM, nhờ đó có thể phòng tránh được các đợt bùng phát dịch bệnh. Kiến thức về biểu hiện của bệnh: NCS trẻ trong nghiên cứu của chúng tôi có kiến thức khá tốt về biểu hiện ban đầu của bệnh: sốt (93,1%), các biểu hiện mọc mụn nước ở lòng bàn tay, chân, niêm mạc miệng, họng chiếm tỉ lệ cao từ 92,9% – 94,2%. Các dấu hiệu về sau như trẻ quấy khóc, li bì, ngủ gà cũng chiếm 73,7%. Các biểu hiện bệnh muộn hơn như ho, khó thở, tiêu chảy cũng chiếm trên 36%. Tuy tỷ lệ kiến thức của NCS trong nghiên cứu của chúng tôi thấp hơn so với tỷ lệ những người trông trẻ trong khảo sát của Hội Chữ thập đỏ Việt Nam (96,3%) [6], nhưng nhìn chung đối tượng nghiên cứu của chúng tôi có kiến thức về các triệu chứng trong giai đoạn sớm của bệnh là khá tốt, điều này sẽ giúp ích cho việc phát hiện sớm bệnh, điều trị sớm và phòng lây nhiễm cho gia đình và cộng đồng sớm. Nghiên cứu của chúng tôi thấy tỷ lệ NCS có kiến thức về biểu hiện bệnh cao hơn nhiều so với các nghiên cứu được. Thang Long University Library.
<span class='text_page_counter'>(65)</span> 55 báo cáo trước đó. Tỷ lệ đối tượng trong nghiên cứu của Lê Thị Lan Hương có kiến thức về triệu chứng chính của bệnh TCM là “mụn nước ở tay, chân, mông, đầu gối” chỉ chiếm 71,4% [16] và của Cao Thị Thúy Ngân là (86,9%) [3]. Có thể thấy rằng tỷ lệ NCS nêu đúng về các biểu hiện của bệnh TCM trong nghiên cứu của chúng tôi cao hơn kết quả nghiên cứu trước đó là do có sự khác biệt về địa điểm nghiên cứu. Địa điểm nghiên cứu của chúng tôi được thực hiện tại bệnh viện đa khoa quốc tế Vinmec, nơi mà đối tượng nghiên cứu có điều kiện về kinh tế, tiếp cận được nhiều phương tiện truyền thông khác nhau nên hiểu biết về bệnh cũng cao hơn so với vùng nông thôn, nơi người dân tiếp cận các phương tiện truyền thông hạn chế hơn. Mặt khác, miền Bắc là nơi mà tỷ lệ mắc bệnh TCM hàng năm không cao, còn khảo sát của Hội Chữ thập đỏ Việt Nam thực hiện tại các tỉnh Bình Dương, Đồng Nai, thành phố Hồ Chí Minh... nơi mà dịch bệnh TCM xảy ra hàng năm khá cao, do vậy công tác tuyên truyền có thể đã được thực hiện thường xuyên hơn. Một nghiên cứu của Nursyuhadah Othman và cộng sự năm 2012 tại Malaysia được thực hiện với tổng số 32 người được phỏng vấn: có 17 người được hỏi (53,1%) thông báo rằng họ biết về các triệu chứng của bệnh TCM. Trẻ bị nhiễm TCM có thể bị một số triệu chứng sau đây như sốt, loét họng, miệng và lưỡi, phát ban với mụn nước ở tay, chân, đế và ở vùng tã lót sau đó là nôn mửa và tiêu chảy. Tám người được hỏi (25%) cho biết họ không chắc chắn về các triệu chứng và 21,9% còn lại (n = 7) không biết gì về các triệu chứng. Dựa trên cuộc phỏng vấn với những người được hỏi, một số người trong số họ nhầm lẫn với sốt nói chung, bao gồm các triệu chứng giống như sốt như tiêu chảy và nôn mửa. Có 56,3% (n = 18) số người được hỏi đồng ý rằng TCM có thể gây tử vong. Chín người được hỏi (28,1%) không chắc chắn về điều đó và năm người được hỏi (15,6%) không tin rằng TCM có thể gây bệnh. Có 40,6% (n = 13) người được hỏi tin rằng TCM lây lan qua tiếp xúc với người hoặc chạm từ người bị nhiễm bệnh. Chín người được hỏi (28,1%) quyết định rằng họ không.
<span class='text_page_counter'>(66)</span> 56 chắc chắn về đường lây truyền. Sáu người được hỏi (18,8%) cho rằng TCM là bệnh truyền qua đường nước và bốn người được hỏi (n = 12,5%) cho rằng TCM lây lan qua không khí [31]. Nghiên cứu của Ruttiya Charoenchokpanit có tới 31,8% trong số người tham gia nghiên cứu không xác định bất kỳ triệu chứng nào của bệnh TCM. Ngoài ra, họ có thể nhầm lẫn giữa bệnh TCM với các bệnh về chân và miệng khác. Chỉ 39% trong số họ biết rằng bệnh TCM không phải là bệnh tương tự như bệnh về chân và miệng, và 47,1% nghĩ rằng cừu, gia súc và lợn có thể lây truyền bệnh TCM sang người [24]. Như vậy, kết quả nghiên cứu của Nursyuhadah Othman và của Ruttiya Charoenchokpanit cho tỷ lệ hiểu biết về các dấu hiệu, triệu chứng, con đường lây truyền của bệnh thấp hơn so với nghiên cứu của chúng tôi. Kiến thức về chăm sóc trẻ: 92,9% số người được phỏng vấn cho rằng nên cách ly trẻ khi trẻ mắc bệnh. Điều này rất quan trọng, chứng tỏ rằng kiến thức về phòng chống bệnh TCM của NCS rất tốt, khi họ có ý thức cần thiết phải cách ly trẻ mắc TCM thì sẽ hạn chế được khả năng lây lan dịch bệnh trong cộng đồng. Kiến thức về phòng bệnh TCM của NCS: Kết quả nghiên cứu ở bảng 3.6 cho thấy, không phải tất cả các bà mẹ đều biết đầy đủ các biện pháp phòng bệnh TCM. Phân tích kết quả trên cho thấy, NCS biết “rửa tay với xà phòng” là cao nhất chiếm 94,7%, đây là một biện pháp đơn giản, không tốn kém, không chỉ giúp phòng bệnh TCM mà còn nhiều bệnh khác. Kết quả này cũng gần giống với nghiên cứu của Cao Thị Thuý Ngân [3] và nghiên cứu của Trần Hữu Quang [17], và cao hơn rất nhiều so với nghiên cứu của Lê Thị Lan Hương [16]. Sự khác biệt này có thể do địa bàn nghiên cứu, địa bàn nghiên cứu của tác giả Cao Thị Thuý Ngân và Trần Hữu Quang cũng được thực hiện ở Hà Nội, công tác phòng bệnh nói chung và bệnh TCM nói riêng đã được quan tâm, sát sao, các thông tin đến với người dân một cách đầy đủ, cụ thể. Còn nghiên cứu của Lê Thị Lan Hương tại miền quê thuộc Hà Nam, nơi đời sống người dân còn nhiều khó khăn, tiếp cận với các phương tiện truyền. Thang Long University Library.
