Tải bản đầy đủ (.pdf) (16 trang)

Phương pháp mới trong điều trị nám bằng đường uống và bôi tại chỗ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.58 MB, 16 trang )

Phương pháp mới trong điều trị nám bằng đường uống và bôi tại chỗ
Tác giả: P.E. Grimes, MD, S. Ijaz, BA, MPH , R. Nashawati, BS, MSGM , D. Kwak
Vitiligo & Pigmentation Institute of Southern California, Los Angeles, California
Division of Dermatology, David Geffen School of Medicine, University of California, Los Angeles, California

Biên dịch: Bs. Trương Tấn Minh Vũ
TÓM TẮT
Nám là một rối loạn tăng sắc tố thường thấy ở phụ nữ và người có da thuộc type III đến VI theo phân loại da
Fitzpatrick; nám là bệnh lý mãn tính phổ biến, thách thức về mặt điều trị và tình trạng tái phát phổ biến. Cơ
chế bệnh sinh của nám rất phức tạp và thay đổi. Các yếu tố liên quan đến nguyên nhân hình thành nám bao
gồm khuynh hướng di truyền, phơi nhiễm bức xạ cực tím mạnh và ảnh hưởng của nội tiết tố. Các biện pháp
can thiệp trị liệu cho nám thường tiếp cận đa phương thức kết hợp các chất chống nắng bảo vệ da, làm sáng
da bằng bơi và uống, và các quy trình tái tạo bề mặt. Với kiến thức mở rộng về cơ chế bệnh sinh của nám,
các phương pháp điều trị mới và hiệu quả được lựa chọn trong điều trị nám. Bài viết này đánh giá các phương
pháp mới nổi trong điều trị nám bằng đường uống và bôi tại chỗ.

Giới thiệu
Nám là một tình trạng rối loạn tăng sắc tố
mắc phải phổ biến được đặc trưng bởi các
mảng màu nâu với mức độ đậm nhạt không
đều xuất hiện trên trán, má, trên môi và vùng
cằm của khuôn mặt. Tỷ lệ phổ biến từ 1% đến
50% ở những người có nguy cơ cao (Grimes,
1995, Grimes, 2009, Halder et al., 1983, Kim
et al., 2007, Moin et al., 2006, W Muffer et
al., 2007 ). Nhóm có nguy cơ cao bao gồm
những người có loại da sẫm màu hơn, phụ nữ
mang thai và những người sống ở các khu vực
có tiếp xúc với tia cực tím (UV) mạnh.
Các mơ hình phân bố nám bao gồm giữa
mặt, 2 bên má và vùng cằm với phân bố kiểu


giữa mặt là phổ biến nhất. Trong một số
trường hợp, cổ, cánh tay và lưng trên cũng bị
ảnh hưởng. Những khu vực này thường được
quan sát thấy ở phụ nữ mãn kinh. Các nghiên
cứu gần đây đã ghi nhận sự gia tăng ban đỏ và
giãn mạch ở các khu vực bị ảnh hưởng, điều
này cho thấy có sự tăng sinh mạch máu trong

Biên dịch: Bs. Trương Tấn Minh Vũ

tổn thương nám (Kim et al., 2007). Nám xuất
hiện ở tất cả các chủng tộc và sắc tộc, nhưng
phần lớn bệnh nhân là phụ nữ và người có da
từ type IV đến VI theo Fitzpatrick, bao gồm
người Latin, Châu Á và gốc Phi (Halder et al.,
1983, Kang, 2012, Kim et al., 2007, Moin và
cộng sự, 2006, Coleues và Pandya, 2015).
Nam giới chỉ chiếm thiểu số bệnh nhân bị nám
với dưới 20% trường hợp nám. Các đặc điểm
lâm sàng và mô học của nám ở nam giới tương
tự như ở phụ nữ được báo cáo trong y văn
(Sarkar et al., 2018, Vachiramon et al., 2012).
Một nghiên cứu đã báo cáo mức testosterone
thấp ở nam giới bị nám (Sarkar et al., 2018).
Rất nhiều các nghiên cứu chất lượng cuộc
sống báo cáo về sự hỗn loạn cảm xúc và sự
tàn phá tâm lý mà các cá nhân bị nám trải qua
(Balkrishnan et al., 2003, Ikino et al., 2015,
Pawaskar et al., 2007). Bệnh nhân trải qua tác
động cảm xúc đáng kể và thường cảm thấy

phiền lịng, thất vọng, xấu hổ và chán nản về
ngoại hình da của họ (Ikino et al., 2015).

1


Đặc điểm mô học của nám bao gồm sự gia
tăng hàm lượng của melanin biểu bì và lớp bì,
nhưng số lượng thay đổi theo cường độ tăng
sắc tố. Ngoài ra, các nghiên cứu cho thấy
khơng có sự gia tăng số lượng melanocytes;
tuy nhiên, các tế bào được mở rộng với các
sợi nhánh nổi bật và kéo dài với nhiều
melanosome hơn. Các vấn đề khác của da liên
quan bao gồm giảm đàn hồi da do ánh sáng
mặt trời, tăng tế bào mast, mạch máu trong lớp
bì và biểu hiện yếu tố tăng trưởng nội mô
mạch máu (Grimes et al., 2005, Kang et al.,
2002).
Cơ chế bệnh sinh của nám rất phức tạp.
Nhiều con đường liên quan đến việc gây ra
tăng sắc tố. Các yếu tố nguyên nhân bao gồm
khuynh hướng di truyền, tiếp xúc với tia UV
và ảnh hưởng của nội tiết tố. Tăng biểu hiện
của yếu tố tế bào gốc, c-Kit và hormone kích
thích tế bào melanocyte đã được báo cáo ở
vùng da bị tổn thương (Kang et al., 2006, Lee
và cộng sự, 2017). Các nghiên cứu gần đây ở
bệnh nhân bị nám với biểu hiện rõ rệt có sự
gia tăng oxy húa (Seỗkin et al., 2014). S thay

