Khoá luận tốt nghiệp Phạm Thị Dung – Lớp 26K
THỰC TRẠNG CÔNG TÁC QUẢN TRỊ TÀI CHÍNH TẠI CHI
NHÁNH NHNO&PTNT LÁNG HẠ.
2.1. Khái quát về chi nhánh NHNo&PTNT Láng Hạ
2.1.1 Quá trình hình thành và phát triển
Năm 1988, Ngân hàng Nông nghiệp Việt Nam ra đời theo Nghị định số
53/HĐBT của Hội đồng bộ trưởng (nay là Thủ tướng Chính phủ). Hệ thống
Ngân hàng Nông nghiệp Việt Nam đã có những bước phát triển mới, cùng với
các NHTM quốc doanh khác, hệ thống Ngân hàng Nông nghiệp đã góp phần
không nhỏ đáp ứng yêu cầu cung cấp vốn cho các thành phần kinh tế trên mọi
miền đất nước mà đặc biệt là trong lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn và nông
dân.
Quyết định số 280/QĐ-NHNN ngày 15/11/1996 của Thống
đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam được Thủ tướng Chính phủ uỷ
quyền đổi tên Ngân hàng Nông nghiệp Việt Nam thành Ngân hàng
Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam hoạt động theo mô
hình tổng công ty 90.
Với tên gọi mới, ngoài chức năng của một NHTM, Ngân hàng Nông
nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam được xác định thêm nhiệm vụ: Đầu tư
phát triển đối với khu vực nông thôn thông qua việc mở rộng đầu tư vốn trung,
dài hạn phục vụ sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông
thôn.
Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam là NHTM duy
nhất có hệ thống mạng lưới rộng khắp tại tất cả các đô thị và vùng nông thôn.
Với công nghệ ngày càng tiên tiến bao gồm hơn 25.000 nhân viên được đào tạo,
hệ thống làm việc ở hơn 1.300 Sở giao dịch, Chi nhánh tỉnh, thành phố, huyện,
xã. Kể từ năm 1993 đến nay, Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn
Việt Nam là Ngân hàng Việt Nam đầu tiên liên tục được kiểm toán quốc tế do
công ty kiểm toán Úc Cooper and Lybrand thực hiện và xác nhận “ Ngân hàng
1
Học Viện Ngân Hàng
1
Khoá luận tốt nghiệp Phạm Thị Dung – Lớp 26K
Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam là tổ chức Ngân hàng lành mạnh,
đáng tin cậy ”.
Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Chi nhánh Láng Hạ có trụ
sở chính tại số 24 Láng Hạ, Ba Đình, Hà Nội được thành lập ngày 18/03/1997
theo quyết định số 334/QĐ-HĐQT của Hội Đồng Quản trị Ngân hàng Nông
nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam.
Chi nhánh là Ngân hàng cấp I, loại 2 trực thuộc trung tâm điều hành
NHNo&PTNT Việt Nam, hoạt động theo luật các Tổ chức Tín dụng và điều lệ
hoạt động của NHNo Việt Nam. Chi nhánh là một đơn vị hạch toán độc lập
nhưng tương đối phụ thuộc vào NHNo&PTNT Việt Nam, có quyền tự chủ kinh
doanh, có con dấu riêng và được mở tài khoản giao dịch tại NHNN cũng như
các tổ chức Tín dụng khác trong cả nước. Kể từ khi thành lập đến nay, Chi
nhánh Láng Hạ đã và đang hoạt động kinh doanh trên cơ sở tự kinh doanh, tự bù
đắp và có lãi.
2.1.2. Nhiệm vụ của Chi nhánh Láng Hạ.
Huy động vốn
- Khai thác và nhận tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn, có kỳ hạn, tiền
gửi thanh toán của các tổ chức, cá nhân thuộc mọi thành phần kinh tế trong
nuớc và ngoài nước bằng đồng Việt Nam và đồng ngoại tệ.
- Phát hành chứng chỉ tiền gửi, trái phiếu, kỳ phiếu Ngân hàng và thực
hiện các hình thức huy động vốn khác theo quy định của NHNo.