<span class='text_page_counter'>(67)</span> 57 thông còn chưa được đa dạng và phù hợp, do vậy, kiến thức về phòng bệnh hạn chế hơn. Ngoài ra, các biện pháp phòng bệnh khác cũng được nhiều NCS trẻ lựa chọn là: vệ sinh cá nhân (92,6%), rửa sạch đồ chơi, vật dụng, sàn nhà (92,9%), cách ly trẻ bệnh trong tuần đầu tiên (88,4%), số người lựa chọn tất cả các biện pháp là 83,2%. Như vậy, có thể nói trong nghiên cứu của chúng tôi, tỷ lệ NCS trẻ có hiểu biết đầy đủ về các biện pháp phòng bệnh TCM cho trẻ là khá cao. Chỉ có 5 người được phỏng vấn, chiếm 1,3% là không biết phòng bệnh TCM như thế nào. Nghiên cứu của Q. Liao tại Hồng Kông năm 2014: hơn 80% số người được phỏng vấn nói rằng họ thường xuyên rửa tay cho con mình và tránh cho con mình chia sẻ vật dụng cá nhân với người khác và khử trùng hộ gia đình trong 1 tuần qua. Ngoài ra, khoảng 42% và 46% số người được hỏi nói rằng nên để con họ tránh xa những nơi đông người và khử trùng đồ chơi của trẻ. Tuy nhiên, chỉ có 3 người (8%) số người được hỏi báo cáo thực hiện các hành động này để ngăn ngừa bệnh TCM. Những người được hỏi có hai con không có khả năng khử trùng đồ chơi của con mình nhiều hơn những người chỉ có một con. Có 90% (408/452) số người được hỏi cho biết họ sẽ không cho con đi học nếu bị nhiễm TCM. Trong số 374 người được hỏi có con đang theo học tại một trung tâm chăm sóc trẻ em, mẫu giáo hoặc trường học, 16% (60/374) cho biết họ sẽ giữ không cho con đi học nếu một trường hợp mắc bệnh TCM được báo cáo ở trường, tăng lên 40% (151 / 374) nếu một trường hợp tử vong được báo cáo do nhiễm trùng [28]. Như vậy, kết quả nghiên cứu của chúng tôi gần giống với kết quả nghiên cứu của Q. Liao. Mức độ kiến thức về bệnh TCM của NCS: Mức độ hiểu biết chung về kiến thức bệnh TCM ở NCS trẻ trong nghiên cứu của chúng tôi khá cao, có tới 75% người đạt 10/13 câu phỏng vấn, trong.
<span class='text_page_counter'>(68)</span> 58 đó họ phải trả lời đúng các câu liên quan đến lây bệnh, phòng bệnh và các biện pháp phòng bệnh. Tỷ lệ này cao hơn rất nhiều so với các nghiên cứu trước đây. Nghiên cứu của Lê Thị Lan Hương tỷ lệ quá thấp chỉ đạt (5,7%) [16]. Nghiên cứu của Cao Thị Thuý Ngân (41,5%) [3], tuy có cao hơn nghiên cứu của Lê Thị Lan Hương nhưng vẫn thấp hơn so với nghiên cứu của chúng tôi. Một cuộc khảo sát KAP về người giám hộ của những bệnh nhân mắc bệnh TCM dưới 5 tuổi ở Trùng Khánh năm 2015 của tác giả ZHANG Shi-yong và cộng sự cho thấy: Tỷ lệ nhận thức và điểm trung bình của người giám hộ là cha mẹ (46,9%, 6,9 ± 2,1) cao hơn người giám hộ khác (29,7%, 4,7 ± 1,6); tỷ lệ nhận thức và điểm trung bình của người giám hộ nữ (43,3%, 6,7 ± 1,9) cao hơn người giám hộ nam (33,2%, 5,0 ± 2,0); tỷ lệ nhận thức và điểm trung bình của người giám hộ từ thành phố (54,9%, 7,2 ± 2,4) cao hơn so với người giám hộ là người nhập cư (30,8%, 4,7 ± 1,6) [22]. Lý do sự khác biệt này như trên đã đề cập có thể là do khác biệt về địa bàn nghiên cứu và đối tượng nghiên cứu. Đây là điều mà ngành y tế cần phải quan tâm để thông tin về bệnh TCM tới được đều khắp mọi người dân, truyền thông đến từng địa phương, từng hộ gia đình, từ đó nâng cao kiến thức của người dân, giúp cho công tác phòng bệnh TCM đạt kết quả tốt hơn. 4.2.2. Thực hành của NCS về phòng chống bệnh TCM Bệnh TCM là bệnh thường xảy ra ở trẻ, đặc biệt là nhóm trẻ dưới 5 tuổi, bệnh thường tự khỏi tuy nhiên trong những năm gần đây đã có nhiều người bệnh TCM tử vong do không điều trị kịp thời gây biến chứng nặng của bệnh. Rửa tay thường xuyên bằng xà phòng vẫn là biện pháp hữu hiệu nhất, không chỉ phòng bệnh TCM mà còn phòng rất nhiều bệnh khác nhau. Thực hiện rửa tay với xà phòng đã được chứng minh là rất có lợi cho sức khoẻ, đặc biệt đối với những người chăm sóc trẻ thì hành vi này không chỉ có lợi cho sức khoẻ của bản thân mà còn góp phần giảm nguy cơ mắc các bệnh truyền nhiễm. Thang Long University Library.
<span class='text_page_counter'>(69)</span> 59 do bàn tay bẩn mang lại, trong đó có dịch bệnh TCM. Theo WHO chỉ cần một động tác rửa tay sạch đã giảm tới 35 - 47% nguy cơ nhiễm các bệnh TCM, thương hàn, tiêu chảy… Rửa tay với xà phòng diệt khuẩn như liều vắc xin hiệu quả, tiết kiệm cho phòng bệnh mà lúc nào cũng có thể thực hiện để bảo vệ sức khỏe cho gia đình và cộng đồng. Nghiên cứu của chúng tôi, có tới 92,4% NCS trẻ lựa chọn biện pháp rửa tay bằng xà phòng để phòng bệnh TCM. Tỷ lệ này tương đối thấp trong nghiên cứu của Lê Thị Lan Hương (32,4% - 35,2%) [16], của Cao Thị Thuý Ngân (32,0%) [30], nghiên cứu của Nguyễn Thanh Liêm (87,5%) [13], nghiên cứu của Trần Thị Anh Đào (67,5%) [18]. Sự khác biệt này có thể do thời gian và địa điểm nghiên cứu khác nhau nên thực hành phòng bệnh TCM của những đối tượng nghiên cứu cũng khác nhau. Nghiên cứu của Lê Thị Lan Hương được tiến hành ở vùng Đồng bằng Sông Hồng nơi mà tỷ lệ mắc bệnh TCM không cao, đối tượng nghiên cứu còn chủ quan, chưa quan tâm nhiều đến dịch bệnh TCM, trong khi đó nghiên cứu của Trần Thị Anh Đào được thực hiện ở huyện Long Thành, tỉnh Đồng Nai, nghiên cứu của Nguyễn Thanh Liêm được thực hiện ở Mỹ Tú, Sóc Trăng, các địa bàn này tỷ lệ mắc bệnh cao nên các ĐTNC được truyền thông nhiều và thường xuyên hơn. Nghiên cứu của chúng tôi tiến hành tại Hà Nội, lại ở một bệnh viện đa khoa quốc tế, nơi mà NCS đa số có điều kiện về kinh tế, học vấn và có điều kiện tìm hiểu và quan tâm tới sức khỏe của trẻ nhiều hơn, nên phòng bệnh TCM tốt hơn. Nghiên cứu của Ruttiya Charoenchokpanit cho thấy phần lớn số người được hỏi (60,3%) có mức độ thực hành phòng ngừa bệnh TCM tốt. Tuy nhiên, có một số phát hiện đáng lo ngại, 41,2% người trả lời hiếm khi hoặc chưa bao giờ xoa tay trong ít nhất 20 giây mỗi lần rửa tay, 43,6% trả lời rằng họ hiếm khi hoặc chưa bao giờ làm sạch đồ chơi sau khi con họ sử dụng chúng [24]. Nhìn chung, kết quả nghiên cứu của Ruttiya Charoenchokpanit thấp hơn so với.
