Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (391.17 KB, 20 trang )
<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>
Chương 3
Trên cơ sở phân tích nội dung và quan điểm sai lệch xã hội trong
2 tác phẩm của E. Durkheim, với rất nhiều điểm giống nhau và khác
biệt, đặc biệt trong nội dung của mỗi tác phẩm, chúng tôi tiến hành
so sánh một số đặc điểm về hình thức và nội dung của 2 tác phẩm nói
trên để tìm ra sự biến đổi trong quan điểm của E. Durkheim về sai
lệch xã hội, từ đó thấy được phần nào sự tiến hóa trong quan điểm về
sai lệch xã hội của E. Durkheim.
3.1.1. So sánh đặc điểm hình thức của 2 tác phẩm
<b>B</b>Ả<b>NG 1. TÓM T</b>Ắ<b>T M</b>Ộ<b>T S</b>ỐĐẶ<b>C </b>Đ<b>I</b>Ể<b>M HÌNH TH</b>Ứ<b>C C</b>Ủ<b>A 2 TÁC PH</b>Ẩ<b>M </b>
<b>Stt </b> Đặ<b>c </b>đ<b>i</b>ể<b>m </b> <b>“V</b>ề<b> s</b>ự<b> phân công...” Tác ph</b>ẩ<b>m “T</b>ự<b> t</b>ử<b>” </b>
1 <i>N</i>ă<i>m công b</i>ố 1893 1897
2 <i>Ngu</i>ồ<i>n g</i>ố<i>c v</i>ă<i>n b</i>ả<i>n </i> Nguyên bản tiếng Nga Nguyên bản tiếng
Nga
3 <i>Ngu</i>ồ<i>n g</i>ố<i>c b</i>ả<i>n d</i>ị<i>ch </i> Từ tiếng Pháp Từ tiếng Pháp
4 <i>Tên sách ti</i>ế<i>ng Nga </i> Оразделении
общественноготруда
САМОУБИЙСТВО
Социологический
этюд
5 <i>Tên sách (t</i>ạ<i>m) d</i>ị<i>ch </i>
<i>sang ti</i>ế<i>ng Vi</i>ệ<i>t </i>
“Về sự phân công lao
động trong xã hội”
Tự tử
Nghiên cứu xã hội
6 Đề<i> ngh</i>ị<i> g</i>ọ<i>i tên sách </i> (như trên) “TỰ TỬ”
7 <i>Nhà xu</i>ấ<i>t b</i>ả<i>n (</i>ở<i> Nga) </i> “Kanon” (Moscow) “Soyuz” (S.
Peterburg)
8 <i>N</i>ă<i>m xu</i>ấ<i>t b</i>ả<i>n (Nga) </i> 1996 1998
9 <i>Ng</i>ườ<i>i d</i>ị<i>ch (</i>ở<i> Nga) </i> A. B. Gofman A. N. Ilinski
10 <i>Ch</i>ỉ<i> s</i>ố<i> th</i>ư<i> m</i>ụ<i>c (Nga) </i> ISBN 5-88373-036-1 ISBN
5-87852-063-X
11 <i>T</i>ổ<i>ng s</i>ố<i> trang d</i>ị<i>ch </i> 432 trang 496 trang
12 <i>T</i>ổ<i>ng s</i>ố<i> sách c</i>ủ<i>a t/p </i> 3 sách (S) 3 sách (S)
13 <i>T</i>ổ<i>ng s</i>ố<i> ch</i>ươ<i>ng </i> 15 chương 13 chương
14 <i>S</i>ố<i> ch</i>ươ<i>ng/sách </i> 7/S1; 5/S2; 3/S3 4/S1; 6/S2; 3/S3
15 <i>Ph</i>ầ<i>n m</i>ởđầ<i>u </i> Cho xuất bản lần 1
Cho xuất bản lần 2
(có)
16 <i>Ph</i>ầ<i>n d</i>ẫ<i>n lu</i>ậ<i>n </i> (có) (có, trong phần nội
dung)
17 <i>N</i>ộ<i>i dung tóm t</i>ắ<i>t </i> (khơng) (Có, ởđầu sách)
18 <i>Ph</i>ầ<i>n k</i>ế<i>t lu</i>ậ<i>n </i> (có) Lời cuối sách
19 <i>Ch</i>ỉ<i> d</i>ẫ<i>n tên ng</i>ườ<i>i </i> (khơng) (có)
20 <i>Chú gi</i>ả<i>i và trích d</i>ẫ<i>n </i> Ở cuối mỗi trang Ở cuối cuốn sách
21 Mục lục Ở cuối sách (chi tiết) Ở cuối sách
(tóm tắt)
phẩm đều có phần mở đầu, dẫn luận và kết luận, có phần chú giải và
nguồn gốc trích dẫn. Phần mục lục đều được đặt ở cuối sách. Điều
này cũng nói lên sự nhất quán về mặt hình thức trong thể hiện ý
tưởng và chuyển tải nội dung quan điểm của E. Durkheim.