- Tiếp nhận các nguồn vốn tài trợ, vốn uỷ thác của Chính phủ, chính quyền
địa phương và các tổ chức kinh tế, cá nhân trong và ngoài nước theo quy định
của Ngân hàng Nông ghiệp.
- Được phép vay vốn ngắn hạn, trung và dài hạn của các tổ chức Thài chính
trong nước theo quy định của NHNo.
Cho vay
- Cho vay ngắn hạn, trung hạn, dài hạn bằng đồng Việt Nam và đồng ngoại
tệ với các tổ chức kinh tế.
2
Học Viện Ngân Hàng
2
Khoá luận tốt nghiệp Phạm Thị Dung – Lớp 26K
- Cho vay ngắn hạn, trung hạn, dài hạn bằng đồng Việt Nam đối với cá
nhân và hộ gia đình thuộc mọi thành phần kinh tế.
Kinh doanh ngoại hối: Huy động vốn, cho vay, mua, bán
ngoại tệ, thanh toán quốc tế và các dịch vụ khác về ngoại hối theo chính
sách quản lý ngoại hối của Chính phủ, Ngân hàng Nhà nước và Ngân
hàng Nông nghiệp.
Kinh doanh dịch vụ: Thu, chi tiền mặt, mua bán vàng bạc,
máy rút tiền tự động, dịch vụ thẻ Tín dụng, két sắt, nhận cất giữ, chiết
khấu các loại giấy tờ có giá trị được bằng tiền, thẻ thanh toán, nhận uỷ
thác cho vay của các tổ chức Tài chính, Tín dụng, tổ chức và cá nhân
trong và ngoài nước, các dịch vụ Ngân hàng khác được Nhà nước, Ngân
hàng Nông nghiệp cho phép.
Cân đối, điều hoà vốn kinh doanh nội tệ đối với các Chi
nhánh NHNo&PTNT trực thuộc trên địa bàn.
Thực hiện hạch toán kinh doanh và phân phối thu nhập theo
quy định của Ngân hàng Nông nghiệp.
Thực hiện đầu tư dưới các hình thức như: Hùn vốn, liên
doanh, mua cổ phần và các hình thức đầu tư khác với các doanh nghiệp,
tổ chức kinh tế khác khi được Ngân hàng Nông nghiệp cho phép.
Làm dịch vụ cho Ngân hàng phục vụ người nghèo.
Quản lý nhà khách, nhà nghỉ và đào tạo tay nghề trên địa bàn
(Nếu được Tổng giám đốc Ngân hàng Nông nghiệp giao).
Thực hiện công tác tổ chức, cán
bộ, đào tạo, thi đua, khen thưởng theo
phân cáp uỷ quyền của Ngân hàng
Nông nghiệp.
Thực hiện kiểm tra, kiểm toán nội bộ việc chấp hành thể lệ,
chế độ nghiệp vụ trong phạm vi địa bàn theo quy định của Ngân hàng
Nông nghiệp.
3
Học Viện Ngân Hàng
3
Khoá luận tốt nghiệp Phạm Thị Dung – Lớp 26K
Tổ chức phổ biến, hướng dẫn và triển khai thực hiện các cơ
chế, quy chế nghiệp vụ và văn bản pháp luật của Nhà nước, ngành Ngân
hàng và Ngân hàng Nông nghiệp liên quan đến hoạt động của các Chi
nhánh NHNo&PTNT.
Nghiên cứu, phân tích kinh tế liên quan đến hoạt động tiền
tệ, Tín dụng và đề ra kế hoạch kinh doanh phù hợp với kế hoạch kinh
doanh của Ngân hàng Nông nghiệp và kế hoạch phát triển kinh tế xã hội
địa phương.
Chấp hành đầy đủ các báo cáo, thống kê theo chế độ quy
định và theo yêu cầu đột xuất của Tổng giám đốc Ngân hành Nông
nghiệp.
Thực hiện các nhiệm vụ khác do Tổng giám đốc Ngân hàng
Nông nghiệp giao.
2.1.3. Cơ cấu, tổ chức của Chi nhánh
Láng Hạ.