<span class='text_page_counter'>(70)</span> 60 nghiên cứu của chúng tôi, và gần tương tự như nghiên cứu của Lê Thị Lan Hương và Cao Thị Thúy Ngân. Về vấn đề vệ sinh an toàn thực phẩm, trong nghiên cứu của chúng tôi khi phỏng vấn NCS: cho trẻ ăn chín, uống chín (91,3%). Tỷ lệ này tương tự nghiên cứu của Cao Thị Thuý Ngân (96,7%) [3] và nghiên cứu của Lê Thị Lan Hương và Trần Hữu Quang (100%) [16], [17]. Tuy nhiên, tỷ lệ không cho trẻ ăn bốc, mút tay, ngậm mút đồ chơi của chúng tôi là 78,2%, trong khi tỷ lệ này trong nghiên cứu của Lê Thị Lan Hương rất thấp (6,7%) [16]. Nếu trong nghiên cứu của chúng tôi, tỷ lệ NCS rửa sạch vật dụng ăn uống trước khi sử dụng là 74,8%, không cho trẻ dùng chung khăn ăn, cốc, bát, thìa (71,1%) thì trong nghiên cứu của Lê Thị Lan Hương chỉ có 10,5% [16], Trần Hữu Quang (36,8%) [17]. Đây là những thói quen rất nguy hại, nếu nhiễm phải vi rút gây bệnh TCM, thì nguy cơ lây bệnh rất cao, dễ bùng phát dịch bệnh TCM trong cộng đồng, cần tăng cường truyền thông và hướng dẫn người dân thực hiện các biện pháp này một cách thường xuyên, tích cực và hiệu quả. Kết quả nghiên cứu của chúng tôi cũng cho thấy NCS thường xuyên vệ sinh nhà cửa sạch sẽ chiếm 86,8%, tỷ lệ này cao hơn so với nghiên cứu của Lê Thị Lan Hương là 33,3% [16], cao hơn nghiên cứu của Nguyễn Thanh Liêm [13] và nghiên cứu của Trần Hữu Quang [17]. Có 77,7% NCS trẻ thường xuyên làm sạch đồ chơi, nơi trẻ hay bám tay vào và 72,7% NCS trẻ có thu gom, xử lý phân, chất thải của trẻ đổ vào nhà tiêu hợp vệ sinh. Tỷ lệ này cao hơn so với nghiên cứu của Lê Thị Lan Hương (4,8%) [16], nghiên cứu của Cao Thị Thúy Ngân (29,5%) [3] và thấp hơn so với nghiên cứu của Đặng Quang Ánh (83,8%) [5]. Theo khuyến cáo của Bộ Y tế và Cục Y tế dự phòng, việc lau rửa vệ sinh sàn nhà, đồ chơi, đồ dùng, của trẻ hàng ngày với xà phòng và lau chùi sạch sẽ đồ chơi, đồ dùng của trẻ hàng tuần với dung dịch khử trùng là điều rất cần thiết trong công tác phòng bệnh TCM. Nghiên cứu của chúng tôi 73,4% NCS nói rằng thường xuyên rửa tay trẻ với nước sạch và xà phòng, đồng thời bản thân. Thang Long University Library.
<span class='text_page_counter'>(71)</span> 61 NCS trẻ cũng thường xuyên rửa tay bằng xà phòng trước khi chăm sóc trẻ (99,2%), rửa tay sau khi đi vệ sinh, sau thay tã, vệ sinh cho trẻ (99,7%), cách NCS vệ sinh cho đồ chơi của trẻ bằng việc ngâm bằng nước sạch và xà phòng (50,1%), ngâm bằng dung dịch khử khuẩn (14,6%). Các biện pháp làm sạch đồ chơi của trẻ của NCS được phỏng vấn cũng vẫn chiếm một tỉ lệ thấp. Đa số NCS chỉ rửa bằng nước sạch hoặc lau chùi cho sạch bụi bẩn, rất ít người có kiến thức trong việc khử khuẩn đồ chơi cho trẻ. Đây sẽ là một nội dung quan trọng cần tập trung để đề khuyến cáo cho NCS trẻ được biết và thực hành tốt hơn trong tương lai. Vệ sinh đồ chơi, vật dụng cho trẻ không chỉ phòng chống bệnh TCM mà còn rất nhiều bệnh lan truyền qua đường hô hấp, tiêu hóa. Cách xử trí của NCS khi phát hiện trẻ mắc bệnh TCM trong nghiên cứu của chúng tôi bao gồm: đưa trẻ đến cơ sở y tế khám và điều trị (62,5%), cho trẻ nghỉ học đến khi khỏi hẳn (80,2%), báo cho cô giáo/người trông trẻ biết (67,0), báo cho các nhà hàng xóm có trẻ biết (34,4%). Nghiên cứu của Nursyuhadah Othman cho thấy về hành động của người chăm sóc trẻ khi con của họ bị nhiễm TCM như sau: đa số những người được hỏi (93,8%) (n = 30) đồng ý tìm cách điều trị ngay lập tức từ bác sĩ trong khi nhận thấy các triệu chứng của TCM. Một số người được hỏi (3,1%) chọn dùng thuốc không kê đơn. Một số người trả lời khác đã quyết định chờ đợi để theo dõi thêm trong trường hợp các triệu chứng có thể tái phát, nếu các triệu chứng không thuyên giảm hoặc trở nên tồi tệ hơn sau vài ngày họ sẽ tìm kiếm sự tư vấn của bác sĩ. Nghiên cứu cho thấy, có 65,6% số người được hỏi (n = 21) đồng ý thực hành vệ sinh đầy đủ để ngăn ngừa bệnh lây lan và 6,3% (n = 2) người trả lời quyết định không cho con đi học mẫu giáo hoặc trường học trong thời gian dịch TCM. Chín người được hỏi (n= 28,1%) đã quyết định thực hành cả hai phương pháp để ngăn ngừa TCM [31]. Nhìn chung, số trường hợp NCS phát hiện trẻ mắc bệnh TCM mà đưa trẻ tới cơ sở y tế khám và điều trị trong nghiên cứu của chúng tôi thấp hơn nhiều so với nghiên cứu của Nursyuhadah Othman, trong khi hiện nay, số trẻ tử vong.
