MỘT SỐ KIẾN NGHỊ, GIẢI PHÁP NHẰM HOÀN THIỆN KẾ TOÁN
NGUYÊN VẬT LIỆU
3.1. ĐÁNH GIÁ CHUNG VỀ CÔNG TÁC KẾ TOÁN NGUYÊN VẬT
LIỆU TRONG CÁC DOANH NGHIỆP HIỆN NAY
3.1.1. Về chế độ kế toán
Hiện nay chế độ kế toán thống nhất cho các loại hình doanh nghiệp đã được
ban hành. Hệ thống các luật định, các chuẩn mực kế toán, chuẩn mực kiểm toán Việt
Nam đã được ban hành khá đầy đủ, theo sát với yêu cầu phát triển và hội nhập của
nền kinh tế Việt Nam với thế giới
Tại các doanh nghiệp, đổi mới công tác kế toán cho phù hợp với yêu cầu khách
quan là nhiệm vụ cấp thiết đặt ra cho cả hệ thống kế toán và quản lý. Thực tế ở các
doanh nghiệp sản xuất trong thời gian qua đã có những thay đổi khá tích cực trong
công tác kế toán nói chung và kế toán nguyên vật liệu nói riêng, đó là:
- Tổ chức lại hệ thống chứng từ sổ sách kế toán cập nhật theo đúng quy
định chế độ kế toán, nâng cao trách nhiệm và ý thức nghề nghiệp cho những người
làm công tác kế toán và cả các nhà quản lý.
- Sử dụng mạng máy vi tính và phần mềm kế toán chuyên dụng để xử lý
và lưu trữ dữ liệu đã giảm bớt đáng kể khối lượng công việc kế toán trùng lắp, tạo
thuận lợi để kiểm tra số liệu, rút ngắn thời gian lập báo cáo kế toán.
- Đòi hỏi doanh nghiệp tuân thủ cao các chế độ chính sách mà Nhà Nước
ban hành, góp phần nâng cao hiệu quả quản lý tổng thể nền kinh tế.
3.1.2.Tồn tại
3.1.2.1 .Hệ thống kế toán doanh nghiệp chưa đáp ứng kịp thời yêu cầu cung
cấp và phân tích kịp thời, chính xác thông tin cho điều hành ra quyết định quản lý.
- Việc cải tiến hệ thống kế toán NVL theo sát sự thay đổi về chế độ biểu
mẫu, báo cáo kế toán ... còn chậm.
- Việc gia tăng mức độ cung cấp thông tin ngày càng chi tiết phức tạp cho
công tác quản lý NVL cón gặp nhiều khó khăn.
1
1
- Thường thí chỉ có ngay thông tin về số lượng mà không kèm theo giá trị
của vật liệu.
- Chậm có sự phân tích thông tin báo cáo kế toán một cách kịp thời và
chính xác cho việc điều hành và gia quyết định quản lý.
3.1.2.2. Khó khăn trong công tác thuế tại doanh nghiệp
Do không có hóa đơn, hay chỉ có hóa đơn trực tiếp không được khẩu trừ thuế
GTGT cho NVL đầu vào. Như chúng ta đã biết, các hóa đơn chứng từ này là cơ sở
pháp lý để chứng minh nghiệp vụ kế toán phát sinh là cơ sở để ké toán hạch toán quá
trình mua sắm NVL. Nhưng từ khi áp dụng thuế mới việc thực hiện những quy định
về hóa đơn chưa đòng bộ đã gây trở ngại cho các doanh nghiệp được khấu trừ thuế
GTGT đầu vào. Các doanh nghiệp này phải chọn doanh nghiệp cung ứng vật tư cho
mình cũng là nộp thuế GTGT theo phương pháp khấu trừ để có được hóa đơn đầu
vào được khấu trừ thuế GTGT đầu vào. Như vậy phạm vi lựa chọn người cung ứng
NVL bị hạn chế làm cho doanh nghiệp gặp nhiều khó khăn nhất định. Bên cạnh đó,
việc xuất hện các hóa đơn khống, giả cũng gặp khó khăn cho các kế toán mua NVL.
3.1.2.3. Sự khác nhau trong công việc xác định giá vốn hàng bán và trị gía
hàng tồn kho cuối kỳ theo các phương pháp tính giá khác nhau liên quan tới việc
thay đổi giá phí mua vào của các mặt hàng.
3.1.2.4. Hạn chế trong lập dự phòng giảm giá hàng tồn kho
- Thụ động và e dè trong trích lập chi phí dự phòng giảm giá hàng ỳôn
kho do lý do chủ quan( doanh nghiệp không muốn tăng thêm chi phí) và khách quan(
không được chấp nhận là chi phí hợp lý khi quyết toán thuế).