3.1.2. So sánh đặc điểm nội dung của 2 tác phẩm
<b>B</b>Ả<b>NG 2. TÓM T</b>Ắ<b>T M</b>Ộ<b>T S</b>ỐĐẶ<b>C </b>Đ<b>I</b>Ể<b>M N</b>Ộ<b>I DUNG C</b>Ủ<b>A 2 TÁC PH</b>Ẩ<b>M </b>
<b>Stt </b> Đặ<b>c </b>đ<b>i</b>ể<b>m </b> <b>“V</b>ề<b> s</b>ự<b> phân công…” </b> <b>Tác ph</b>ẩ<b>m “T</b>ự<b> t</b>ử<b>” </b>
1 <i>Ch</i>ủđề<i> tác ph</i>ẩ<i>m </i> Về sự phân công lao
động trong xã hội
Về hiện tượng tự tử
trong xã hội
2 <i>Ý chính c</i>ủ<i>a tác </i>
<i>ph</i>ẩ<i>m </i>
Đồn kết xã hội, sự
phân công lao động
trong xã hội, chức
năng và những “hình
thái phi chuẩn” của sự
phân công lao động
Các kiểu tự tử,
nguyên nhân tự tử
và phương thức mà
nguyên nhân xã hội
diễn ra, những mối
quan hệ liên quan
đến tự tử.
3 <i>M</i>ụ<i>c </i>đ<i>ích nghiên </i>
<i>c</i>ứ<i>u v</i>ấ<i>n </i>đề
Trình bày sự phát triển
và vấn đềđạo đức của
sự phân công lao động
Tìm hiểu bản chất
đời sống xã hội và
hành vi của con
người
4 Đị<i>nh ngh</i>ĩ<i>a sai l</i>ệ<i>ch </i> Là sự “phi chuẩn” về
phân công lao động.
Tự tử là hành vi sai
lệch xã hội đặc biệt.
5 <i>Ph</i>ươ<i>ng pháp </i>
<i>nghiên c</i>ứ<i>u </i>
Phân tích và hệ thống Thống kê và loại trừ
6 <i>S</i>ố<i> hình th</i>ứ<i>c sai </i>
<i>l</i>ệ<i>ch </i>
3 kiểu sai lệch 4 kiểu sai lệch
7 <i>Tên g</i>ọ<i>i các sai </i>
<i>l</i>ệ<i>ch </i>
Phân công lao động:
1) Phi chuẩn; 2) Bắt
buộc; 3) Không hoặc
thiếu đồng bộ
1) Tự tử vị kỷ
2) Tự tử vị tha
3) Tự tử phi chuẩn
8 <i>Nguyên nhân </i>
<i>sai l</i>ệ<i>ch (tóm l</i>ượ<i>c) </i>
Các quan hệ khơng
được thể chế hóa; cá
nhân khơng hịa hợp
với chức năng; hoạt
động chức năng chưa
đầy đủ;
Chủ nghĩa cá nhân
cực đoan; hịa nhập
nhóm q mạnh;
quy tắc xã hội khơng
cịn đúng; niềm tin
mù qng;
9 <i>Ch</i>ứ<i>c n</i>ă<i>ng sai l</i>ệ<i>ch </i>
<i>(tóm l</i>ượ<i>c) </i>
- Liên kết các cá nhân,
thống nhất xã hội, tạo
lập đoàn kết và trật tự
đạo đức;
- Tạo mối liên kết và
đoàn kết xã hội;
tăng cường ý thức
tập thể và trật tự xã
hội;
10 <i>Ph</i>ươ<i>ng pháp lu</i>ậ<i>n </i>
<i>nghiên c</i>ứ<i>u v</i>ấ<i>n </i>đề
- Ý thức tập thể/cá
nhân
- Đoàn kết xã hội
- Phân cơng lao động
- Hình thái phi chuẩn
của phân công lao
động
- Ý thức cá nhân/tập
thể
- Hội nhập xã hội
- Chuẩn mực xã hội
- Hình thái phi
chuẩn của hiện
tượng tự tử
11 <i>K</i>ế<i>t lu</i>ậ<i>n v</i>ấ<i>n </i>đề Sự phân công lao
động là quy luật của tự
nhiên, thể hiện quy tắc
đạo đức hành vi con
người; phân công lao
động làm nảy sinh và
hình thành đồn kết xã
hội;
Bản chất xã hội của
tự tử; nguyên nhân
xã hội quyết định; ý
nghĩa hội nhập hay