i trong con đường Wnt và chức năng rào
cản bất thường cũng đã được ghi nhận (Lee,
2015). Các quan sát về chứng giảm đàn hồi da
do ánh sáng, tăng tế bào mast, khiếm khuyết
mạch máu, rối loạn chức năng rào cản và các
bất thường về axit béo cho thấy nám có thể
đại diện cho một kiểu hình của tổn thương do
ánh sáng (Passeron và Picardo, 2018).
Từ góc độ lịch sử, các thành phần thường
được sử dụng để điều trị nám bao gồm
hydroquinone, axit azelaic, axit kojic, axit
glycolic, axit salicylic và tretinoin. Trong số
các phương pháp điều trị này, hydroquinone
vẫn là tiêu chuẩn vàng. Nhiều nghiên cứu cho
thấy các công thức kết hợp mang lại kết quả
tốt nhất (Halder và cộng sự, 1983, Kim và
cộng sự, 2007, Moin và cộng sự, 2006, W
Muffer et al., 2007). Những công thức kết hợp
ba loại này thường chứa hydroquinone, một
retinoid và một corticosteroid ở nồng độ khác
nhau. Các liệu pháp thường được sử dụng nói
trên thường liên quan đến vấn đề tái phát. Các
phương pháp điều trị thứ hai, như lột da bằng
hóa chất và laser, có hiệu quả ở một số bệnh
Biên dịch: Bs. Trương Tấn Minh Vũ

nhân, nhưng các phương pháp này có thể liên
quan đến các biến chứng cấp tính và lâu dài,
đặc biệt ở những người có loại da sẫm màu.
Do tác động tiêu cực toàn cầu của nám đến

chất lượng cuộc sống, một nỗ lực tìm kiếm
các phương pháp điều trị hiệu quả hơn mang
lại sự thuyên giảm lâu dài cho những bệnh
nhân mắc chứng rối loạn sắc tố khó chịu và
đầy thách thức này đang diễn ra.
Can thiệp điều trị
Việc điều trị nám nên bao gồm một
phương pháp đa phương thức kết hợp các tác
nhân bảo vệ da khỏi ánh sáng, chống oxy hóa,
làm sáng da, tẩy da chết và tái tạo bề mặt khi
cần thiết. Các nghiên cứu dựa trên bằng chứng
cho thấy rằng các liệu pháp đầu tiên cho trị
nám bao gồm bảo vệ da khỏi ánh sáng mạnh
và các chất làm sáng tại chỗ (Jutley et al.,
2014, Rivas và Pandya, 2013; Sarkar et al.,
2013; Sarma et al., 2017). Ngoài ra, nhiều
nghiên cứu đã đề cập đến sự an tồn và hiệu
quả của lột da hóa chất và laser / ánh sáng để
giảm sắc tố trong nám. Các thủ tục như vậy
thường được coi là phương pháp trị liệu thứ
hai và thứ ba.
Laser nên được sử dụng cẩn thận và thận
trọng với tỷ lệ tái phát nám cao. Ngoài ra, can
thiệp bằng laser thường phức tạp do tăng sắc
tố sau viêm ở những người có loại da sẫm
màu.
Đánh giá này đề cập đến các thuốc uống và
thuốc bôi mới và mới nổi để điều trị nám.
Chống nắng
Chống nắng hàng ngày là chìa khóa trong

việc quản lý rối loạn sắc tố lặp đi lặp lại đầy
thách thức và phổ biến này. Việc sử dụng kem
chống nắng phổ rộng là rất cần thiết. Các
trường hợp nám thường được báo cáo có sự
tái phát nhanh và thường xuyên sau khi tiếp
xúc với tia cực tím. Lakhdar et al. (2007) đã
đánh giá vai trò của kem chống nắng phổ rộng
trong phòng ngừa và điều trị nám ở phụ nữ
mang thai trong một thử nghiệm lâm sàng kéo
dài 12 tháng. Trong số 185 bệnh nhân hoàn
2


thành nghiên cứu, chỉ có năm trường hợp
nhiễm nám mới được ghi nhận, tỷ lệ xuất hiện
là 2,7% và thấp hơn nhiều so với 53% được
quan sát trước đây trong thai kỳ.
Ngồi tác động xấu của tia cực tím như là
yếu tố kích hoạt và gây tái phát, các nghiên
cứu gần đây đã cho thấy vai trò của ánh sáng
khả kiến (Duteil et al., 2014, Duteil et al.,
2017, Mahmoud et al., 2010). Ánh sáng xanh
được tìm thấy kích thích opsin-3, kích hoạt
yếu tố phiên mã liên quan đến tạo thành sắc tố
và các enzyme trong tạo thành melanin khác
như tyrosinase và dopachrom tautomersae
(Regazzetti et al., 2018). Tyrosinase và
dopachrom tạo thành một phức hợp protein
chủ yếu được tạo ra trong các tế bào
melanocytes của những người da sẫm màu.

Do đó, ảnh hưởng trên thời gian dài của ánh
sáng xanh trên những người có loại da sẫm
màu được cho là gây ra sự tăng sắc tố kéo dài
ở những người có da loại III trở lên
(Regazzetti et al., 2018). Do đó, kem chống
nắng chống được ánh sáng khả kiến như loại
có oxit sắt, là cần thiết. Có rất ít kem chống
nắng thêm oxit sắt có sẵn trên thị trường, các
kem chống nắng với công thức như vậy ngăn
chặn tối ưu tia cực tím và ánh sáng khả kiến.
Castanedo-Cazares et al. (2014) đã so sánh
tác dụng của kem chống nắng phổ rộng
(chống ánh sáng khả kiến và tia UV) với kem
chống nắng chỉ chống tia UV, cả hai đều có
yếu tố chống nắng 50. Sáu mươi tám bệnh
nhân được đưa vào nghiên cứu kéo dài trong
8 tuần (Castanedo-Cazares et al., 2014). Kem
chống nắng chỉ chống tia UV có chứa
mexoryl SX, titan dioxide, octocrylene,
Tinasorb- S và avobenzone. Kem chống nắng
phổ rộng có cùng cơng thức thêm oxit sắt. Cả
hai nhóm nhận được hydroquinone 4% mỗi
ngày. Cải thiện đáng kể hơn đã được quan sát
thấy trong nhóm sử dụng kem chống nắng phổ
rộng.
Trong một nghiên cứu kéo dài 6 tháng với
40 bệnh nhân, Boukari et al. (2015) đã đánh
giá hiệu quả của kem chống nắng phổ rộng có
chứa oxit sắt. Nhóm chứng đã sử dụng cùng
Biên dịch: Bs. Trương Tấn Minh Vũ