Về cơ cấu tổ chức: Đến ngày 31/12/2003, ngoài Ban Giám Đốc có 3
người, Chi nhánh gồm có 8 phòng: Phòng Tín dụng (25 người), Phòng Kế hoạch
(5 người), Phòng Kế toán - Ngân quỹ (50 người), Phòng Thanh toán quốc tế (15
người), Phòng Kiểm tra - Kiểm toán nội bộ (4 người), Phòng Tổ chức cán bộ và
đào tạo (5 người), Phòng Hành chính nhân sự (13 người), Phòng Thẩm định (3
người), và 5 phòng Giao dịch là phòng Giao dịch số 02 ở 29 ngõ Trạm - Hàng
Giang (9 người), phòng Giao dịch số 03 ở 36 Doàn Kế Thiện (6 người), phòng
Giao dịch số 05 ở Trung Kính (6 người), phòng Giao dịch số 06 ở 91 Hàng Mã
(6 người) và phòng Giao dịch số 07 ở Đào Tấn (6 người). Ngoài ra, Chi nhánh
có 1 Chi nhánh cấp II trực thuộc là Chi nhánh Bách Khoa (21 người) và Chi
nhánh Bách Khoa có 1 phòng Giao dịch trực thuộc là phòng Giao dịch số 04 ở
Lò Đúc (6 người).
Về cán bộ: Tổng số cán bộ công nhân viên chức toàn Chi nhánh đến ngày
31/12/2003 là 183 người, trong đó trình độ trên đại học là 3 người (chiếm
4
Học Viện Ngân Hàng
4
Khoá luận tốt nghiệp Phạm Thị Dung – Lớp 26K
1.64%), Đại học và Cao đẳng là 139 người (chiếm 75.96%), Cao cấp nghiệp vụ
là 1 người (0.55%), Trung cấp là 10 người (chiếm 5.46%), Sơ cấp và các nghiệp
vụ khác là 30 người (chiếm 16.39%). Cán bộ công nhân viên chức của Chi
nhánh có tuổi đời bình quân khá trẻ 38.31 tuổi. Cán bộ Chi nhánh có 51 Đảng
viên (chiếm 27.87%) với tuổi đời bình quân là 37,4 tuổi và 86 Đoàn viên (chiếm
56%) với tuổi đời bình quân là 26,5 tuổi.
Sơ đồ minh hoạ cơ cấu, tổ choc của Chi nhánh Láng Hạ (Trang
bên).
5
Học Viện Ngân Hàng
5
Khoá luận tốt nghiệp Phạm Thị Dung – Lớp 26K
2.2. NỘI DUNG QUẢN TRỊ TÀI CHÍNH CỦA CHI NHÁNH
NHNO&PTNT LÁNG HẠ.
2.2.1. Thông tin của Quản trị Tài chính tại Chi nhánh NHNo&PTNT
Láng Hạ.
Thông tin luôn là cơ sở để ra các quyết định Tài chính. Loại
thông tin bao quát, đầy đủ nhất về tình hình Tài chính và kết quả hoạt
động của các Ngân hàng là các báo cáo Tài chính thường liên, những
báo cáo này do các nhà quản lý Ngân hàng lập ra nhằm phục vụ công
tác quản lý của bản thân Ngân hàng và để đáp ứng yêu cầu của các
cơ quan kiểm soát bên ngoài.
Theo thông lệ kế toán thì tình hình Tài chính của Ngân hàng
được phản ánh trong bảng tổng kết tài sản, còn kết quả hoạt động của
Ngân hàng được phản ánh trong báo cáo thu nhập, để đánh giá về
khả năng thanh toán về các nghĩa vụ lơi, tình hình thanh khoản, tình
hình lợi nhuận và rủi ro của Ngân hàng, trợ giúp cho việc ra các
quyết định Tài chính quan trọng phải đồng thời dựa trên thông tin cả
hai bảng báo cáo này.
Báo cáo thu nhập là bản báo cáo phản ánh, đo lường hiệu quả
hoạt động của một Ngân hàng trong một khoảng thời gian nhát định.
Nó cho chúng ta biết điều gì đã xảy ra giữ hai thời điểm cuối kỳ của
bảng tổng kết tài sản.
Đặc điểm báo cáo thu nhập của các Ngân hàng là các chi phí
và thu nhập luôn được phân loại theo tính chất, đồng thời luôn tập
trung ghi rõ số lượng các thu nhập và chi phí chính.