<span class='text_page_counter'>(72)</span> 62 do TCM cũng chiếm một tỉ lệ nhất định, nhất là các biến chứng của bệnh. Do vậy, đây cũng là một yếu tố cần tập trung hơn khi truyền thông cho cộng đồng, khi phát hiện trẻ mắc TCM thì nên đưa trẻ tới cơ sở y tế khám và điều trị kịp thời, trường hợp nhẹ có thể cho trẻ về nhà theo dõi, tuy nhiên NCS sẽ được hướng dẫn cách theo dõi trẻ từ nhân viên y tế, như vậy sẽ đảm bảo an toàn cho trẻ hơn là để trẻ ở nhà không cho đi khám khi trẻ có dấu hiệu của bệnh. Các biện pháp cách ly trẻ được NCS trẻ làm khá tốt, có nhiều NCS trẻ đã biết báo việc trẻ mắc bệnh cho cô giáo/người trông trẻ biết cũng như hàng xóm để phòng tránh lây nhiễm sang cộng đồng. Tuy nhiên, việc báo cáo cho chính quyền biết để chính quyền có thể can thiệp kịp thời xử lý môi trường xung quanh tránh dịch lây lan thì vẫn chưa được NCS thực hiện nhiều, tỷ lệ NCS báo chính quyền khi trẻ mắc bệnh TCM chỉ chiếm 10,3%. Mặc dù chưa có bộ luật nào quy định khi trẻ mắc TCM nhất thiết phải báo cáo cho chính quyền, tuy nhiên, trong các thông điệp truyền thông, chúng ta nên khuyến cáo cho người dân biết, khi phát hiện ra trẻ mắc TCM thì nên báo cáo cho chính quyền nơi mình sinh sống được biết. Trong 380 NCS trẻ được phỏng vấn, chúng tôi quan sát trực tiếp được 47 NCS trẻ có trẻ đang mắc bệnh TCM tại khoa Nhi, bệnh viện Vinmec, hoạt động quan sát bao gồm: rửa tay trước khi cho trẻ ăn; rửa tay bằng xà phòng; rửa tay sạch; vệ sinh răng, miệng, lợi; vệ sinh da, nốt phỏng; rửa sạch đồ chơi, vật dụng của trẻ; rửa tay cho trẻ sau khi chơi và trước khi ăn. Sau khi quan sát chúng tôi thấy có 33 người (70,2%) đạt trên 75% số điểm, có 14 người (29,8%) dưới 75% số điểm. Như vậy, tỷ lệ có thực hành đúng về chăm sóc, vệ sinh cho trẻ mắc TCM chiếm >70%, một tỷ lệ cũng khá cao so với các nghiên cứu khác. Mặc dù số liệu quan sát được còn ít, chưa thể mang tính đại diện, tuy nhiên với con số >70% NCS thực hành đúng cũng là một điều đáng mừng, tỷ lệ này cũng cao hơn so với một số nghiên cứu khác như nghiên cứu của Lê Thị Lan Hương tỷ lệ bà mẹ có con dưới 5 tuổi có thực hành phòng bệnh TCM đạt rất thấp chỉ 4,8% [16], nghiên cứu của Cao Thị Thuý Ngân (30,5%) [3] và nghiên cứu của. Thang Long University Library.
<span class='text_page_counter'>(73)</span> 63 Trần Hữu Quang (45,2%) [17]. Tỷ lệ thấp hơn những nhân viên phục vụ tại trường Đại học UTAR của Malaysia trong nghiên cứu của Shiela R và cộng sự năm 2011 [33] và nghiên cứu của WANG Wen-ming, WANG Hua và XUE Lijian (67,24%) [36]. 4.3. Một số yếu tố liên quan đến kiến thức, thực hành phòng bệnh TCM của đối tượng nghiên cứu 4.3.1. Mối liên quan về kiến thức bệnh TCM của đối tượng nghiên cứu Trong nghiên cứu của chúng tôi, có 2 yếu tố liên quan có ý nghĩa đến kiến thức của NCS trẻ. Một là nhóm người dân tộc khác có kiến thức về bệnh TCM chỉ bằng 8% so với nhóm người dân tộc Kinh. Nghiên cứu của chúng tôi thu thập được số liệu người Kinh là chủ yếu 375 người (98,7%), trong khi đó nhóm người dân tộc khác chỉ có 5 người (1,3%), tuy nhiên sự khác biệt về kiến thức về bệnh TCM đã được khẳng định với p<0,05. Nhóm thứ 2 là nhóm người có thu nhập trung bình đầu người/hộ gia đình/tháng ≥20 triệu có kiến thức về bệnh TCM tốt hơn nhóm người có thu nhập trung bình <10 triệu là 4,9 lần, sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê với p<0,05. Nghiên cứu của chúng tôi có kết quả khác biệt so với một số nghiên cứu trước đó. Nghiên cứu của Lê Thị Ánh Kim và cộng sự tại Lương Sơn, Hòa Bình năm 2013 cho kết quả khác biệt: nghiên cứu đã tìm ra mối liên quan giữa trình độ học vấn và số năm kinh nghiệm với kến thức bệnh TCM. Cụ thể, giáo viên có trình độ trên cao đẳng có kiến thức về dịch tễ hoặc và bệnh tốt hơn nhóm có trình độ dưới cao đẳng (OR = 2,548; 95% CI: 1,179-5,505), giáo viên có kinh nghiệm dưới 5 năm có kiến thức về bệnh pháp phòng ngừa tốt hơn nhóm có trên 5 năm kinh nghiệm (OR = 0,084; 95% CI: 0,009-0,767) [2]. Nghiên cứu của Hà Minh Trang tại Đan Phượng, Hà Nội năm 2016 cũng cho kết quả có mối liên quan giữa trình độ học vấn với kiến thức về bệnh TCM [11]. Nghiên cứu của Vũ Thị Huyền tại huyện Văn Chấn, Yên Bái năm 2013 cho thấy có mối mối liên quan có ý nghĩa thống kê giữa nghề nghiệp và kiến.
<span class='text_page_counter'>(74)</span> 64 thức về bệnh TCM của đối tượng nghiên cứu. Người làm ruộng có kiến thức về bệnh TCM đạt thấp hơn các đối tượng khác 21,2% [1]. Tuy nghiên cứu của chúng tôi kết quả có sự khác biệt với các nghiên cứu trong nước, nhưng có một số điểm khá giống với nghiên cứu của Ruttiya Charoenchokpanit. Trong nghiên cứu của Ruttiya có nhiều biến số nhân khẩu học xã hội có liên quan đến kiến thức, thái độ và hành vi của người chăm sóc tại nhà. Họ tìm thấy liên quan giữa bệnh TCM và người chăm sóc trẻ với tuổi (p = 0,024), trình độ học vấn (p = 0,012), nghề nghiệp (p = 0,001), thu nhập gia đình (p <0,001), mối quan hệ với trẻ em (p = 0,006) và tiền sử mắc bệnh TCM (p = 0,004); Thái độ được tìm thấy gắn liền với trình độ học vấn (p <0,001), thu nhập gia đình (p = 0,001); hành vi phòng bệnh TCM có liên quan đến giới tính (p = 0,007), giáo dục (p = 0,034), thu nhập gia đình (p <0,001). Những người được hỏi có trình độ học vấn hoặc thu nhập cao hơn thường có kiến thức cao, thái độ tốt hơn và thực hành tốt hơn so với những người có trình độ học vấn thấp hơn và thu nhập gia đình thấp hơn [24]. Chưa thấy nghiên cứu nào chỉ ra sự khác biệt về nhóm dân tộc liên quan đến kiến thức bệnh TCM như trong nghiên cứu của chúng tôi. Tuy nhiên, một nghiên cứu của Nghiên cứu của Chadaporn Inta và cộng sự tại tỉnh Chiang Rai, Thái Lan trên 380 đối tượng cho thấy mối liên quan với bệnh TCM như sau: Mô hình hồi quy logistic đơn biến cho thấy ba yếu tố có liên quan đến TCM: trẻ em có cha mẹ theo đạo Phật có nguy cơ nhiễm bệnh cao hơn (3,34 lần) so với những người có cha mẹ theo đạo Kitô (90% CI: 1,58-7,03); một điều nghịch lý nữa là những đứa trẻ có cha mẹ tốt nghiệp với bằng cử nhân có nguy cơ bị nhiễm trùng cao hơn so với những người có cha mẹ không được học hành (2,96 lần) (90% CI =1,14-7,73) và những đứa trẻ có cha mẹ có kiến thức về TCM trung bình và cao có nguy cơ lớn hơn 3,49 lần (90% CI =1,58-7,71) và 4,39 lần (90% CI = 2,06-9,35) nhiễm trùng hơn những người có kiến thức thấp. Nghiên cứu còn chỉ ra nữ có nguy cơ lớn hơn (1,80 lần) để phát triển TCM so với nam. Thang Long University Library.