đoàn kết xã hội đối
với cá nhân,cần
hướng đến những
bổ sung thêm những hình thức sai lệch xã hội thông qua việc phân
loại các kiểu tự tử. Từ đó cũng chỉ thêm các nguyên nhân, chủ yếu là
các nguyên nhân xã hội, dẫn đến các hành vi sai lệch xã hội. Dưới đây
chúng ta tìm hiểu thêm một cơng trình nữa của E. Durkheim – bài
báo “Bình thường và bệnh lý” để thấy được những điểm mới, những
bước tiến hóa trong quan điểm về sai lệch xã hội của E. Durkheim.
3.2. Điểm mới trong quan điểm từ bài báo “Bình thường và bệnh lý”
3.2.1. Giới thiệu bài báo
Bài báo “Bình thường và bệnh lý” (1895) của E. Durkheim được
Эмиль Дюркгейм. Норма и патология. Стр. 39-44. (Социология
преступности. (Современные буржуарные теории). Сборник
статей. Перевод с английского А. С. Никифорова и А. М. Яковлева.
Под редакцией проф. Б. С. Никифорова. Издательство «Прогресс»,
Москва, 1966.)
3.2.2. Phân tích nội dung và quan điểm sai lệch xã hội trong bài báo
Bài báo “Bình thường và bệnh lý” được viết từ rất lâu, nhưng
những tư tưởng trong đó vẫn cịn thể hiện được giá trị của mình cho
đến ngày hơm nay. Điều đó là ở chỗ, chủ đề về “tính vĩnh cửu” của
tội phạm, bằng cách chung nhất, vẫn có thể “biện minh” cho sự tồn
tại của tội phạm trong xã hội hiện đại ngày nay, cho đến tận hơm
nay, và hồn tồn chưa thể nghĩ đến việc nó sẽ kết thúc vào ngày
mai, trong tương lai. Chủ đề chính của bài báo là chứng minh “bản
chất tự nhiên” của tội phạm, có tính vĩnh cửu và vốn có đối với bất
kỳ xã hội nào của con người. Từ đầu bài báo, xuất phát từ sự tăng lên
thường xuyên của tội phạm ở các nước tư bản, E. Durkheim đã khẳng
định rằng “tội phạm được thực hiện không chỉ ở phần lớn các xã hội
của một kiểu nhất định nào đó, mà ở tất cả các xã hội của tất cả các
kiểu loại. Không tồn tại một xã hội mà không đụng chạm tới vấn đề
tội phạm.” [118; 18; 19]. Ông cũng kết luận rằng, “khơng có một hiện
tượng nào mà có tất cả những dấu hiệu của một hiện tượng bình
E. Durkheim cho rằng, mọi người không phản đối ý kiến là nói
chung mọi điều xâm phạm cần phải bị lên án, nhưng mọi người cũng
thường đồng ý là việc kết án cho mỗi tội ác là bắt nguồn từ đặc điểm
của lỗi vi phạm, tuy nhiên, theo E. Durkheim, khi ấy chúng ta rất khó
nói đặc điểm tội phạm nghĩa là gì, có phải nó được tìm ra qua lỗi đặc
biệt nghiêm trọng hay không, mà xã hội khiển trách qua phương tiện
trừng phạt có tổ chức và cấu thành tội phạm. E. Durkheim khẳng
định rằng, tất cả mọi hình thức tội phạm có thể xuất phát từ chỉ một