Đặc điểm Tài chính của Ngân hàng là hầu hết các Tài sản Nợ
và Tài sản Có đều là những hợp đồng Tài chính hình thành trong
quan hệ Tín dụng và vì thế các tài khoản hưởng lãi luôn được trình
bày đầu tiên trong các báo cáo thu nhập của các Ngân hàng, và như
vậy lãi phải trả cho nguồn vốn mà Ngân hàng khai thác là khoản mục
chi phí căn bản của Ngân hàng. Đây là những khoản mục thu nhập
và chi phí bị ảnh hưởng trực tiếp bởi những thay đổi bất ngờ về lãi
xuất.
Ngoài các thông tin được trình bay trong các bảng cân đối tài
sản và báo cáo thu nhập, để phục vụ việc ra quyết định Tài chính,
giới Quản trị Ngân hàng còn phải thu thập và sử dụng nhiều thông
tin bổ sung khác mà nhiều trong số đó là rất quan trọng. Có thể nêu
ra đó là:
6
Học Viện Ngân Hàng
6
Khoá luận tốt nghiệp Phạm Thị Dung – Lớp 26K
- Các Tài sản Có sinh lời
- Các Tài sản Có rủi ro
- Các khoản cho vay khê đọng
- Độ nhạy cảm lãi suất
- Những khoản liên quan tới quỹ dự phòng lãi cho vay
- Nguồn vốn phụ
Ngoài các khía cạnh về nguồn và loại thông tin, nhu cầu sử
dụng thông tin đòi hỏi chúng ta đề cập tới khía cạnh chất lượng các
thông tin Tài chính. Có thể đề cập tới 3 khía cạnh chính:
Thứ nhất, giá trị của việc sử dụng các số liệu thời điểm và số
liệu trung bình, số liệu trong các báo cáo thường niên được đưa ra tại
một thời điểm. Trong khi đó, Ngân hàng có rất nhiều Tài sản Có
hoặc Tài sản Nợ ngắn hơn hoặc có thể mua bán hay hoàn trả trong
một thời gian ngắn nên nhiều khi các dữ liệu thời điểm có thể gây lên
nhầm lẫn.
Thứ hai, sự khác biệt giữa giá trị ghi sổ và giá trị thị trường.
Thông tin Tài chính Ngân hàng thường được trình bày dưới dạng giá
trị ghi sổ hơn là giá trị thị trường điều này gây ngạc nhiên tương đối vì
hầu hét các Tài sản Nợ và Tài sản Có của Ngân hàng là các tài sản Tài
chính, nghĩa là phải điều chỉnh giá trị (theo giá trị thị trường hoặc tính
theo giá trị của các công cụ Tài chính tương tự).
Thứ ba, khả năng dễ dàng sử dụng thông tin để xác định các
thông số Tài chính cơ bản. Trên thực tế có rất nhiều loại thông tin Tài
chính chịu ảnh hưởng bởi các quy tắc kế toán, định mức thuế và
quyết định của ban điều hành.
2.2.2. Những nội dung Quản trị Tài chính tại Chi nhánh
NHNo&PTNT Láng Hạ.
Tại Chi nhánh NHNo&PTNT Láng Hạ, hoạt động Quản trị Tài
chính cũng có những nội dung sau:
- Quản trị Tài sản Có
- Quản trị Tài sản Nợ
- Quản trị kết quả tài chính
Nội dung cơ bản trong các nhiệm vụ của những nhà quan trị
Ngân hàng ở đây chính là phân tích, lựa chọn và ra các quyết định về
tài sản Ngân hàng.
7
Học Viện Ngân Hàng
7
Khoá luận tốt nghiệp Phạm Thị Dung – Lớp 26K
Trong Quản trị Tài sản Có ở Ngân hàng thì mục tiêu cơ bản của Quản trị
Tài sản Có mà Ngân hàng quan tâm đó là:
- Một là, tối đa hoá lợi nhuận Ngân hàng.
- Hai là, giảm thiểu các rủi ro trong quá trình hoạt động kinh doanh.
- Ba là, đảm bảo khả năng thanh toán của Ngân hàng cả trong ngắn hạn và
dài hạn.