loại kem chống nắng có khả năng chống tia
UVB và UVA mà khơng có oxit sắt. Kết quả
giảm đáng kể hơn về chỉ số MASI ở những
bệnh nhân được điều trị bằng kem chống nắng
phổ rộng. Cả hai nghiên cứu đều ghi nhận tác
dụng có lợi của việc bảo vệ da với ánh sáng
khả kiến ở bệnh nhân bị nám.
Polypodium leucotomos
Gần đây đã có nhiều quan tâm trong việc
sử dụng Polypodium leucotomos (PL) như là
một thành phần chống nắng hỗ trợ trong trị
nám. Polypodium là một lồi dương xỉ thuộc
họ Polypodiaceae, chỉ có ở Trung và Nam
Mỹ. Các cơ chế hoạt động của PL bao gồm
thúc đẩy hoạt động của gen ức chế p53, điều
tiết các cytokine gây viêm, điều hòa hệ thống
chống oxy hóa nội sinh và ức chế hoạt động
của men cyclooxygenase-2 do bức xạ UV
(Nestor et al., 2014, Siscovick et al., 2008).
Một số nghiên cứu gần đây đã ghi nhận
hiệu quả ở những bệnh nhân bị nám (Goh et
al., 2018, Martin et al., 2013). Trong một
nghiên cứu ngẫu nhiên, có đối chứng giả dược
trên 40 bệnh nhân, Martin et al. (2013) đánh
giá hiệu quả của PL 240 mg hai lần mỗi ngày
so với giả dược. Các tác giả đã báo cáo hiệu
quả có ý nghĩa thống kê của PL so với giả
dược. Trong một thử nghiệm mù đôi, đối
chứng giả dược gần đây, Goh et al. (2018) đã

báo cáo hiệu quả của PL trong trị nám. Bệnh
nhân được chọn ngẫu nhiên để uống PL 240
mg hai lần mỗi ngày hoặc giả dược trong 12
tuần. Các nhóm can thiệp và giả dược cũng
được điều trị bằng kem chống nắng phổ rộng
và hydroquinone 4% mỗi ngày. Nhóm được
điều trị bằng PL đã đạt được sự giảm đáng kể
về điểm số MASI sau 56 và 84 ngày điều trị
(Goh et al., 2018).
Thuốc bôi thường dùng
Nhiều loại thuốc tại chỗ đã được sử dụng
để trị nám. Trong lịch sử, hydroquinone là
tiêu chuẩn vàng. Các thành phần khác bao
3


gồm axit azelaic, axit kojic, retinoid,
niacinamide, corticosteroid, axit salicylic và
glycolic, arbutin, resveratrol và resorcinol.
Các thành phần này và các cơ chế của chúng
được trích dẫn trong Bảng 1 (Al-Niaimi và
Chiang, 2017, Birk, 1985, Bissett, 2002, De
Caprio, 1999, Deo et al., 2013, Glowka et al.,
2018, Grimes, 1995, Grimes, 2009, Hashim et
al., 2018; Huh et al., 2010; Kang, 2005;
Keeling et al., 2008; Lajis et al., 2012,
Menter, 2004, Monteiro et al., 2013,
Navarittle-Solís et al., 2011, Niwano et al.,
2018, Nordlund và cộng sự, 2006, Olejnik và
cộng sự, 2018, Paine và cộng sự, 2001). Các

nghiên cứu dựa trên bằng chứng đã cho thấy
rằng các sản phẩm kết hợp có chứa
hydroquinone 4%, tretinoin và một steroid
cho kết quả tốt nhất. (Jutley et al., 2014; Rivas
and Pandya, 2013; Sarkar, 2013; Sarma et al.,
2017). (Xem Bảng 2).
Hydroquinone được sử dụng trên toàn cầu
để trị nám (De Caprio, 1999, Grimes, 2009,
Nordlund và cộng sự, 2006, Tse, 2010), và
mặc dù được sử dụng trong hơn 60 năm, nó
vẫn là thành phần bơi tại chỗ có hiệu quả nhất.
Hydroquinone ức chế tyrosinase, enzyme liên
quan việc sản xuất sắc tố, và được dung nạp
tốt ở hầu hết bệnh nhân. Tác dụng phụ phổ
biến nhất là viêm da tiếp xúc.
Phần lớn các thử nghiệm lâm sàng đánh giá
hiệu quả và độ an toàn của hydroquinone
không kéo dài quá 6 tháng. Tuy nhiên, các bác
sĩ có quan điểm khác nhau trong việc kê đơn
hydroquinone, vì vậy khơng có tiêu chuẩn
điều trị chung. Theo kinh nghiệm của tác giả,
hydroquinone có thể được sử dụng an toàn và
hiệu quả sau 6 tháng. Tuy nhiên, kết quả tối
ưu thường đạt được tốt nhất bằng cách sử
dụng xoay vòng mỗi 6 tháng, dùng và ngưng
hydroquinone. Các chất làm trắng khác
thường rất cần thiết để duy trì kết quả đạt được
khi sử dụng hydroquinone. Hydroquinone
không nên được sử dụng ở phụ nữ mang thai
hoặc cho con bú.