hay một vài đặc điểm chung. Và ngay lập tức ông cũng chỉ ngay ra
đặc điểm duy nhất của tất cả mọi hình thức tội phạm đó chính là sự đối đầu
giữa một tội ác, dù nó có là gì, và những mối tình cảm tập thể nào đó. Vì
vậy, chính sự đối đầu này đã làm nên tội phạm hơn là nguồn gốc tội
phạm. Nói cách khác, “chúng ta khơng được quyền nói là một hành
động gây sốc cho chuẩn mực lương tâm bởi vì nó là tội phạm, nhưng
nên nói rằng nó là tội phạm bởi vì nó gây sốc cho chuẩn mực lương
tâm. Chúng ta không kết án nó bởi vì nó là tội ác, nhưng nó là tội ác
bởi vì chúng ta kết án nó” [118; 18; 19]. Về bản chất nội tại của các
tình cảm này, ta khơng thể chỉ rõ chúng ra được, chúng có những
mục đích đa dạng nhất và không thể được bao gồm trong một công
thức riêng lẻ. Chúng ta khơng thể nói rằng chúng liên quan đến
những lợi ích căn bản của xã hội, hay liên quan đến mức cơng lý thấp
nhất, bởi vì tất cả những định nghĩa như vậy đều không phù hợp.
Chúng ta chỉ có thể nhận biết nó qua một điều duy nhất – đó là tình
cảm, dù cho nguồn gốc hay kết cục của nó là gì, được nhận thấy
trong tất cả mọi khối óc với một độ sức mạnh và rõ ràng nào đó, và
mọi hành động xâm phạm nó đều là tội ác… Như vậy, E. Durkheim
đưa ra khái niệm tội ác dựa vào tình cảm tập thể. Ý thức đạo đức của xã
thường, bởi vì một xã hội hồn tồn khơng có tội ác là khơng thể có
được" [118; 18; 19]. Tội phạm hiện diện trong hầu hết các xã hội, và
trong mọi thời kỳ. Ở những giai đoạn xã hội chuyển tiếp thì hiện
tượng này có xu hướng tăng lên hay giảm xuống. Sự tăng lên hay hạ
xuống của tỷ lệ tội phạm, theo E. Durkheim, cũng là bình thường, vì
ơng cho rằng ở mỗi xã hội khác nhau, mỗi trình độ văn minh đều có
tính chất tội phạm riêng của nó. E. Durkheim đã đặt hiện tượng tội
phạm trong sự phân biệt cụ thể về tính chất và mức độ phát triển xã
hội. Phát triển quan niệm của mình, E. Durkheim đi đến sự công
nhận tính lợi ích của tội phạm trong q trình tiến hóa xã hội. Ơng
cịn có một kết luận có thể “gây sốc”: “Như vậy, tội phạm là cần thiết;
nó gắn bó bền vững với tất cả những điều kiện cơ bản của bất kỳ xã
hội nào và chính vì điều đó nó (tội phạm) là có ích… Chính bản thân
tội phạm không nên hiểu giống như “cái ác” mà phải đè bẹp nó (cái
ác) bằng tất cả phương tiện có thể. Nếu tội phạm rơi xuống thấp hơn
mức độ trung bình một cách rõ ràng, thì chúng ta khơng thể chúc
mừng mình điều gì, bởi vì chúng ta có thể hồn tồn tin rằng, quá
trình chuyển động như vậy gắn liền với sự rối loạn trật tự xã hội nhất định
nào đó” [118; 18; 19].