- Bên cạnh đó là các mục tiêu về tăng trưởng kinh tế, ổn định tiền tệ, ổn
định giá cả và tạo công ăn việc làm.
Trong Quản trị Tài sản Nợ ở Ngân hàng thì mục tiêu cơ bản
của Quản trị Tài sản Nợ mà Ngân hàng quan tâm đó là:
- Huy động đủ vốn cần thiết đáp ứng các nhu cầu nắm giữ các
Tài sản Có
- Giảm thiểu chi phí huy động vốn nhằm làm tăng lợi nhuận
- Giảm thiểu rủi ro trong quá trình huy động vốn.
Trong Quản trị kết quả Tài chính thì nhiệm vụ cơ bản của nhà
Quản trị Ngân hàng là tạo ra lợi nhuận trên cơ sở hạ thấp rủi ro.
2.2.3. Thực trạng Quản trị Tài chính tại Chi nhánh NHNo&PTNT
Láng Hạ.
Quản trị Tài sản Có
Ta có:
8
Học Viện Ngân Hàng
8
Khoá luận tốt nghiệp Phạm Thị Dung – Lớp 26K
Bảng 1: BẢNG TÀI SẢN CÓ CỦA CHI NHÁNH NHNO&PTNT LÁNG
HẠ
Đơn vị: Triệu đồng
Chỉ tiêu
Năm
2001
Năm
2002
Năm
2003
I/ Vốn ngân quỹ 186.00
0
250.00
0
305.00
0
1. Tiền mặt tại quỹ 100.00
0
126.00
0
149.00
0
2. Tiền gửi thanh toán tại
NHNN
16.670 46.800 74.200
3.Dự trữ bắt buộc 42.920 71.250 75.300
II/ Các khoản đầu tư và
cho vay
2.632.
400
3.933.
600
4.250.
000
1. Các khoản đầu tư (Góp
vốn, Đầu tư vào chứng
khoán)
337.40
0
491.60
0
501.00
0
2. Các khoản cho vay (Cho
vay thông thường, Cho vay
UTĐT)
2.295.0
00
3.442.0
00
3.749.0
00
III/ Tài sản cố định 47.000 69.000 87.000
IV/ Tài sản Có khác 39.200 51.100 76.600
Tổng cộng 2.904.
600
4.303.
700
4.718.
600
( Nguồn: Báo cáo tổng kết 3 năm 2001,2002 và 2003 )
Kết cấu tỷ trọng của các khoản mục Tài sản Có trong tổng Tài
sản Có từ năm 2001 đến năm 2003.
Bảng 2: KẾT CẤU CÁC LOẠI TÀI SẢN CÓ CỦA CHI NHÁNH LÁNG
HẠ
Chỉ tiêu
Năm
2001
Năm
2002
Năm
2003
I/ Vốn ngân quỹ 6.40% 5.81% 6.46%
9
Học Viện Ngân Hàng
9
Khoá luận tốt nghiệp Phạm Thị Dung – Lớp 26K
1. Tiền mặt tại quỹ 3.44% 2.93% 3.16%
2. Tiền gửi thanh toán tại
NHNN
0.57% 1.09% 1.57%
3. Dự trữ bắt buộc 2.39% 1.79% 1.73%
II/ Các khoản đầu tư và
cho vay
90.63
%
91.40
%
90.07
%
1. Các khoản đầu tư 11.62
%
11.42
%
10.62
%
2. Các khoản cho vay 79.01
%
79.98
%
79.45
%
III/ Tài sản cố định 1.62% 1.60% 1.84%
IV/ Tài sản Có khác 1.35% 1.19% 1.63%
Tổng cộng 100% 100% 100%
Nhìn vào bảng Tài sản Có ở Chi nhánh NHNo&PTNT Láng Hạ,
trong 3 năm 2001, 2002 và 2003. Ta thấy có những đặc điểm sau:
Về vấn đề Quản trị dự trữ tiền mặt.
Ta có:
Dự trữ
bắt buộc
= Tổng vốn ngắn hạn * Tỷ lệ dự trữ
bắt buộc
Với tỷ lệ dự trữ bắt buộc là 4% thì:
Năm 2001: Dự trữ thực tế là: 42.920 triệu đồng, trong khi đó
dự trữ bắt buộc là 4% x 1.023.000 = 40.920 triệu đồng.
