MỘT SỐ NHẬN XÉT VÀ Ý KIẾN KIẾN NGHỊ NHĂM HOÀN
PHƯƠNG PHÁP TÍNH GIÁ THÀNH Ở CÔNG TY PHÁT TRIỂN TIN
HỌC CÔNG NGHỆ VÀ MÔI TRƯỜNG.
I. NHỮNG NHẬN XÉT VỀ CÔNG TÁC KẾ TOÁN TẬP HỢP CHI PHÍ SẢN XUẤT
VÀ TÍNH GIÁ THÀNH SẢN PHẨM Ở CÔNG TY PHÁT TRIỂN TIN HỌC CÔNG NGHỆ
VÀ MÔI TRƯỜNG.
Trong điều kiện bước sang nền kinh tế thị trường và việc áp dụng chế độ kế
toán mới, công ty đã gặp không ít những khó khăn trong việc hạch toán chi phí sản
xuất và tính giá thành. Song với sự cố gắng vươn lên không ngừng, công ty đã
đứng vững và khẳng định vị trí của mình trên thị trường bằng nhiều hợp đồng.
Vận dụng sáng tạo các quy luật kinh tế thị trường, đồng thời thực hiện các
chủ trương cải tiến quản lý kinh tế của Đảng và Nhà nước, công ty đã đạt được
nhiều thành tích đáng kể trong sản xuất, hoàn thành các nhiệm vụ cấp trên giao phó
và không ngừng nâng cao đời sống cán bộ công nhân viên. Công ty luôn quan tâm
tới việc nghiên cứu và tìm ra các biện pháp quản lý chi phí sản xuất sao cho tối ưu
nhất, phù hợp với điều kiện thực tế của mình và phù hợp với yêu cầu của chế độ
quản lý kinh tế hiện nay.
Về cơ sở vật chất kỹ thuật của công ty luôn được trang bị và đổi mới, trình độ
quản lý kinh tế của công ty từng bước được hoàn thiện và nâng cao.
Là một đơn vị kinh tế độc lập có quy mô sản xuất nhỏ nên việc tổ chức bộ
máy kế toán của công ty cổ phần phát triển tin học, công nghệ và môi trường được
tổ chức gọn nhẹ và phù hợp với trình độ, khả năng chuyên môn của từng người.
Việc cung cấp số liệu giữa các bộ phận kế toán và cung cấp số liệu để lập báo cáo
kế toán được nhanh chóng, chính xác. Hoạt động của bộ phận kế toán công ty đã
đảm bảo được việc theo dõi vật tư, tài sản, tiền vốn, cung cấp thông tin về tình hình
tài chính cho lãnh đạo công ty một cách kịp thời, đầy đủ.
Công tác kế toán của công ty nhìn chung thực hiện đúng chế độ, sổ sách kế
toán phù hợp với đặc điểm tổ chức sản xuất. Công tác kế toán tập hợp chi phí sản
xuất và tính giá thành sản phẩm được coi trọng đúng mức và bố trí kế toán có
nghiệp vụ cao.
Với loại hình sản xuất đơn chiếc, cung cấp theo yêu cầu của khách hàng, kế
toán tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm hiện nay của công ty đã
xác định đối tượng tập hợp chi phí, đối tượng tính giá thành theo đơn đặt hàng là
phù hợp với thực tế, phù hợp với chế độ hiện hành, thực hiện đơn giản, đảm bảo
tập hợp chi phí sản xuất chính xác cho từng đơn đặt hàng và tính giá thành kịp thời.
Do đặc điểm sản xuất của công ty, vật tư để sản xuất đều là những vật tư đặc
chủng có giá trị cao. Do vậy, công ty đã xây dựng định mức tiêu hao nguyên vật
liệu một cách chính xác cho từng đơn đặt hàng và thực hiện nghiêm túc các định
mức chi phí đó. Việc quản lý được tổ chức chặt chẽ từ khi mua vào, xuất dùng sản
phẩm cho đến khi hoàn thành bàn giao. Đây là một việc quan trọng trong việc
quản lý chi phí sản xuất và cần thiết đối với những sản phẩm phải mang lắp đặt tại
hiện trường.