Hydroquinone đã bị cấm ở một số quốc gia
do lo ngại về biến chứng ochronosis (mảng
Biên dịch: Bs. Trương Tấn Minh Vũ

tăng sắc tố xám đen) và các trường hợp có thể
bị mất sắc tố. Ochronosis được đặc trưng bởi
lichen tăng sắc tố, đó là những sẩn giống như
trứng cá xuất hiện ở vùng da được điều trị
bằng hydroquinone. Ochronosis được báo cáo
lần đầu tiên ở Châu Phi và thường được gây
ra bởi việc sử dụng lâu dài hydroquinone nồng
độ cao với chống nắng không phù hợp
(Bhattar et al., 2015, Grimes, 2009). Trái
ngược với các báo cáo trường hợp phổ biến từ
Châu Phi, tình trạng này khơng phổ biến ở
Hoa Kỳ, hầu hết các trường hợp là thứ phát
sau khi sử dụng lâu dài các mỹ phẩm không
cần kê đơn, nồng độ thấp với 2%
hydroquinone. Các trường hợp mất sắc tố do
hydroquinone là rất hiếm.
Các mối quan tâm khác liên quan đến sự
an toàn của hydroquinone dựa trên các nghiên
cứu cho thấy rằng benzen, một tác nhân gây
bệnh liên quan bạch cầu được biết đến, được
chuyển hóa thành hydroquinone như một sản
phẩm phụ chính (Norlund et al., 2006). Các
chất chuyển hóa của benzen, bao gồm
hydroquinone, phenol hoặc benzoquinone,
không biểu hiện khả năng và mức độ tác dụng
ức chế tuỷ xương của benzen. Ngoài ra, các

cá nhân tiếp xúc với hydroquinone trong thời
gian dài đã khơng chứng minh được có sự
thay đổi hoạt động của tủy xương (De Caprio,
1999, Tse, 2010). Hydroquinone hiện đã được
sử dụng và sản xuất trong hơn 60 năm, và một
nghiên cứu tài liệu cho thấy khơng có trường
hợp ung thư da, khối u ác tính hoặc tổn thương
gan liên quan đến ứng dụng hydroquinone tại
chỗ để làm sáng da.

4


Phương pháp điều trị mới bằng đường (Taraz et al., 2017). Nhiều nghiên cứu đã ghi
uống và bôi tại chỗ
nhận hiệu quả của TA ở bệnh nhân bị nám
(Banihashemi et al., 2015, Del Rosario et al.,
Tranexamic acid
2018, Ebrahimi và Naeini, 2014; Kim et al.,
Tranexamic acid (TA), một dẫn xuất tổng 2017; Lee et al., 2016, Na et al., 2013, Perper
hợp của lysine, là một tác nhân tiêu sợi huyết và cộng sự, 2017, Wu và cộng sự, 2012).
ngăn chặn sự chuyển đổi plasminogen thành
TA đã được sử dụng chủ yếu ở bệnh nhân
plasmin và do đó cản trở sự liên kết của châu Á và gần đây đã được đánh giá trong một
plasminogen với keratinocytes (Hình 1). Tác nhóm bệnh nhân ở Hoa Kỳ. Del Rosario và
dụng dây chuyền bao gồm giảm giải phóng cộng sự. (2018) đánh giá hiệu quả của TA 250
axit arachidonic và giảm tổng hợp mg hai lần mỗi ngày so với giả dược trong
prostaglandin và yếu tố tăng trưởng nguyên nghiên cứu 3 tháng, sau đó chỉ là 3 tháng dùng
bào sợi. Prostaglandin và yếu tố tăng trưởng kem chống nắng. Ba mươi chín bệnh nhân đã
ngun bào sợi đều kích thích tổng hợp hồn thành thử nghiệm. Sau 3 tháng, đã giảm

melanin. TA cũng làm giảm tế bào mast và sự 49% điểm số MASI so với 18% đối với nhóm
hình thành mạch (Kim et al., 2015). Nijo kiểm sốt giả dược. Khơng có tác dụng phụ
Sadako lần đầu tiên báo cáo hiệu quả của TA nghiêm trọng nào được báo cáo (Del Rosario
vào năm 1979 ở một bệnh nhân bị nám được et al., 2018).
điều trị bệnh mề đay mãn tính.
Nghiên cứu hồi cứu lớn nhất về dùng TA
TA hiện đang được sử dụng bằng nhiều trong điều trị được thực hiện tại Singapore.
đường bao gồm uống, bôi tại chỗ, tiêm trong Các tác giả đã xem xét dữ liệu từ 561 bệnh
da và lăn kim (Taraz et al., 2017). Liều uống nhân bị nám được điều trị bằng TA và sự cải
hiện tại thấp hơn đáng kể so với liều dùng để thiện được ghi nhận ở 90% bệnh nhân. Các tác
điều trị bệnh máu khó đơng, chảy máu kinh dụng phụ đã được báo cáo ở 40 bệnh nhân
nguyệt nặng hoặc các tình trạng xuất huyết (7,1%) và hầu hết các tác dụng phụ đều nhẹ.
khác. Trung bình, liều dùng để trị nám là trung Tuy nhiên, một bệnh nhân bị huyết khối tĩnh
bình 250 mg hai lần mỗi ngày so với 3900 mg mạch sâu và sau đó được phát hiện bị thiếu
mỗi ngày đối với một số bệnh lý chảy máu
protein S di truyền. Một người có tiền sử sẩy
Biên dịch: Bs. Trương Tấn Minh Vũ

5


thai tự phát và hai chị em có tiền sử về các vấn
đề huyết khối di truyền (Lee et al., 2016).
Những lo ngại chung kéo dài liên quan đến
sự an tồn được đưa ra do TA có xu hướng
gây ra hiện tượng huyết khối. Do đó, TA
chống chỉ định ở những bệnh nhân bị rối loạn
đơng máu hoặc có tiền sử huyết khối tắc mạch
(Kim et al., 2017). Tác dụng phụ chính trong
các thử nghiệm lâm sàng trị nám hiếm khi