nó cảm thấy cần tìm một ai đó để quy trách nhiệm cho căn bệnh của
nó" [27]. Những người thường xuyên có những hành vi chống lại tập thể
thường phải chịu những trách nhiệm xoa dịu nỗi đau xã hội này. Như vậy
Theo E. Durkheim, tội ác là hiện tượng khơng thể mất đi được,
nhưng nó lại là một biểu hiện bệnh lý bình thường của cơ thể xã hội,
chính vì vậy nó cũng có chức năng riêng, "gắn liền và cũng cần cho sự
tiến hố bình thường của đạo đức và pháp lý" [118; 18; 19]. Tội phạm là
một biểu hiện bệnh lý bình thường nhưng không phải những kẻ phạm tội
và những hành vi phạm tội là có thể chấp nhận được một cách bình thường,
"cá nhân căm thù sự đau đớn cũng như xã hội căm thù tội ác" [118; 18; 19].
E. Durkheim nhìn nhận về hiện tượng tội phạm như một bệnh lý
bình thường của xã hội. Nhưng không phải vì vậy mà có thể đồng
nghĩa với việc cho rằng tội phạm là điều tất yếu và có thể chấp nhận bình
thường. Với tính chất như vậy của hiện tượng tội phạm, nhiệm vụ của
các nhà quản lý xã hội chỉ là điều khiển cho tình trạng này khơng trở nên
nghiêm trọng nhất là trong những lúc có sự biến đổi xã hội.
3.2.3. Những điều rút ra sau phân tích bài báo
Hình thức sai lệch xã hội – đó chính là (hiện tượng) tội phạm, mặc
dù tội phạm: có ở tất cả các xã hội của tất cả các kiểu loại; không tồn tại
một xã hội mà không đụng chạm tới vấn đề tội phạm; là một điều gì đó bình
thường, một hiện tượng bình thường đến mức khơng cần phải tranh cãi; là
cần thiết; là hiện tượng không thể mất đi được; như một bệnh lý bình
thường của xã hội;... [118].
tượng rõ ràng nhất của những bệnh hoạn xã hội; mang tính chất của một
Chức năng của (hiện tượng) tội phạm: mối liên kết của sự đoàn kết xã
hội; có liên hệ với các điều kiện căn bản của toàn bộ đời sống xã hội;gắn liền và
cũng cần thiết cho sự tiến hố bình thường của đạo đức và pháp lý; có lợi ích
trong q trình tiến hóa xã hội; tạo lập tình cảm tập thể; … [118; 18; 19].
Như vậy, với 2 tác phẩm “Phân công lao động trong xã hội”, “Tự
tử” và bài báo “Bình thường và bệnh lý” đã cho chúng ta cái nhìn mới
khác biệt và thấy được quá trình tiến hóa trong quan điểm của E.
Durkheim về sai lệch xã hội.
3.3. Những đóng góp của E. Durkhiem đối với xã hội học
Qua các tác phẩm đề cập trên đây, kết hợp với một số cơng trình
nghiên cứu khác, quan điểm về sai lệch xã hội của E. Durkheim dần
dần được định hình. Chúng ta xác định được 1) nội dung quan điểm sai
lệch xã hội trong xã hội học của E. Durkheim, khẳng định 2) các chức
năng của sai lệch xã hội do E. Durkheim đưa ra. Chính những điều này
thể hiện sự đóng góp to lớn của E. Durkheim đối với xã hội học.
3.3.1. Nội dung quan điểm sai lệch xã hội của E. Durkheim
Dưới đây chúng ta xem xét cụ thể hơn những quan điểm, khái
niệm và hiện tượng, hay nói cách khác, những yếu tố tạo nên nội
dung sai lệch xã hội của E. Durkheim.
E. Durkheim cho rằng ý thức tập thể bắt nguồn từ các mối tương
tác cộng đồng và kinh nghiệm của các thành viên trong xã hội. Vì mọi
người đều sinh ra và lớn lên trong bối cảnh ý thức tập thể này nên nó
nhân hoàn toàn sống trên sự hướng dẫn của tập thể. Một khi tập thể
khơng cịn nữa thì đồng nghĩa với việc cá nhân cũng biến mất hẳn"
[5]. Nói chung, quan điểm có tính vĩ mơ của E. Durkheim về quan hệ
có sự đoàn kết xã hội, và kết cục sẽ dẫn đến sự suy thoái – sự sai lệch trầm
trọng. E. Durkheim đã dùng khái niệm đoàn kết xã hội để chỉ các mối
quan hệ giữa cá nhân và xã hội, giữa các cá nhân với nhau, giữa cá
nhân với nhóm xã hội. Nếu như khơng có sự đồn kết xã hội thì các
cá nhân riêng lẻ, biệt lập không thể tạo thành xã hội với tư cách là
một chỉnh thể hệ thống xã hội.