Nhìn chung, công tác kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm
của công ty cổ phần phát triển tin học, công nghệ và môi trường được tiến hành
một cách khoa học dựa trên đặc điểm tình hình thực tế của công ty và vận dụng
sáng tạo chế độ kế toán hiện hành. Song bên cạnh những ưu điểm còn tồn tại một
số vấn đề sau:
+ Chi phí khấu hao TSCĐ không bóc tách riêng cho chi phí sản xuất chung và
chi phí quản lý. Cụ thể nhà xưởng làm việc của phòng đo lường vi xử lý và phòng
điện tử (nơi trực tiếp sản xuất sản phẩm) phải được hạch toán vào chi phí sản xuất
chung nhưng kế toán của công ty lại gộp hết vào chi phí quản lý doanh nghiệp.
+ Tiền lương và các khoản phải trả cho công nhân sản xuất đi lắp đặt cho các
đơn đặt hàng ở xa thì công ty lại tách riêng 2 loại: Chỉ hạch toán vào chi phí nhân
công trực tiếp, các khoản lương còn các khoản phụ cấp đi đường và tại hiện trường
lại tập hợp vào chi phí quản lý doanh nghiệp. Điều đó không phản ánh đúng chi phí
nhân công trực tiếp vì chi phí nhân công trực tiếp bao gồm cả tiền lương cấp bậc
và các khoản phụ cấp, trợ cấp kèm theo liên quan đến lao động trực tiếp cho từng
sản phẩm, đơn đặt hàng.
+ Sự phân công từng phần việc kế toán còn có sự trùng lắp. Điển hình là việc
ghi chép và theo dõi vật tư xuất vào sản xuất. Kế toán vật liệu tổng hợp xuất vật
liệu theo từng phiếu xuất kho cho từng đơn đặt hàng; đồng thời kế toán tập hợp chi
phí sản xuất cũng theo dõi tập hợp chi phí nguyên vật liệu cho từng đơn đặt hàng
theo từng phiếu xuất kho. Như vậy, đã gây nên việc luân chuyển chứng từ lòng
vòng, tốn thời gian ghi chép.
II. MỘT SỐ Ý KIẾN NHẰM HOÀN THIỆN CÔNG TÁC KẾ TOÁN TẬP HỢP CHI
PHÍ SẢN XUẤT VÀ TÍNH GIÁ THÀNH SẢN PHẨM Ở CÔNG TY PHÁT TRIỂN TIN
HỌC, CÔNG NGHỆ VÀ MÔI TRƯỜNG:
Qua phần nhận xét ở trên ta có thể nhận thấy sơ bộ thực trạng kế toán chi phí
sản xuất và tính giá thành sản phẩm ở công ty cổ phần phát triển tin học, công nghệ
và môi trường. Bên cạnh những mặt tích cực, trong quá trình hạch toán sẽ không
tránh khỏi những vấn đề chưa hoàn toan hợp lý và chưa thật tối ưu. Do vậy, để
hoàn thiện những tồn tại đó, em xin đưa ra một số ý kiến đóng góp trong công tác
kế toán tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm.
- Ý kiến thứ nhất:
Tài sản cố định của công ty không nhiều, chủ yếu là giá trị tài sản nhà làm
việc. Trong đó, khu nhà làm việc B : 250m
2
. Tại khu nhà này có 2 phòng là nơi làm
việc của bộ phận trực tiếp sản xuất chế tạo sản phẩm (Phòng điện tử công suất và
phòng đo lường vi xử lý). Nhưng trong phân hạch toán khấu hao toàn bộ khu nhà
này được hạch toán hết vào chi phí quản lý doanh nghiệp. Để hạch toán đầy đủ,
hợp lý các chi phí sản xuất tính đúng giá thành sản phẩm của đơn đặt hàng nên
chia giá trị khu nhà B cho diện tích sử dụng của từng phòng ban. Từ đó tính ra số
khấu hao cần trích, nếu thuộc các bộ phận gián tiếp thì hạch toán vao chi phí quản
lý doanh nghiệp, còn thuộc phòng ban sản xuất thì hạch toán vào chi phí sản xuất
chung.
Cụ thể như sau:
Khối gián tiếp (các phòng ban văn phòng, tài vụ, tổ chức hành chính...) diện
tích là 112m
2
.