được báo cáo. Các tác dụng phụ khác liên
quan đến sử dụng TA bao gồm khó chịu
đường tiêu hóa nhẹ, giảm máu trong kinh
nguyệt, phát ban da dị ứng, rụng tóc và tăng
nhẹ nồng độ transaminase alanine. TA đường
uống phải được kê toa cẩn thận và thận trọng.
Một tiền sử chi tiết nên được kiểm tra cho mỗi
bệnh nhân để loại trừ các cá nhân có nguy cơ
biến chứng khơng lường trước được.
Một số nghiên cứu đã đề cập đến hiệu quả
và sự an tồn của TA bơi tại chỗ
(Banihashemi et al., 2015, Ebrahimi và
Naeini, 2014, Kim et al., 2016). Trong một
thử nghiệm kéo dài 12 tuần, chia đôi mặt,
Banihashemi et al. (2015) đã so sánh hiệu quả
của sản phẩm TA 5% với hydroquinone 4%.
Cả hai phương pháp điều trị đều cho thấy sự
cải thiện lâm sàng đáng kể mà khơng có sự
khác biệt đáng kể giữa hai nhóm, điều này cho
thấy hiệu quả tương đương.
Trong một nghiên cứu chia đôi mặt, TA
3% được áp dụng cho một bên mặt và hỗn hợp
gồm hydroquinone 2%, dexamethasone
0,01% và vitamin C ở phía đối diện. Cả hai
cơng thức đều cho thấy sự cải thiện đáng kể,
điều này cho thấy hiệu quả tại chỗ tương tự
đối với các công thức dựa trên hydroquinone
(Ebrahimi và Naeini, 2014). Các tác dụng phụ
tại chỗ bao gồm ban đỏ, vảy, kích ứng và khơ
(Banihashemi et al., 2015, Ebrahimi và

Naeini, 2014, Kim et al., 2016).
Melatonin
Hormone melatonin, được tiết ra bởi tuyến
tùng, là một chất chống oxy hóa và thu gom
các gốc tự do mạnh, kích thích một số enzyme
chống oxy hóa, bao gồm superoxide effutase,
glutathione
reductase

glutathione
peroxidase. Melatonin cũng ức chế các thụ thể
Biên dịch: Bs. Trương Tấn Minh Vũ

hormone kích thích α-melanocyte. Melatonin
uống và bơi tại chỗ được đánh giá trong 36
bệnh nhân bị nám và 10 người khỏe mạnh làm
nhóm chứng. Bệnh nhân được chia ngẫu
nhiên thành một số nhóm, bao gồm chỉ bơi
melatonin tại chỗ, bơi melatonin kết hợp
chống nắng, phối hợp bôi tại chỗ và uống
melatonin kết hợp hydroquinone 4% trong 90
ngày. Sau 90 ngày, tất cả các bệnh nhân bị
nám đã chứng minh giảm đáng kể điểm số
MASI. Ngoài ra, malondialdehyd giảm, là
thước đo của stress oxy hóa, và nồng độ
glutathione (GSH) tăng và cho thấy sự cải
thiện đáng kể trong stress oxy hóa. Những kết
quả này cũng cho thấy cần thêm các nghiên
cứu bổ sung để đánh giá hiệu quả và độ an
toàn của melatonin ở bệnh nhân bị nám được

đảm bảo (Hamadi et al., 2009l Ryoo et al.,
2001).
Glutathione
GSH là một trong những chất chống oxy
hóa nội sinh mạnh nhất được sản xuất bởi các
tế bào trong cơ thể con người và là một
tripeptide của glutamate, cysteine và glycine.
Các cơ chế gây ra làm sáng da bao gồm ức chế
tyrosinase và chuyển đổi sản xuất eumelanin
thành pheomelanin. Gần đây đã có rất nhiều
cơng bố liên quan đến việc sử dụng GSH tiêm
tĩnh mạch để làm sáng da (Sonthalia et al.,
2016). Nhiều bài báo đã được cơng bố trên
báo chí về việc sử dụng GSH cho nhiều loại
bệnh bao gồm nám. Sử dụng GSH tiêm tĩnh
mạch có liên quan đến các phản ứng đe dọa
tính mạng nghiêm trọng bao gồm hội chứng
Stevens-Johnson và sốc phản vệ.
Một số nghiên cứu đã đánh giá GSH đường
uống và bôi tại chỗ để làm sáng da. Trong một
nghiên cứu kéo dài 8 tuần, Handog et al.
(2016) đã điều trị cho 30 phụ nữ Philippines
khỏe mạnh với viên uống glutathione 500mg.
Chỉ số melanin cho thấy sự giảm đáng kể và
các đánh giá cho thấy kết quả làm sáng da
mức độ trung bình ở 90% đối tượng (Handog
et al., 2016). Một nghiên cứu ngẫu nhiên, mù
đôi, chia nửa mặt, dùng glutathione 2% bôi tại
chỗ được đánh giá trong 10 tuần, trong đó
GSH được áp dụng cho một bên và giả dược

6


ở phía đối diện. Chỉ số melanin đã giảm đáng
kể ở bên được điều trị bằng GSH (Watanabe
và cộng sự, 2014). GSH uống và bôi tại chỗ
được dung nạp tốt khơng có tác dụng phụ

nghiêm trọng. Kết quả của các nghiên cứu này
cho thấy sự cần thiết phải nghiên cứu thêm về
GSH đường uống và bôi tại chỗ trong điều trị
nám.

Các thành phần bôi tại chỗ mới

Serum ức chế sắc tố
Serum ức chế sắc tố gần đây đã được điều
chỉnh để can thiệp vào nhiều cơ chế liên quan
đến việc gây ra tăng sắc tố. Những cơ chế này
bao gồm kích hoạt melanocyte, phát triển
melanosome, tổng hợp melanin, chuyển
melanosome, biệt hóa và bong tróc tế bào
keratinocyte. Serum điều chỉnh sắc tố có chứa
TA, tetrapeptide, chiết xuất sinh vật phù du,
niacinamide, phenylethyl resorcinol và
undecylenol phenylalanine. Trong một thử
nghiệm so sánh ngẫu nhiên, mù đôi ở 43 bệnh
nhân, serum điều chỉnh sắc tố được so sánh
với hydroquinone 4% và cho thấy hiệu quả
tương đương với hydroquinone ở những bệnh

nhân bị nám và tăng sắc tố sau viêm (Makino
et al., 2016).