<span class='text_page_counter'>(75)</span> 65 giới (90% CI = 1,08-3,00); trẻ thiếu cân có nguy cơ lớn hơn (3,50 lần) để phát triển TCM hơn những người thừa cân (90% CI = 1,24-9,88); và trẻ có tiền sử bú sữa mẹ <6 tháng có nguy cơ lớn hơn (2,12 lần) để phát triển TCM so với những trẻ có tiền sử bú sữa mẹ 6 tháng (90% CI = 1,31-3,33) [26]. Có sự khác biệt về mối liên quan giữa các yếu tố với kiến thức của NCS với bệnh TCM có thể do đối tượng nghiên cứu và địa điểm nghiên cứu khác nhau. Nghiên cứu của chúng tôi tiến hành tại khoa Nhi bệnh viện đa khoa quốc tế Vinmec, Hà Nội, nơi mà đa số các đối tượng đều có trình độ học vấn cao, thu nhập bình quân đầu người tương đối lớn, sống tại vùng đô thị đặc biệt, các phương tiện thông tin đại chúng rất đa dạng, từ tivi, máy tính, internet, smart phone. Do vậy, NCS trẻ có thể dễ dàng tiếp cận nguồn thông tin về bệnh TCM, dẫn đến khi phân tích số liệu, không thấy rõ sự khác biệt nhiều về các yếu tố trình độ học vấn. 4.3.2. Mối liên quan đến thực hành phòng bệnh TCM của đối tượng nghiên cứu Nghiên cứu của chúng tôi chưa thấy có sự khác biệt nào có ý nghĩa thống kê giữa thực hành phòng bệnh TCM của NCS trẻ với các biến số nhân khẩu học xã hội. Đa số các nghiên cứu trong nước, ngoài nước đều có một vài biến số có ý nghĩa khác biệt. Nghiêu cứu của Lê Thị Nhật Duyên tại Khánh Hòa Năm 2018 đã chỉ ra được mối liên quan có ý nghĩa thống kê giữa kiến thức, dân tộc, trình độ học vấn, nghề nghiệp, kinh tế hộ gia đình, số lượng nguồn thông tin về phòng bệnh tay chân miệng mà đối tượng nghiên cứu được tiếp cận với thực hành phòng bệnh tay chân miệng (p<0,001) [12]. Nghiên cứu của Lê Thị Lan Hương năm 2018 tại Hà Nam cho kết quả: có mối tương quan đồng biến giữa kiến thức và thực hành phòng bệnh TCM cho trẻ của các bà mẹ có con dưới 5 tuổi (p<0,001, r = 0,594). Khi điểm kiến thức phòng bệnh TCM của đối tượng nghiên cứu tăng thêm 1 điểm thì điểm thực hành phòng bệnh TCM cũng tăng thêm 0,343 điểm. Tuy nhiên, chỉ có 35,2% sự biến thiên của điểm.
<span class='text_page_counter'>(76)</span> 66 thực hành phòng bệnh TCM được lý giải bởi sự biến thiên của điểm kiến thức phòng TCM ở bà mẹ có con dưới 5 tuổi [16]. Nghiên cứu của Lê Thị Ánh Kim cũng cho thấy trình độ học vẫn và số lượng trẻ có mối liên quan với thực hành rửa tay của bản thân giáo viên, tuổi và số lượng trẻ phụ trách của giáo viên còn mối liên quan với thực hành lau rửa đồ chơi cho trẻ [2]. Nghiên cứu của Ruttiya Charoenchokpanit cho thấy những người được hỏi có trình độ học vấn hoặc thu nhập cao hơn thường có kiến thức cao, thái độ tốt hơn và thực hành tốt hơn so với những người có trình độ học vấn thấp hơn và thu nhập gia đình thấp hơn [24]. Nghiên cứu của chúng tôi không thấy có sự khác biệt về thu nhập hộ gia đình với thực hành tốt hơn về bệnh TCM. Tuy nhiên, tất cả các thông tin thực hành trong nghiên cứu được đánh giá thông qua phỏng vấn, vì chỉ quan sát được 47 đối tượng (tổng 380 đối tượng nghiên cứu) nên không đánh giá thông qua quan sát, vì vậy thông tin thu thập có thể có sai số. Dù có hạn chế này nhưng nghiên cứu đã đóng góp vào việc xác định kiến thức, thái độ, thực hành về bệnh TCM và các yếu tố liên quan của NCS trẻ tại bệnh viện đa khoa quốc tế Vinmec. Các nghiên cứu trước đây đa phần chỉ làm tại cộng đồng, chưa có đánh giá trong bệnh viện nên nghiên cứu của chúng tôi cũng góp phần so sánh được sự khác biệt giữa các nhóm đối tượng nghiên cứu và địa điểm nghiên cứu.. Thang Long University Library.
<span class='text_page_counter'>(77)</span> 67 KẾT LUẬN 1. Kiến thức, thực hành phòng chống bệnh tay chân miệng của người chăm sóc trẻ tại Khoa Nhi 2, Bệnh viện Vinmec năm 2019 1.1. Kiến thức phòng chống bệnh TCM của NCS trẻ - NCS trẻ biết được bệnh TCM là bệnh lây chiếm 95,5%. Tuy nhiên, tỷ lệ biết đúng đường lây truyền bệnh lại rất thấp, tỷ lệ NCS trẻ biết đường lây truyền từ nốt phỏng nước trên da là nguyên nhân lây bệnh chiếm 76,5%, tỉ lệ NCS biết đường lây truyền của bệnh qua các con đường hô hấp, tiêu hóa cũng thấp, chỉ đạt từ 33,8% – 37%. - Tỷ lệ NCS trẻ có hiểu biết đầy đủ về các biện pháp phòng bệnh TCM cho trẻ là khá cao. Chỉ có 5 người được phỏng vấn, chiếm 1,3% là không biết phòng bệnh TCM như thế nào. - Mức độ hiểu biết chung về kiến thức bệnh TCM ở NCS trẻ trong nghiên cứu của chúng tôi khá cao, có tới 75% người đạt 10/13 câu phỏng vấn, trong đó họ phải trả lời đúng các câu liên quan đến lây bệnh, phòng bệnh và các biện pháp phòng bệnh. 1.2. Thực hành về phòng chống bệnh TCM của NCS trẻ - Các biện pháp làm sạch đồ chơi của trẻ của NCS được phỏng vấn cũng vẫn chiếm một tỉ lệ thấp chỉ 50,1%. Đa số NCS chỉ rửa bằng nước sạch hoặc lau chùi cho sạch bụi bẩn, rất ít người có kiến thức trong việc khử khuẩn đồ chơi cho trẻ. - Tỷ lệ NCS phát hiện trẻ mắc bệnh TCM mà đưa trẻ tới cơ sở y tế khám và điều trị còn chưa được cao chỉ 62,5%, trong khi hiện nay, số trẻ tử vong do TCM cũng chiếm một tỉ lệ nhất định, nhất là các biến chứng của bệnh. - Quan sát 47 NCS trẻ có trẻ đang mắc TCM tại khoa Nhi, bệnh viện đa khoa quốc tế Vinmec, chúng tôi thấy số người thực hành đúng về chăm sóc, vệ sinh cho trẻ mắc TCM chiếm >70%. Mặc dù số liệu quan sát được còn ít, chưa.