Khối sản xuất:
+ Phòng điện tử công suất: 62m
2
+ Phòng đo lường vi xử lý: 50m
2
Sau đó tạm tính nguyên giá và phân bổ số khấu hao từng đối tượng sử dụng
theo công thức:
Nguyên giá toàn bộ
khu nhà B
Tổng diện tích khu nhà B
Số khấu hao TSCĐ
khu nhà B đã đăng ký quý
Nguyên giá toàn bộ khu nhà B
Nguyên giá và số khấu hao nhà làm việc B khối gián tiếp sử dụng
Nguyên giá= x 112 = 158.144.000 (đ)
Số khấu hao = x 158.144.000 =1.581.440 (đ)
Nguyên giá và số khấu hao nhà làm việc B phòng điện tử công suất sử dụng:
Nguyên giá: x 62 = 87.544.000 (đ)
Số khấu hao : x 87.544.000 =875440 (đ)
Nguyên giá và số khấu hao nhà làm việc B phòng đo lường và vi xử lý sử
dụng:
Nguyên giá: x 50 =70.600.000 (đ)
Số khấu hao : x 70.600.000 = 706.000 (đ)
- Ý kiến thứ hai:
Trong thời gian đi công tác lắp đặt tại hiện trường, công ty thanh toán tiền
công tác phí cho những người được cử đi bao gồm tiền tàu xe, tiền đi đường, tiền
lưu trú, tiền nhà nghỉ. Các khoản chi phí này kế toán tập hợp vào chi phí quản lý
doanh nghiệp. Việc tập hợp chi phí này là chưa hợp lý bởi vì các thiết bị của công
ty sản xuất còn được lắp đặt, bàn giao tại hiện trường (là các nhà máy, xí nghiệp ở
Nguyên giá khu nhà
B do đối tượng i sử
dụng
Diện tích khu nhà
B phân đối tượng i sử
dụng
=
x
Số khấu hao phải
trích vào đối tượng i
sử dụng
Nguyên giá khu B do
đối tượng i sử dụng
=
x
tỉnh xa). Phần công tác phí là cần thiết để trả cho công nhân trực tiếp lao động tại
hiện trường. Cho nên phần chi phí này nên tập hợp vào chi phí nhân công trực tiếp.
Vì phần chi phí này liên quan trực tiếp tới các đơn đặt hàng nên kế toán tập hợp
vào chi phí nhân công trực tiếp là hợp lý.
Mặt khác công ty cần nghiên cứu, xúc tiến xây dựng định mức lao động của
công nhân sản xuất ở các khâu có thể được, để từ đó trả lương theo định mức khối
lượng công việc hoàn thành. Như vậy đảm bảo tiến độ sản xuất sản phẩm và rút
ngắn thời gian ngừng việc, tiết kiệm chi phí nhân công hạ giá thành sản phẩm.
- Ý kiến thứ ba:
Việc ghi chép trùng lặp giữa kế toán vật liệu và kế toán tập hợp chi phí là
không cần thiết. Theo ý kiến em thi phân công lại như sau: Phần kế toán vật liệu
tập hợp chứng từ gốc (phiếu xuất kho vật liệu) lập bảng tổng hợp xuất vật liệu
chính, vật liệu phụ, công cụ dụng cụ. Cuối quý tập hợp số liệu để lên bảng phân bổ
vật liệu, công cụ theo từng đối tượng và chuyển qua cho kế toán tập hợp chi phí
sản xuất. Kế toán tập hợp chi phí chỉ cần căn cứ vào bảng phân bổ vật liệu ghi vào
sổ chi tiết chi phí cho từng đơn đặt hàng để tính giá thành sản phẩm, đồng thời căn
cứ vào bảng phân bổ vật liệu lên bảng kê 4, 5, 6.
- Ý kiến thứ tư:
Để có được thông tin nhanh, chính xác đòi hỏi phải có phương pháp kỹ
thuật về sử lý thông tin cho công tác kế toán nói chung và kế toán chi phí sản xuất
và tính giá thành sản phẩm nói riêng. Do kỹ thuật ngày càng phát triển, phạm vi
quản lý ngày càng rộng, thông tin trao đổi ngày càng nhiều nên việc tiếp nhận,
phân tích thông tin kế toán theo phương pháp thô sơ đã không thể thoả mãn được
các hoạt động sản xuất và quản lý. Việc sử dụng máy tính trong công tác kế toán
đã tạo được những thuận lợi cho việc ứng dụng kỹ thuật tính toán, xử lý thông tin
kế toán cũng như tự động hoá công tác kế toán. Với các tính chức năng ưu việt, tốc
độ xử lý nhanh, máy tính cho phép lưu trữ và tìm kiếm thông tin nhanh chóng,
chính xác, giảm đáng kể khối lượng công việc, sổ sách lưu trữ và nâng cao hiệu
quả trong việc cung cấp thông tin cho lãnh đạo.