Cysteamine
Cysteamine
hydrochloride
(ß,
mercaptoethylanine hydrochloride) được sản
xuất tự nhiên trong cơ thể người và là sản
phẩm thối hóa của axit amin L-cysteine.
Cysteamine cũng là một chất bảo vệ bức xạ
bảo vệ các tế bào khỏi đột biến gen và chết tế
bào của bức xạ ion hóa thông qua việc thu dọn
các gốc hdroxyl (Besouw et al., 2013).
Gần đây, một số nghiên cứu đã ghi nhận
hiệu quả của cysteamine ở bệnh nhân bị nám.
Trong một thử nghiệm ngẫu nhiên, mù đôi ở
40 bệnh nhân, sự cải thiện đáng kể các tổn
thương nám đã được quan sát so với những
bệnh nhân được điều trị bằng giả dược.
Mansouri et al. (2015) đánh giá hiệu quả của
5% cysteamine ở 50 bệnh nhân bị nám.
Cysteamine gây ra sự giảm đáng kể về điểm
số MASI sau 16 tuần so với giả dược.
Biên dịch: Bs. Trương Tấn Minh Vũ

7


Biên dịch: Bs. Trương Tấn Minh Vũ


8


Methimazole
Methimazole là một loại thuốc kháng giáp
đường uống được sử dụng để điều trị cho bệnh
nhân cường giáp và đã được chứng minh là
gây ra sự mất sắc tố khi áp dụng tại chỗ.
Methimazole đã được sử dụng ở những bệnh
nhân bị nám và tăng sắc tố sau viêm và làm
sáng da đáng kể. Methimazole là một chất ức
chế peroxidase mạnh ngăn chặn sự tổng hợp
melanin. Các nghiên cứu về hấp thu
methimazole 5% bôi tại chỗ cho thấy nồng độ
huyết thanh được phát hiện tối thiểu và khơng
có bất thường trong xét nghiệm chức năng
tuyến giáp (Kasraee et al., 2005, Kasraee et
al., 2008). Methimazole 5% được áp dụng
hàng ngày ở 20 bệnh nhân bị nám biểu bì và
khơng gây ra bất kỳ thay đổi đáng kể nào của
hormone tuyến giáp trong huyết thanh,
thyroxine tự do và nồng độ triiodothyronine
tự do. Methimazole được dung nạp tốt với tác
dụng phụ tối thiểu ở da. Tuy nhiên, Kasraee
et al. (2008) khuyến cáo rằng methimazole chỉ
được áp dụng cho các khu vực bị ảnh hưởng
bởi nám và không nên được sử dụng như một
chất làm sáng da trong thẩm mỹ nói chung.


về tâm lý này nên được điều trị bằng phương
pháp đa phương thức kết hợp các biện pháp
chống nắng bảo vệ da, chống oxy hóa, làm
sáng da, tẩy da chết và tái tạo bề mặt da trong
trường hợp nặng. Có rất nhiều các biện pháp
điều trị mới bằng đường uống, bôi tại chỗ và
kết hợp cho nám đã được phổ biến để mở rộng
danh mục điều trị và đồng thời có các thử
nghiệm bổ sung để chứng minh tính hiệu quả
và an tồn của chúng.
Tài liệu tham khảo
Adalatkhah H., Pourfarzi F., SadeghiBazargani H. Flutamide versus a
cyproterone acetate-ethinyl estradiol
combination in moderate acne: a pilot
randomized clinical trial. Clin Cosmet
Investig Dermatol. 2011;4:117.[PMC
free article] [PubMed] [Google Scholar]

Adalatkhah H., Sadeghi-Bazargani H. The
first clinical experience on efficacy of
topical flutamide on melasma compared
with topical hydroquinone: A randomized
clinical trial. Drug design, development
and therapy. Drug Des Devel
Flutamide
Ther. 2015;9:4219–4225. [PMC free
Một bài báo gần đây đã đánh giá hiệu quả
article][PubMed] [Google Scholar]
của flutamide tại chỗ ở bệnh nhân bị nám.
Flutamide là một loại đối kháng androgen

không steroid ngăn chặn hoạt động của Al-Niaimi F., Chiang N.Y.Z. Topical
vitamin C and the skin: Mechanisms of
testosterone nội sinh và ngoại sinh bằng cách
action and clinical applications. J Clin
liên kết với thụ thể androgen. Bảy mươi bốn
Aesthet Dermatol. 2017;10(7):14–
phụ nữ đã được tham gia vào một thử nghiệm
17. [PMC free article][PubMed] [Google
16 tuần, ngẫu nhiên, so sánh flutamide 1% với
Scholar]
hydroquinone 4% bôi một lần mỗi ngày. Vấn
đề tăng sắc tố da được cải thiện, kết quả của
Balkrishnan R., McMichael A.J., Camacho
điểm số MASI và thang màu cho thấy hiệu
F.T., Saltzberg F., Housman T.S.,
quả tương tự đối với flutamide và
Grummer S. Development and validation
hydroquinone 4%. Tuy nhiên, điểm hài lòng
of a health-related quality of life
của bệnh nhân cao hơn đáng kể trong nhóm
instrument for women with melasma. Br
flutamide (Adalatkhah và Sadeghi-Bazargani,
J Dermatol. 2003;149(3):572–
2015).
577.[PubMed] [Google Scholar]
Kết luận
Nám vẫn là một bệnh lý mãn tính, đầy
thách thức về mặt điều trị và tình trạng tái phát
phổ biến. Rối loạn sắc tố gây ảnh hưởng nặng
Biên dịch: Bs. Trương Tấn Minh Vũ