3.2. MỘT SỐ Ý KIẾN NHẰM HOÀN THIỆN CÔNG TÁC KẾ TOÁN
NGUYÊN VẬT LIỆU TRONG DOANH NGHIỆP SẢN XUẤT
3.2.1 . Củng cố quản lý nguyên vật liệu về số lượng tai doanh nghiệp
Doanh nghiệp sản xuất thường có xu hướng tính toán giá trị NVL xuất kho dựa
trên định mức kế hoạch, hay theo chỉ tiêu khoán sản phẩm. Tuy nhiên đoi khi có
chênh lệch lớn giữa số sổ sách và số tồn kho thực tế thì tại đơn vị lại chậm xử lý hay
xuất phân bổ ngay giá trị chênh lệch vào giá vốn hàng bán hay chi phí bán hàng, chi
phí quản lý. Điều này làm sai lệch đơn giá vốn và kết quả kinh doanh trong kỳ của
doanh nghiệp.
2
2
Đơn vị cần tuân thủ nguyên tắc về ghi nhận chi phí phù hợp, mà biện pháp cụ
thể là tiến hành lấy số liệu kiểm kê tồn kho NVL thường xuyên nếu là NVL chính có
giá trị lớn cho quá trình sản xuất kết hợp với đối chiếu sổ sách thường xuyên. Xử lý
nghiêm nếu phát hiện sai phạm và giải quyết dứt điểm chênh lệch.
3.2.2 – Về xác định giá trị thực tế NVL nhập kho
Trong công tác kế toán NVL ở các doanh nghiệp, vật liệu được tính theo giá
thực tế - là loại giá được hình thành trên cơ sở các chứng từ hợp lệ chứng minh các
khỏan chi hợp pháp của doanh nghiệp.
Việc xác định giá thực tế của NVL nhập kho được dựa trên hóa đơn chứng từ
và chi phí khi mua. Trong thực tế, nhiều doanh nghiệp có ít danh điểm NVL, số lần
nhập xuất ít có thể áp dụng phương pháp LIFO hoặc FIFO, những doanh nghiệp có
điều kiện kho tàng để bảo quản riêng từng lô vật tư tồn kho , vật tư có yêu cầu khắt
khe về thời hạn bảo quản thường áp dụng phương pháp tính trực tiếp. Còn đối với
nhiều doanh nghiệp có nhiều danh điểm vật tư, số lần nhập xuất nhiều thì lại áp dụng
phương pháp hệ số giá để tính giá thực tế NVL xuất kho.
Việc lựa chọn phương pháp nào để tính giá NVL xuất hoàn toàn phụ thuộc vào
mục đích kinh doanh của doanh nghiệp cũng như xu thế giá cả trong từng thời kỳ.
3.2.3 . Lựa chọn phương pháp tính giá NVL xuất kho thích hợp và lập
bảng phân bổ NVL
Chúng ta đã biết, mỗi phương pháp có những ưu nhược điểm khác nhau. Cụ thể:
Phương pháp trực tiếp: kết quả của nó sẽ làm tương xứng giữa chi phí và thu nhập.
Tuy nhiên chỉ được sử dụng khi NVL có giá trị cao, được xác định theo đơn chiếc
hoặc từng lô.
Phương pháp giá đơn vị bình quân; Phản ánh không chính xác và đồng thời có sự
biến động giá.
Phương pháp FIFO: Giá trị hàng tồn kho trên bảng cân đối tài sản sát với giá thực tế
nhất.
Phương pháp LIFO: chọn chi phí phát sinh sau cùng để xác định tri giá NVL xuất, do
đó có sự tương xứng tốt nhất giữa chi phí hiện hành và thu nhập trên báo cáo kết quả
kinh doanh.
3
3
Từ việc phân tích trên cho ta thấy: Nếu doanh nghiệp muốn mở rộng quy mô sản xuất
băng cách thu hết vốn đầu tư từ bên ngoài như ngân hàng, các chủ đầu tư thì doanh
nghiệp thì doanh nghiệp phải tìm mọi cách để lành mạnh hóa nền tài chính. Trong
trường hợp này, sử dụng phương pháp LIFO là thích hợp nhất. Nói tóm lại tùy thuộc
vào từng thời kỳ, tùy thuộc vào tình hình tài chính của doanh nghiệp để lựa chọn
phương pháp cho thích hợp, nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh cho doanh nghiệp
mình.