<span class='text_page_counter'>(78)</span> 68 thể mang tính đại diện, tuy nhiên với con số >70% NCS thực hành đúng cũng là một điều đáng mừng. 2. Một số yếu tố liên quan đến kiến thức, thực hành phòng chống bệnh tay chân miệng của đối tượng nghiên cứu 2.1. Một số yếu tố liên quan đến kiến thức phòng chống bệnh TCM của NCS trẻ - Nhóm người có thu nhập trung bình đầu người/hộ gia đình/tháng ≥20 triệu có kiến thức về bệnh TCM tốt hơn nhóm người có thu nhập trung bình <10 triệu là 4,9 lần, sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê với p<0,05. - Không thấy có mối liên quan có ý nghĩa thống kê giữa giới tính, nhóm tuổi, tôn giáo, mối quan hệ của NCS và bệnh nhi với kiến thức của NCS trẻ. 2.2. Một số yếu tố liên quan đến thực hành phòng chống bệnh TCM của NCS trẻ - Nghiên cứu của chúng tôi không thấy có liên quan nào giữa các đặc điểm nhân khẩu học và thực hành của NCS trẻ với phòng chống bệnh TCM.. Thang Long University Library.
<span class='text_page_counter'>(79)</span> 69 KHUYẾN NGHỊ Đối với người chăm sóc trẻ: -. Duy trì các hoạt động phòng bệnh TCM đã và đang thực hiện và áp dụng. thực hiện tốt, thường xuyên, đầy đủ các biện pháp phòng bệnh TCM khi chăm sóc trẻ. -. Chủ động và tích cực tham gia các hoạt động hướng dẫn phòng bệnh. TCM do tổ dân phố, phường, quận tổ chức. Tích cực tham gia tuyên truyền cho gia đình, bạn bè, cộng đồng phòng bệnh TCM. Đối với cán bộ nhân viên khoa Nhi, bệnh viện đa khoa quốc tế Vinmec: -. Xây dựng thông điệp truyền thông phòng chống bệnh TCM, có thể là. Pano, áp phích hoặc các quyển sách nhỏ treo tại hành lang khoa hoặc trong mỗi phòng bệnh để người nhà bệnh nhân có thể thường xuyên nhìn thấy các thông điệp truyền thông. -. Các thông điệp truyền thông nên ngắn ngọn, dễ hiểu, tập trung chủ yếu. vào các con đường lây truyền bệnh TCM và các biện pháp vệ sinh, khử khuẩn đồ chơi của trẻ nhỏ cũng như môi trường sống quanh trẻ mà trẻ tiếp xúc hàng ngày. -. Thường xuyên tập huấn cho cán bộ y tế tại khoa Nhi về phòng chống. bệnh TCM, khi có bệnh nhi mắc bệnh TCM vào khoa thì cán bộ y tế nên trực tiếp tới hướng dẫn cho NCS trẻ các biện pháp chăm sóc trẻ cũng như phòng tránh lây lan bệnh ra cộng đồng. -. Có thể mở rộng thông điệp truyền thông về phòng chống bệnh TCM. xuống khoa khám bệnh, vì đây là nơi khám và tiếp nhận bệnh nhi đầu tiên..
<span class='text_page_counter'>(80)</span> 70 TÀI LIỆU THAM KHẢO Tiếng Việt: 1. Admin (2019). Kiến thức về bệnh tay chân miệng của người dân tại xã Sơn Thịnh, huyện Văn Chấn, tỉnh Yên Bái năm 2013. Luận Văn Y Học, < accessed: 16/09/2019. 2. Ánh L.T.K., Chi Đ.T.T., và Hồng L.T. Phần mềm Tạp chí mở. 3. Cao Thị Thuý Ngân (2012), Kiến thức, thái độ, thực hành phòng chống bệnh tay chân miệng của bà mẹ có con dưới 3 tuổi tại phường Trung Liệt quân Đống Đa Hà Nội. Luận văn Thạc sỹ Y tế Công cộng, Trường Đại học Y tế Công cộng. 4. Chủ động phòng bệnh tay chân miệng - Các văn bản liên quan - Bo Y Te. < accessed: 13/09/2019. 5. Đặng Quang Ánh (2013), Kiến thức, thái độ, thực hành và các yếu tố liên quan đến thực hành phòng, chống bệnh TCM của người chăm sóc trẻ dưới 5 tuổi trên địa bàn quận Thanh Khê, Đà Nẵng. Luận văn Thạc sỹ Y tế Công cộng, Trường Đại học Y tế Công cộng. 6. Hội Chữ thập đỏ Việt Nam (2011), Báo cáo khảo sát sơ bộ về bệnh tay chân miệng. Tr. 7-11. 7. Hướng dẫn chẩn đoán bệnh tay chân miệng – Bệnh Viện Nhi Trung Ương. < accessed: 13/09/2019. 8. Khảo sát về kiến thức chăm sóc bệnh Nhi Tay chân miệng của các bà mẹ tại Bệnh viện Nhi Đồng Cần Thơ - Tạp Chí Y học Thực Hành - Bộ Y Tế. < Thang Long University Library.
<span class='text_page_counter'>(81)</span> 71 mieng-cua-cac-ba-me-tai-benh-vien-nhi-dong-can-tho_t4580.aspx>, accessed: 16/09/2019. 9. Khoa học công nghệ. < accessed: 13/09/2019. 10. Khuyến cáo phòng bệnh tay chân miệng - Các văn bản liên quan - Bo Y Te. < accessed: 13/09/2019. 11. Nam H.Y. học dự phòng V. Kiến thức và thực hành về phòng chống bệnh tay chân miệng của người chăm sóc trẻ chính trong gia đình có trẻ dưới 5 tuổi tại xã Liên Hồng – Đan Phượng – Hà Nội, năm 2016. < accessed: 27/08/2020. 12. Nam H.Y. học dự phòng V. Kiến thức, thực hành và một số yếu tố liên quan đến phòng bệnh tay chân miệng của người chăm sóc chính trẻ dưới 5 tuổi tại xã Ba Cụm Bắc, huyện Khánh Sơn, tỉnh Khánh Hòa, năm 2018. < accessed: 27/08/2020. 13. Nguyễn Thanh Liêm (2015), Kiến thức, thực hành và một số yếu tố liên quan đến phòng bệnh Tay chân miệng của bà mẹ có con dưới 5 tuổi tại 3 xã, huyện Mỹ Tú, Tỉnh Sóc Trăng. Luận văn Thạc sỹ Y tế Công cộng, Trường Đại học Y Tế Công cộng. 14. Nguyễn Thị Hồng Lụa (2015), Thực trạng bệnh TCM và kiến thức, thực hành phòng bệnh TCM của người dân tại hai xã của huyện Chư Sê, tỉnh Gia Lai. Luận văn Thạc sỹ Y học, Trường Đại học Y Hà Nội..
<span class='text_page_counter'>(82)</span> 72 15. Tìm hiểu về EV71 - Tác nhân gây viêm não, tay chân miệng. < accessed: 13/09/2019. 16. Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Y tế công cộng: Đánh giá kết quả can thiệp cải thiện kiến thức, thực hành phòng chống bệnh tay-chân-miệng của bà mẹ có con. dưới. 5. tuổi. tại. xã. An. Lão,. Bình. Lục,. Hà. Nam.. < accessed: 16/09/2019. 17. Trần Hữu Quang (2013), Kiến thức, thực hành và một số yếu tố liên quan đến phòng, chống bệnh TCM của người chăm sóc chính với trẻ dưới 5 tuổi tại xã Lệ Chi, Huyện Gia Lâm, Hà Nội. Luận văn thạc sỹ Y tế Công cộng, Trường Đại học Y tế Công cộng. 18. Trần Thị Anh Đào và cộng sự (2013), Kiến thức và thực hành về phòng bệnh TCM của bà mẹ có con dưới 5 tuổi ở huyện Long Thành, Tỉnh Đồng Nai năm 2012. Trường Đại học Y Dược Huế. 19. Văn phòng Khu vực Tây Thái Bình Dương | Bệnh tay chân miệng. WPRO, < , accessed: 13/09/2019. 20. Vũ Trọng Phòng (2013), Thực trạng bệnh và kiến thức, thái độ, thực hành phòng bệnh TCM của bà mẹ có con dưới 10 tuổi tại huyện Bình Giang, Hải Dương. Luận văn Thạc sỹ Y tế Công cộng, Trường Đại học Y Thái Bình.. Tiếng Anh: 21. (2019). Hand Foot and Mouth Disease | Home | HFMD | CDC. < accessed:. 13/09/2019.. Thang Long University Library.