9


Besouw M., Masereeuw R., van den Heuvel
L., Levtchenko E. Cysteamine: An old
drug with new potential. Drug Discov
Today. 2013;18(15-16):785–
792. [PubMed] [Google Scholar]
Bhattar P.A., Zawar V.P., Godse K.V., Patil
S.P., Nadkarni N.J., Gautam M.M.
Exogenous ochronosis. Indian J
Dermatol. 2015;60(6):537–543. [PMC
free article][PubMed] [Google Scholar]
Birk Y. The Bowman-Birk inhibitor.
Trypsin- and chymotrypsin-inhibitor
from soybeans. Int J Pept Protein
Res. 1985;25(2):113–
131. [PubMed] [Google Scholar]

Del Rosario E., Florez-Pollack S., Zapata L.,
Jr., Hernandez K., Tovar-Garza A.,
Rodrigues M. Randomized, placebocontrolled, double-blind study of oral
tranexamic acid in the treatment of
moderate to severe melasma. J Am
Acad Dermatol. 2018;78(2):363–
369. [PubMed] [Google Scholar]
Deo K.S., Dash K.N., Sharma Y.K., Virmani
N.C., Oberai C. Kojic acid vis-a-vis its
combinations with hydroquinone and

betamethasone valerate in melasma: A
randomized, single blind, comparative
study of efficacy and safety. Indian J
Dermatol. 2013;58(4):281–285. [PMC
free article][PubMed] [Google Scholar]

Bissett D. Topical niacinamide and barrier
enhancement. Cutis. 2002;70:8–
12. [PubMed] [Google Scholar]

Ebrahimi B., Naeini F.F. Topical tranexamic
acid as a promising treatment for
melasma. J Res Med
Sci. 2014;19(8):753–757. [PMC free
Boukari F., Jourdan E., Fontas E., Montaudié
article] [PubMed] [Google Scholar]
H., Castela E., Lacour J.P. Prevention of
melasma relapses with sunscreen
Duteil L., Cardot-Leccia N., Queille-Roussel
combining protection against UV and
C., Maubert Y., Harmelin Y., Boukari
short wavelengths of visible light: A
F. Differences in visible light-induced
prospective randomized comparative
pigmentation according to wavelengths:
trial. J Am Acad
A clinical and histological study in
Dermatol. 2015;72(1):189–190. e1.
comparison with UVB
[PubMed] [Google Scholar]

exposure. Pigment Cell Melanoma
Res. 2014;27(5):822–
Castanedo-Cazares J.P., Hernandez-Blanco
826.[PubMed] [Google Scholar]
D., Carlos-Ortega B., Fuentes-Ahumada
C., Torres-Álvarez B. Visible-light
Duteil L., Esdaile J., Maubert Y.,
photoprotection in
Cathelineau A.C., Bouloc A., Queillemelasma. Photodermatol Photoimmunol
Roussel C. A method to assess the
Photomed. 2014;30(1):35–
protective efficacy of sunscreens against
42. [PubMed] [Google Scholar]
visible light-induced
pigmentation. Photodermatol
De Caprio A.P. The toxicology of
Photoimmunol
hydroquinone-relevance to occupational
Photomed. 2017;33(5):260–
and environmental exposure. Crit Rev
266. [PubMed] [Google Scholar]
Toxicol. 1999;29:283–
330. [PubMed] [Google Scholar]
George A. Tranexamic acid: An emerging
depigmenting agent. Pigment
Int. 2016;3(2):66–71. [Google Scholar]

Biên dịch: Bs. Trương Tấn Minh Vũ

10



Glowka A., Olejnik A., Nowak I. The release
melasma patients. J Arab Univ Basic
studies of undecylenoyl phenylalanine
Appl Sci. 2009;8:30–42. [Google
through cellulose based
Scholar]
membranes. Saudi Pharm
Handog E.B., Datuin M.S., Singzon I.A. An
J. 2018;26:709–718.[PMC free
open-label, single-arm trial of the safety
article] [PubMed] [Google Scholar]
and efficacy of a novel preparation of
Goh C.L., Chuah S.Y., Tien S., Thng G.,
glutathione as a skin-lightening agent in
Vitale M.A., Delgado-Rubin A. DoubleFilipino women. Int J
blind, placebo-controlled trial to evaluate
Dermatol. 2016;55(2):153–
the effectiveness of Polypodium
157.[PubMed] [Google Scholar]
leucotomosextract in the treatment of
Hashim P.W., Chen T., Harper J.C., Kircik
melasma in Asian skin: A pilot study. J
L.H. The efficacy and safety of azelaic
Clin Aesthet Dermatol. 2018;11(3):14–
acid 15% foam in the treatment of facial
19.[PMC free article] [PubMed] [Google
acne vulgaris. J Drugs
Scholar]

Dermatol. 2018;17(6):641–
Grimes P.E. Melasma: Etiologic and
645. [PubMed] [Google Scholar]
therapeutic considerations. Arch
Huh S.Y., Shin J.W., Na J.I., Huh C.H.,
Dermatol. 1995;131(12):1453–
Youn S.W., Park K.C. Efficacy and
1457.[PubMed] [Google Scholar]
safety of liposome-encapsulated 4-nGrimes P.E. Management of
butylresorcinol 0.1% cream for the
hyperpigmentation in darker racial ethnic
treatment of melasma: A randomized
groups. Semin Cutan Med
controlled split-face trial. J
Surg. 2009;28(2):77–
Dermatol. 2010;37(4):311–
85. [PubMed] [Google Scholar]
315. [PubMed] [Google Scholar]
Grimes P.E., Yamada N., Bhawan J. Light
Ikino J.K., Nunes D.H., Da Silva V.P.M.,
microscopic, immunohistochemical, and
Fröde T.S., Sens M.M. Melasma and
ultrastructural alterations in patients with
assessment of the quality of life in
melasma. Am J
Brazilian women. An Bras
Dermatopathol. 2005;27(2):96–
Dermatol. 2015;90(2):196–200.[PMC
101. [PubMed] [Google Scholar]
free article] [PubMed] [Google Scholar]