E. Durkheim vận dụng những khái niệm đoàn kết xã hội để giải
thích các hiện tượng xã hội như sự phân công lao động xã hội, sự tự
tử, tôn giáo và nhiều sự kiện xã hội khác, với các biểu hiện bình
thường và dị biệt, bất bình thường của chúng. Ơng khơng những
phát hiện ra ngun nhân mà cịn phân tích chức năng, hệ quả và mối
quan hệ của các hiện tượng đó với việc duy trì, củng cố sự đoàn kết
xã hội, tức là sự trật tự xã hội và sự biến đổi xã hội. Dựa vào kiểu
đoàn kết xã hội, E. Durkheim phân biệt xã hội đoàn kết cơ học và xã
hội đoàn kết hữu cơ. Ông cho rằng xã hội truyền thống chủ yếu dựa
vào đồn kết cơ học, cịn xã hội hiện đại tồn tại và phát triển trên cơ
sở đoàn kết hữu cơ. Yếu tố quyền lực và luật pháp là những chỉ báo
của sự biến đổi xã hội từ kiểu đoàn kết cơ học sang kiểu đoàn kết hữu
cơ. Trong xã hội cơ học, sự đoàn kết cơ học tạo ra quyền lực đàn
áp-cưỡng chế. Do ý thức tập thể mạnh mẽ nên mọi sự vi phạm các điều
cấm kỵ đều bị cộng đồng xã hội trừng phạt bằng nhiều hình thức
khắt khe, thậm chí là bị đàn áp, trả thù. Trong xã hội hiện đại, đoàn
kết hữu cơ tạo ra quyền lực bồi hoàn, thỏa thuận, tức là bắt những cá
nhân vi phạm luật phải đền bù vật chất, tinh thần do những lỗi lầm
lý cá nhân, đó cịn là điều kiện sống, mơi trường sống, mà E. Durkheim
gọi là lực đẩy bên ngồi – chính là "xã hội", bởi vì E. Durkheim đã tìm
ra được một quá trình tiến hố xã hội. Q trình này E. Durkheim
khởi đầu từ hình thức đoàn kết cơ học và chuyển thành đoàn kết hữu
cơ, từ một xã hội phân chia chuyển thành xã hội phân cơng lao động.
Đó là một q trình chung xảy ra ở các giai đoạn nhất định của xã hội
loài người. Chỉ quan tâm đến hai trạng thái là bình thường và đặc
biệt hơn là bất bình thường, tức lệch lạc, E. Durkheim đã chỉ ra rằng,
xã hội phải luôn ở trong "trạng thái bình thường, phải phục hồi trạng
thái đó nếu như nó bị rối loạn, phải tìm ra các điều kiện khi chúng
vừa mới thay đổi. Bổn phận của người hoạt động nhà nước không
phải là thúc đẩy mạnh mẽ các xã hội hướng tới một lý tưởng có vẻ
quyến rũ với ơng ta, nhưng vai trị của ông ta là vai trị của thầy
thuốc, đó là ngăn chặn sự nảy nở của các bệnh tật bằng một công tác
vệ sinh thật tốt, và khi các bệnh tật được phát hiện thì ơng ta tìm cách
chữa trị" [18, 19].
động xã hội là con đường vận động của nhân loại từ sự liên kết máy
móc cho tới đồn kết hữu cơ.