<span class='text_page_counter'>(83)</span> 73 22. Abu Zarinbin Z. (2012). An interventional study on the knowledge, attitude and practice on hand, foot and mouth disease among the parents or caregivers of children aged 10 and below at Nanga Sekuau resettlement scheme from 26th March to 10th June 2012. 23. Aida S., Mahadzar S., và Abdul Rahman H. (2019). Knowledge, Attitude and Practice towards Hand, Foot and Mouth Disease (HFMD) Among Nursery Governesses in Klang Valley, Selangor. Malaysian Journal of Medicine and Health Sciences, 15, 40–47. 24. Aiewtrakun J., Chotivanich W., Mungwatthana P. và cộng sự. (2012). Knowledge and Practice in Prevention and Control of Hand, Foot and Mouth Diseases in Child Care Centers in Khon Kaen Municipality. 25. A survey on Hand-foot-mouth Disease knowledge, attitude and practice of guardian of Hand-foot-mouth Disease patients under 5 years in Chongqing-《Chinese. Journal. of. Health. Education》2015年09期.. < accessed: 16/09/2019. 26. Chaiwut B., Anuwatnonthakate A., và Apidechkul T. (2019). FACTORS ASSOCIATED WITH HAND, FOOT AND MOUTH DISEASE AMONG CHILDREN IN CHIANG RAI PROVINCE, NORTHERN THAILAND: A HOSPITAL-BASED STUDY. Southeast Asian J Trop Med Public Health, 50(2), 15. 27. CHAN, M. C. K. & WONG, H. B. Hand-foot and mouth disease. Journal ofthe Singapore Paediatric Society, 15: 31-34 (1973). 28. Charoenchokpanit R. và Pumpaibool T. (2013). Knowledge Attitude and Preventive Behaviors towards Hand Foot and Mouth Disease among Caregivers of Children Under Five Years Old in Bangkok, Thailand. Journal of Health Research, 27(5), 281–286..
<span class='text_page_counter'>(84)</span> 74 29. Chung, P. W., Huang, Y. C., Chang, L. Y., & et al. (2001), “Duration of enterovirus shedding in stool”, J Microbiol Immunol Infect, 34(3), pp. 167170. 30. Inta C., Apidechkul T., Sittisarn S. và cộng sự. (2017). Factors associated with hand foot mouth disease among children in day care center, Chiang Rai, Thailand. Asian Pacific Journal of Tropical Disease, 7, 391–395. 31. IFRC – DREF (2012), DREF final report: Vietnam – Hand, Food and Mouth disease. 32. Liao Q., Lam W.W.T., Cowling B.J. và cộng sự. (2018). Parental perspectives on hand, foot, and mouth disease among children in Hong Kong: a longitudinal study. Epidemiology & Infection, 146(3), 324–332. 33.MDRVN01003_Report_on_KAP_HFMD_Eng_Finalised. 190612.pdf.. < HFMD_Eng_Finalised%20190612.pdf>, accessed: 22/10/2020. 34. Ooi MH, et al. Clinical features, diagnosis and management of human enterovirus 71 infection. Lancet Neurology, 2010, 9(11):1097–1105. 35. Ooi, M. H., Solomon, T., Podin, Y., & et al. (2007), “Evaluation of different clinical sample types in diagnosis of human enterovirus 71- associated hand-foot-and-mouth disease”, J Clin Microbiol, 45(6), pp. 1858-1866. 36. OTHMAN N., Wi W., che lamin R. và cộng sự. (2012). Knowledge, Attitude and Practices Regarding Hand, Foot and Mouth Disease (HFMD) of Visitors in Hospital Tengku Ampuan Afzan, Pahang. 37. Phung H.T.K. Effectiveness of Teaching About Preventing and Detecting Complications of Hand, Foot, and Mouth Disease at My Phuoc Hospital. 69. 38. Thongchai C. và Promasatayaprot V. Health Behaviors Related to Preventing Disease of Hand Foot and Mouth Disease of Child Caregivers in Child Development Center Ubon Ratchathani Province, Thailand. 1.. Thang Long University Library.
<span class='text_page_counter'>(85)</span> 75 39. Schmidt NJ, Lennette EH, Ho HH. An apparently new enterovirus isolated from patients with disease of the central nervous system. Journal of Infectious Diseases, 1974, Mar,129(3):304– 309. 40. Shiela R., Annaletchumy L., and Kavitha S. (2011), Knowledge attitude and practice on hand, foot and mouth disease (HFMD): A cross - sectional study on non - academic staff of UTAR Kampar Campus. Malaysia Family Physician. 6: p. 47. 41. Solomon, T., Lewthwaite, P., Perera, D., & et al. (2010), “Virology, epidemiology, pathogenesis, and control of enterovirus 71”, Lancet Infect Dis, 10(11), pp. 778-790. 42. Suliman Q., Said S., và Zulkefli N.A.M. (2017). Predictors of Preventive Practices towards HFMD among Mothers of Preschool Children in Klang District. 12. 43. WANG Wen-ming, et al. (2012), Survey on Related Knowledge and Behavior for Hand-foot-and-mouth Disease Among Kindergarten Teachers and Parents of Children in the Urban Area of Kunshan City..
<span class='text_page_counter'>(86)</span> 76 PHIẾU PHỎNG VẤN NGƯỜI CHĂM SÓC TRẺ. Mã số bệnh án:……. Mã số nghiên cứu:…... Quan hệ của NCS với bệnh nhi: Bố/Mẹ = 1 Ông/bà = 2 Họ hàng = 3 Người giúp việc = 4 Để có cơ sở cho việc giáo dục sức khỏe về bệnh TCM và góp phần chăm sóc bệnh nhi mắc TCM tốt hơn, anh chị vui lòng trả lời một số câu hỏi sau đây của chúng tôi. Thông tin của anh chị sẽ được bảo mật, chỉ phục vụ cho mục đích nghiên cứu và phục vụ người bệnh. Xin cảm ơn anh chị. Anh chị có đồng ý tham gia nghiên cứu không ? 1. Có 2. không. A. THÔNG TIN CHUNG NCS ………………….. A1. Họ và tên A2. Năm sinh. ……………….. 1. Nam. A3. Giới tính. 2. Nữ 1. Không. A4.Tôn giáo. 2. Đạo phật 3. Thiên chúa giáo 4. Khác 1. Kinh. A5.Dân tộc A6. Số con dưới 5 tuổi A7.Thu nhập trung bình/đầu. 2. Khác …………………… …………………... người/hộ gia đình. Thang Long University Library.