Năm 2002: Dự trữ thực tế là: 71.250 triệu đồng, trong khi đó
dự trữ bắt buộc là 4% x 1.705.000 = 68.200 triệu đồng.
Năm 2003: Dự trữ thực tế là: 75.300 triệu đồng trong khi đó dự
trữ bắt buộc là 4% x 1.877.000 = 75.080 triệu đồng.
Qua đó, ta thấy Chi nhánh đã thực hiện rất tốt dự trữ bắt buộc,
các năm 2001, 2002 và 2003 với quy mô hoạt động kinh doanh tăng
lên, dẫn đến dự trữ bắt buộc cũng tăng theo, Ngân hàng luôn duy trì,
một dự trữ thực tế lớn hơn dự trữ bắt buộc cũng tăng theo, Ngân
10
Học Viện Ngân Hàng
10
Khoá luận tốt nghiệp Phạm Thị Dung – Lớp 26K
hàng luôn duy trì một dự trữ thực tế lớn hơn dự trữ bắt buộc. Cụ thể
năm 2001 thừa 2.000 triệu đồng, năm 2002 thừa 1.205 triệu đồng,
năm 2003 thừa 220 triệu đồng. Ta thấy năm 2001, năm 2002 số tiền
dự trữ thực tế có nhiều hơn so với dự trữ bắt buộc, điều này không
được tốt lắm bởi vì tài sản dự trữ bắt buộc không mang lại lợi tức
hoặc nếu có thì rất nhỏ. Trong khi đó Ngân hàng vẫn phải trả lãi cho
người gửi tiền. Nó như là yếu tố gây nên chi phí và nếu dự trữ ở mức
cao sẽ tăng chi phí và giảm lợi nhuận ở Ngân hàng, tuy nhiên sang
năm 2003, Ngân hàng đã bị điều chỉnh số dự trữ thừa này với mức
dự trữ thừa còn 220 triệu đồng. Điều này chứng tỏ công tác quản tự
dự trữ bắt buộc ở Ngân hàng đã đạt được tốt.
Về kiểm soát trạng thái tiền mặt ở Ngân hàng.
- Đối với tiền mặt tại quỹ.
Năm 2001 là 100.000 triệu, năm 2002 là 126.000 triệu tăng
26.000 triệu so với năm 2001, năm 2003 là 149.000 triệu tăng
23.0000 triệu so với năm 2002, lượng tiền mặt ở Ngân hàng luôn
tăng trong 3 năm, cho ta thấy Ngân hàng đã kiểm soát tiền mặt tồn
tại quỹ ở mức tối thiểu. Nhưng vẫn đủ đáp ứng nhu cầu chi trả tức
thời … Nhà quản lý Ngân hàng đã kiểm soát được tồn tại quỹ tiền
mặt của mình.
- Đối với tiền gửi của Ngân hàng tại NHTW.
Năm 2001 là 43.080 triệu , năm 2002 là 52.750 triệu, năm
2003 là 80.700 triệu.
Lượng tiền gửi này tăng lên trong các năm do quy mô hoạt
động Ngân hàng tăng lên. Số dư này tăng có thể do nhiều nguyên
nhân, Ngân hàng có thể dùng số tiền này để cho các Ngân hàng khác
vay, trả nợ NHTW, rút tiền mặt trực tiếp mua các chứng khoán Kho
bạc … Qua số liệu này, ta thấy được quy mô hoạt động của Ngân
hàng tăng lên, đúng với ý định của nhà Quản trị Ngân hàng. Nhưng
lượng tiền gửi của Ngân hàng tại NHTW là những khoản mang lại
thu nhập thấp cho Ngân hàng, vì vậy, Ngân hàng cần có sự điều
chỉnh cho phù hợp ở đây.
Về kiểm soát thanh khoản.
Ta sẽ xác định một số phép đo về thành khoản ở trong ngân
hàng:
- Đo lường thanh khoản bằng quan hệ giữa Tiền cho vay so với
Tổng vốn huy động.