Thứ tư, quan điểm sai lệch xã hội của E. Durkheim được thể hiện một
cách đặc biệt qua khái niệm “ANOMIE” (“PHI CHUẨN”). Mọi biến
chuyển xã hội luôn diễn ra theo quy luật của sự phát triển. Tồn tại
bên trong các quy định chuẩn mực là các định chế và sự kiểm soát. Sự
kiểm soát chỉ xảy ra khi hành động của con người không phù hợp với
thiết chế, chuẩn mực. Sự kiểm soát là một điều kiện cần thiết của xã
hội và văn hoá nhằm đảm bảo cho xã hội một trật tự nhất định. Cá
chuẩn, không theo chuẩn mực. Khái niệm "anomie", do đó, có thể hiểu là
khái niệm chỉ sự rối loạn, sự vô tổ chức do không tuân thủ các quy tắc, các
chuẩn mực xã hội nơi các cá nhân. Dù “anomie” được hiểu một cách
chung nhất là "phi chuẩn hay thiếu quy tắc", thế nhưng đây là một
khái niệm "đa nội dung", vì mỗi nhà nghiên cứu có quan điểm riêng
khi tiếp cận khái niệm này. Theo các nhà nghiên cứu, sở dĩ có tình
trạng như vậy là vì khái niệm này được nhìn nhận như là một thực
lệch chuẩn vào mối quan hệ trung tâm xã hội, nhằm giải thích các sự
kiện, hiện tượng xã hội. Để có khái niệm lệch chuẩn, E. Durkheim
hình dung ra xã hội là một cơ thể sống và "mọi sự tách ra khỏi tiêu
chuẩn đó về sức khoẻ” là một hiện tượng bệnh hoạn. Ơng gọi đó là
những hiện tượng bệnh hoạn hay bệnh lý xã hội, và những hiện
tượng này chỉ có tính tương đối, chỉ phù hợp trong những hoàn
cảnh thời gian và không gian khác nhau. "Chúng tôi gọi sự kiện
bình thường là mọi sự kiện thể hiện các hình thức chung nhất, cịn
các sự kiện khác gọi là hiện tượng bệnh hoạn hay bệnh lý. Người ta
có thể thấy rằng, một sự kiện chỉ có thể gọi là sự kiện bệnh lý so với
một lồi nhất định mà thơi. Bệnh lý của con sên khác với của lồi có
xương sống".
Do vậy, một cá nhân được xã hội cơng nhận và có thể chấp nhận được
khi tránh đi những hành vi lệch chuẩn. Muốn như vậy, họ phải học
cách đóng đúng vai trị của mình trong xã hội. Như vậy, quy chiếu
hành vi lệch chuẩn được xem xét dựa trên các chuẩn mực định sẵn.
E. Durkheim đưa ra lý luận về sự lệch chuẩn của cá nhân cũng dựa vào
những mối quan hệ xã hội, đó là cường độ mạnh hay yếu của mối liên
hệ tập thể. Để chứng minh cho những nhận định của mình
Khái niệm “anomie” của Robert Merton. Sau E. Durkheim, Robert
Merton cũng có những nghiên cứu khá sâu sắc đối với các hành vi
lệch chuẩn và vô chuẩn mà R. Merton cũng gọi là “anomie”. Nhìn
chung, R. Merton là người kế thừa và bổ sung các quan điểm về
“anomie” của E. Durkheim, đều nhìn nhận “anomie” theo quan điểm
cấu trúc - chức năng với luận điểm chính là sự phù hợp giữa hành vi
cá nhân với hệ giá trị, chuẩn mực và việc thực hiện các chức năng của
cấu trúc xã hội. Tuy vậy giữa hai tác giả vẫn có những quan điểm
khác nhau. Khi xem xét nguồn gốc của “anomie”, E. Durkheim cho
rằng, sự phân công lao động làm xuất hiện những giá trị xã hội mới
khơng phù hợp với các giá trị cũ, cịn R. Merton cho rằng nguồn gốc
khiến “anomie” xuất hiện liên quan đến sự xã hội hoá cá nhân, sự xã
hội hoá cá nhân liên quan đến việc học hỏi và tuân thủ các giá trị,
chuẩn mực của xã hội. Ở thời điểm của mình E. Durkheim mới chỉ
nhìn nhận “anomie” như là những yếu tố “bất lợi” cho hệ thống cấu
trúc - chức năng của xã hội. Quan điểm của R. Merton cho rằng
“anomie” làm xuất hiện những yếu tố mới, yếu tố cách mạng.