<span class='text_page_counter'>(87)</span> 77 A8. Gia đình hiện có những phương tiện thông tin nào sau đây?. 1. Đài 2. Ti vi 3. Máy vi tính 4. Báo (nếu có ghi rõ báo gì): …………………….……… 5. Tạp chí (nếu có ghi rõ tạp chí gì):. ………………………………………. 6. Không có phương tiện gì 7. Khác (ghi rõ): …………………………………… 1. Có A9. Trong thời gian qua, anh/chị có được nghe tư vấn, phát tờ rơi…… về bệnh. Trong chương trình nào:. …………………………………………………… 2. Không. TCM không?. B. KIẾN THỨC CỦA NCS TRẺ VỀ BỆNH TCM B1. B2. Anh chị đã nghe nói về bệnh TCM. Có nghe = 1. bao giờ chưa?. Chưa nghe = 2. Nếu có thì anh chị tiếp cận nguồn thồng tin từ:. Đài, báo, ti vi, internet = 1 Từ gia đình, bạn bè = 2 Từ nhân viên y tế = 3. B3. B4. Theo anh/chị bệnh TCM có lây không?. Có = 1 Không = 2. Theo anh/chị bệnh TCM lây qua. Không biết = 3 Hô hấp = 1. đường nào?. Tiêu hóa = 2 Tiếp xúc từ nốt phỏng nước trên da = 3 Không biết = 4. B5. Theo anh/chị bệnh TCM có phòng được không?. Có = 1 Không = 2 Không biết = 3.
<span class='text_page_counter'>(88)</span> 78 B6. Nếu phòng được thì phòng bằng cách nào?. Vệ sinh cá nhân = 1 Rửa tay trẻ và NCS bằng xà phòng = 2 Rửa sạch đồ chơi, vật dụng, sàn nhà = 3 Cách ly trẻ bệnh trong tuần đầu tiên = 4 Tất cả các biên pháp trên= 5 Không biết = 6. B7. Anh/chị hãy kể tên những dấu hiệu của bệnh TCM Sốt: Có = 1 Không = 2 Ho, khó thở: Có = 1 Không = 2 Nôn, tiêu chảy: Có = 1 Không = 2 Bọng nước nổi trên nền hồng ban Có = 1 Không = 2 xuất hiện trong lòng bàn tay, lòng bàn chân, đầu gối, mông: Bọng nước ở niêm mạc miệng, lợi, Có = 1 Không = 2 dưới lưỡi, vỡ tạo thành vết loét:. B8. Trẻ quấy khóc, ngủ gà, li bì. Có = 1. Không = 2. Theo anh/chị khi trẻ mắc TCM có. Có = 1. nên kiêng tắm không?. Không = 2 Không biết = 3. B9. Trẻ mắc bệnh TCM có cần cách ly. Có = 1. không?. Không = 2 Không biết = 3. * Kiến thức đúng khi đạt ≥75% câu trả lời đúng của các câu hỏi từ B1-B9 (10/13 câu, bắt buộc đúng câu 3,5,6) C. THỰC HÀNH CỦA NCS C1. Trong năm vừa qua, Chị đã làm gì để phòng bệnh Taychân-miệng cho con? (Có thể có nhiều khả năng trả lời). 1. Rửa tay thường xuyên bằng xà phòng 2. Cho trẻ ăn chín, uống chín 3. Rửa sạch vật dụng ăn uống trước khi sử dụng 4. Không cho trẻ ăn bốc, mút tay, ngậm mút đồ chơi. Thang Long University Library.
<span class='text_page_counter'>(89)</span> 79 5. Không cho trẻ dùng chung khăn ăn, khăn tay, cốc, bát, đĩa, thìa, ... 6. Làm sạch đồ chơi, những nơi trẻ hay bám tay 7. Tiêm vắc xin phòng bệnh tay-chânmiệng 8. Vệ sinh nhà cửa sạch sẽ 9. Thu gom, xử lý phân, chất thải của trẻ và đổ vào nhà tiêu hợp vệ sinh 10. Không cho trẻ có biểu hiện bệnh đến lớp/ không cho tiếp xúc với trẻ bệnhbệnh. 11. Không làm gì 12. Khác (ghi rõ):……………………… C2. Anh/Chị có rửa tay cho trẻ?. 1. Luôn luôn 2. Thỉnh thoảng 3. Hiếm khi 4. Không bao giờ. C3. Chị thường rửa tay cho trẻ bằng gì?. 1. Nước sạch đơn thuần 2. Rửa bằng nước sạch với xà phòng 3. Khác, ghi rõ: .......................................... C4. Chị có rửa tay trước khi chăm sóc trẻ (bế, cho ăn, thay quần áo....) không?. 1. Luôn luôn 2. Thỉnh thoảng 3. Hiếm khi 4. Không bao giờ. C5. Chị có rửa tay sau khi đi vệ sinh, sau khi thay tã, vệ sinh cho trẻ?. 1. Luôn luôn 2. Thỉnh thoảng 3. Hiếm khi 4. Không bao giờ. C6. Chị thường rửa tay bằng gì?. 1. Nước sạch đơn thuần 2. Rửa bằng nước sạch với xà phòng 3. Khác, ghi rõ: .......................................... C7. Chị có vệ sinh đồ chơi của trẻ không?. 1. Có 2. Không.
<span class='text_page_counter'>(90)</span> 80 C8. Nếu có, Chị vệ sinh đồ chơi của trẻ như thế nào?. 1. Lau cho sạch bụi 2. Rửa bằng nước sạch 3. Rửa bằng nước sạch và xà phòng 4. Ngâm bằng dung dịch khử khuẩn. 5. Khác, ghi rõ: ........................................... C9. Chị có lau sàn nhà, bàn ghế, giường tủ...và những chỗ trẻ thường hay bám tay vào không?. 1. Hàng ngày 2. Thỉnh thoảng, vài ba ngày/lần 3. Hiếm/ít khi 4. Không lau. C10. Nếu có, Chị lau sàn nhà, bàn ghế, ... bằng gì?. 1. Lau bằng nước sạch đơn thuần 2. Lau bằng nước sạch với xà phòng/ dung dịch khử khuẩn 3. Khác, ghi rõ: ......................................... C11. Chị có cho trẻ dùng riêng khăn lau mặt, khăn tay không?. 1. Có 2. Không. C12. Trong năm vừa qua, gia đình Chị có trẻ nhỏ mắc TCM không?. 1. Có 2. Không. C13. Nếu có, gia đình mình đã xử trí như thế nào? (Có thể có nhiều khả năng trả lời). Đưa trẻ đến cơ sở y tế khám và điều trị 2. Cho cháu nghỉ học đến khi khỏi hẳn. 3. Báo cho các nhà hàng xóm có trẻ biết 4. Báo cho cán bộ y tế biết 5. Báo cho chính quyền biết 6. Báo cho cô giáo/người trông trẻ biết 7. Không làm gì. 8. Khác: ...................................................... D. BẢNG KIỂM QUAN SÁT Hành động. Thực hiện. Thực hiện. Thực hiện. Không thực. đúng. đúng 1 phần. chưa đúng. hiện. (3đ). (2đ). (1đ). (0 đ). 1. Rửa tay trước khi cho trẻ ăn. Thang Long University Library.
<span class='text_page_counter'>(91)</span> 81 2. Rửa tay bằng xà phòng 3. Rửa tay sạch 4. Vệ sinh răng, miệng,lợi 5. Vệ sinh da, nốt phỏng 6. Rửa sạch đồ chơi, vật dụng của trẻ 7. Rửa tay cho trẻ sau khi chơi và trước khi ăn 8. Tổng số điểm Thực hành đúng khi đạt 75% số điểm của tình huống thực hiện đúng Khi cả kiến thức và thực hành đúng thì xác định NCS có kiến thức, thực hành đúng.
<span class='text_page_counter'>(92)</span>