11
Học Viện Ngân Hàng
11
Khoá luận tốt nghiệp Phạm Thị Dung – Lớp 26K
Năm
2001
2.295.00
0
=
78.26%
Năm
2002
3.442.00
0
=
90.32%
3.811.00
0
Năm
2003
3.749.00
0
=
92.87%
4.037.00
0
Tỷ lệ này như là một sự đo lường về tính lưu hoạt động dựa
trên tiền đề cho rằng, Tín dụng là tài sản ít lưu hoạt nhất trong số các
tài sản sinh lãi của Ngân hàng, vì thế khi tỷ lệ tăng tiền gửi để cho
vay thì tính lưu hoạt giảm đi một cách tương ứng. Khi tỷ lệ này tăng
đó là tín hiệu nhắc nhở và thúc đẩy nhà Quản trị Ngân hàng đánh giá
toàn bộ chương trình bành trướng của nó.
- Đo lường thanh khoản bằng hệ số giữa Vốn ngân quỹ so với
Tổng vốn huy động.
Năm
2001
186.000
= 7.07%
2.630.00
0
Năm
2002
250.000
= 6.56%
3.811.00
0
Năm
2003
305.000
= 7.56%
4.037.00
0
12
Học Viện Ngân Hàng
12
Khoá luận tốt nghiệp Phạm Thị Dung – Lớp 26K
Hệ số này tương đối ổn định, duy chỉ có năm 2002 là giảm đi,
so với năm 2001 là 0.51%, so với năm 2003 là 1%, hệ số này liên hệ
trực tiếp giữa tài sản lưu hoạt với mức độ tiền gửi.
Ta thấy rất khó xác định một mức chuẩn nào đó về thanh
khoản bởi vì không thể tính được các nhu cầu trong tương lai. Để đạt
được một sự đánh giá thực tế về thanh khoản của Ngân hàng sẽ cần
đến một sự lưu hoạt mong muốn và lượng tiền thu được trong mọi
khoảng thời gian xác định.
Về Quản trị danh mục tiền cho vay và tiền đầu tư kinh
doanh khác.
- Về Quản trị tiền cho vay.
Trong năm 2001, cho vay đối với nền kinh tế là 2.295.000 triệu
đồng, năm 2002 cho vay đối với nền kinh tế là 3.442.000 triệu đồng,
năm 2003 cho vay đối với nền kinh tế là 3.749.000 triệu đồng.
Qua đây, ta thấy số lượng cho vay của Ngân hàng tăng lên
trong các năm với một mức tăng tương đối ổn định.
- Xét về cơ cấu trong cho vay đối với nền kinh tế ta thấy cả tỷ
lệ cho vay trung và dài hạn lãi cho vay ngắn hạn đều tăng lên, cụ thể:
+, Năm 2001 cho vay trung và dài hạn là 1.364.2500 triệu
đồng chiếm 59.44% trong tổng số các khoản cho vay nền kinh tế,
cho vay ngắn hạn là 930.750 triệu đồng chiếm 40.56% trong tổng số
các khoản cho vay nền kinh tế.
+, Năm 2002 cho vay trung và dài hạn là 2.409.409 triệu đồng
chiếm 70% trong tổng số các khoản cho vay nền kinh tế, cho vay
ngắn hạn là 1.032.591 triệu đồng chiếm 30% trong tổng số các khoản
cho vay nền kinh tế.
+, Năm 2003 cho vay trung và dài hạn là 2.654.000 triệu đồng
chiếm 70.79% trong tổng số các khoản cho vay nền kinh tế, cho vay
ngắn hạn là 1.095.000 triệu đồng chiếm 29.21% trong tổng số các
khoản cho vay nền kinh tế.
Thực tế số liệu trên đây ta thấy các nhà Quản trị Ngân hàng đã
thực hiện tốt cho vay đối với nền kinh tế, vốn huy động tăng lên
cùng với cho vay tăng lên, chất lượng uy tín tốt. Tuy nhiên không
phải vậy mà nhà Quản trị Ngân hàng lơ là mà cần phải luôn quan
tâm và sẵn có các biện pháp khắc phục để nâng cao chất lượng Tín
dụng ở Ngân hàng.
13
Học Viện Ngân Hàng
13