Theo chuẩn mực kế toán thì kế toán cần lựa chọn phương pháp tính giá phù hợp
với đơn vị của mình và phương pháp đó phải thể hiện nhất quán trong niên độ kế
toán. Cả năm phương pháp trên đều được thừa nhận, song mỗi phương pháp tính giá
hàng tồn kho thường có những ảnh hưởng nhất định trên báo cáo tài chính, vì vậy
việc lựa chọn phương pháp nào phải được công khai trên các báo cáo và phải sử dụng
nhất quản trong niên độ kế toán, không thay đổi tùy tiện để đảm bảo nguyên tắc nhất
quán trong kế toán.
3.2.4. Nâng cao hiệu quả áp dụng phương pháp hạch toán hàng tồn kho
đã lựa chọn
Chế độ kế toán hiện hành có hai phương pháp hạch toán hàng tồn kho, đó là: kê
khai thường xuyên và kiểm kê định kỳ. Sự khác nhau cơ bản giữa 2 phương pháp
này chính là tính chất của việc theo dõi và phản ánh tình hình biến động của NVL
trên sổ kế toán.
Phương pháp kê khai thường xuyên: Phương pháp kê khai thường xuyên độ chính
xác cao và cung cấp thông tin về hàng tồn kho kịp thời, cập nhật tại bất kỳ thời điểm
nào, kế toán cũng có thể xác định được lượng nhập, xuất, tồn kho từng loại hàng tồn
kho nói chung và nguyên vật liệu nói riêng .
Phương pháp kiểm kê định kỳ: Căn cứ vào kết quả kiểm kê thực tế để phản ánh giá trị
tồn kho cuối kỳ của NVL trên sổ kế toán tổng hợp, từ đó tính ra giá trị NVL xuất dùng
trong kỳ. Như vậy phương pháp kiểm kê định kỳ: mọi biến động của NVL không được
theo dõi, phản ánh trên các tài khoản kế toán hàng tồn kho- các tài khoản tồn kho này
chỉ dùng để phản ánh giá trị NVL tồn kho đầu kỳ và cuối kỳ.
3.2.5. Về việc trích lập và hạch toán dự phòng giảm giá hàng tồn kho
4
4
Theo quyết định của chế độ kế toán hiện hành cũng như chuẩn mực kế toán
quốc tế thì việc trích lập và hạch toán dự phòng giảm giá NVL tồn kho trong các
doanh nghiệp là cần thiết. Nó giúp cho các doanh nghiệp có nguồn tài chính để bù
đắp các khoản thiệt hại có thể xảy ra trong năm kế hoạch nhằm bẩo toàn vốn kinh
doanh. Tuy nhiên chỉ nên lập dự phòng cho những NVL mà sản phẩm sản xuất ra từ
các loại NVL này bị giảm giá trên thị trường.
Để khắc phục đúng hình thức về dự phòng như hiện nay, nhất thiết các khoản
tổn thất thực tế do giảm giá hay các khoản dự phòng không dùng đến phát sinh trong
năm kế hoạch phải được ghi nhận vào các tài khoản phản ánh dự phòng.
Thực tế các doanh nghiệp sản xuất ngoài quốc doanh vẫn còn thụ động trong
việc lập dự phòng giảm giá hàng tồn kho và ghi nhận chi phí dự phòng giảm giá
hàng tồn kho. Đó là do e ngại chi phí này không được cơ quan thuế chấp nhận là hợp
lý hợp lệ khi doanh nghiệp tiến hành quyết toán thuế hàng năm. Và các doanh nghiệp
đã phản ánh sang kỳ kế toán sau khi thực tế việc giảm giá hàng tồn kho gây lỗ cho
doanh nghiệp khi xuất hóa đơn bán hàng mà doanh thu bán hàng lại thấpb hơn giá
vốn hàng bán, một thực tế khách quan của doanh nghiệp nhưng không hợp lý nếu căn
cứ trên nguyên tắc của kinh doanh là phải có lãi mới bán.
3.3. ĐIỀU KIỆN THỰC HIỆN
3.3.1 – Về phía các cơ quan quản lý Nhà Nước
- Tăng cường kiểm tra quản lý doanh nghiệp, vấn đề thực hiện chuẩn mực
kế toán nguyên vật liệu.
- Thường xuyên tổ chức các lớp bồi dưỡng nghiệp vụ cho kế toán của các
doanh nghiệp.
3.3.2 – Về phía các doanh nghiệp
Cần tăng cường nâng cao, bồi dưỡng đội ngũ kế toán tại doanh nghiệp, thường
xuyên tham gia các khóa cập nhật văn bản chế độ, chuẩn mực, hướng dẫn và nâng
cao về ké toán, tài chính thuế.
Có tính tích cực và chủ động trong nắm bắt những yêu cầu mới về công tác kế
toán tài chính, tham gia góp ý kiến cho các cơ quan quản lý chức năng trong các vấn
đề phát sinh, vướng mắc tại doanh nghiệp.
5
5