Halder R.M., Grimes P.E., McLaurin C.I.,
Kress M.A., Kenney J.A., Jr. Incidence
of common dermatoes in a
predominantly black dermatologic
practice. Cutis. 1983;32(4):388–
390. [PubMed] [Google Scholar]

Jutley G.S., Rajaratnam R., Halpern J., Salim
A., Emmett C. Systematic review of
randomized controlled trials on
interventions for melasma. J Am Acad
Dermatol. 2014;70(2):369–
373. [PubMed] [Google Scholar]

Hamadi S.A., Mohammed M.M., Aljaf A.N., Kang H.Y. Melasma and aspects of
Abdulrazak A. The role of topical and
pigmentary disorders in Asians. Ann
oral melatonin in management of
Dermatol Venereol. 2012;139:S92–
S95.[PubMed] [Google Scholar]

Biên dịch: Bs. Trương Tấn Minh Vũ

11


Kang H.Y., Hwang J.S., Lee J.Y., Ahn J.H., Kim M.S., Bang S.H., Kim J.H., Shin H.J.,
Kim J.Y., Lee E.S. The dermal stem and
Choi J.H., Chang S.E. Tranexamic acid
c-Kit are overexpressed in melasma. Br J

diminishes laser-induced
Dermatol. 2006;154(6):1094–
melanogenesis. Ann
1099.[PubMed] [Google Scholar]
Dermatol. 2015;27(3):250–256.[PMC
free article] [PubMed] [Google Scholar]
Kang S. The mechanism of action of topical
retinoids. Cutis. 2005;75:10–
Kim H.J., Moon S.H., Cho S.H., Lee J.D.,
13. [PubMed] [Google Scholar]
Sung Kim H. Efficacy and safety of
tranexamic acid in melasma: a metaKang W.H., Yoon K.H., Lee E.S., Kim J.,
analysis and systematic review. Acta
Lee K.B., Yim H. Melasma:
Derm Venereol. 2017;97(6-7):776–
Histopathological characteristics in 56
781. [PubMed] [Google Scholar]
Korean patients. Br J
Dermatol. 2002;146(2):228–
Kim S.J., Park J.Y., Shibata T., Fujiwara R.,
237. [PubMed] [Google Scholar]
Kang H.Y. Efficacy and possible
mechanisms of topical tranexamic acid in
Kasraee B., Handjani F., Parhizgar A.,
melasma. Clin Exp
Omrani G.R., Fallahi M.R., Amini M.
Dermatol. 2016;41(5):480–
Topical methimazole as a new treatment
485.[PubMed] [Google Scholar]
for postinflammatory

hyperpigmentation: Report of the first
Lajis A.F., Hamid M., Ariff A.B.
case. Dermatology. 2005;211(4):360–
Depigmenting effect of Kojic acid esters
362. [PubMed] [Google Scholar]
in hyperpigmented B16F1 melanoma
cells. J Biomed
Kasraee B., Safaee Ardekani G.H., Parhizgar
Biotechnol. 2012;2012:95245.[PMC free
A., Handjani F., Omrani G.R., Samani
article] [PubMed] [Google Scholar]
M. Safety of topical methimazole for the
treatment of melasma: Transdermal
Lakhdar H., Zouhair K., Khadir K., Essari
absorption, the effect on thyroid function
A., Richard A., Seite S. Evaluation of the
and cutaneous adverse effects. Skin
effectiveness of a broad-spectrum
Pharmacol Physiol. 2008;21(6):300–
sunscreen in the prevention of chloasma
305. [PubMed] [Google Scholar]
in pregnant women. J Eur Acad Dermatol
Venereol. 2007;21(6):738–
Keeling J., Cardona L., Benitez A., Epstein
742. [PubMed] [Google Scholar]
R., Rendon M. Mequinol 2%/tretinoin
0.01% topical solution for the treatment Lee A.Y. Recent progress in melasma
of melasma in men: a case series and
pathogenesis. Pigment Cell Melanoma
review of the

Res. 2015;28(6):648–
literature. Cutis. 2008;81(2):179–
660.[PubMed] [Google Scholar]
183. [PubMed] [Google Scholar]
Lee B.W., Schwartz R.A., Janniger C.K.
Kim E.H., Kim Y.C., Lee E.S., Kang H.Y.
Melasma. G Ital Dermatol
The vascular characteristics of
Venereol. 2017;152(1):36–
melasma. J Dermatol
45. [PubMed] [Google Scholar]
Sci. 2007;46(2):111–
116. [PubMed] [Google Scholar]

Biên dịch: Bs. Trương Tấn Minh Vũ

12


Lee H.C., Thng T.G., Goh C.L. Oral
tranexamic acid (TA) in the treatment of
melasma: A retrospective analysis. J Am
Acad Dermatol. 2016;75(2):385–
392. [PubMed] [Google Scholar]

45(3):285–288. [PubMed] [Google
Scholar]

Monteiro R.C., Kishore B.N., Bhat R.M.,
Sukumar D., Martis J., Ganesh H.K. A

comparative study of the efficacy of 4%
Mahmoud B.H., Ruvolo E., Hexsel C.L., Liu
hydroquinone vs 0.75% Kojic acid cream
Y., Owen M.R., Kollias N. Impact of
in the treatment of facial melasma. Indian
long-wavelength UVA and visible light
J Dermatol. 2013;58(2):157. [PMC free
on melanocompetent skin. J Invest
article] [PubMed] [Google Scholar]
Dermatol. 2010;130(8):2092–
Na J.I., Choi S.Y., Yang S.H., Choi H.R.,
2097. [PubMed] [Google Scholar]
Kang H.Y., Park K.C. Effect of
Makino E.T., Kadoya K., Sigler M.L., Hino
tranexamic acid on melasma: A clinical
P.D., Mehta R.C. Development and
trial with histological evaluation. J Eur
clinical assessment of a comprehensive
Acad Venereol. 2013;27(8):1035–
product for pigmentation control in
1039. [PubMed] [Google Scholar]
multiple ethnic populations. J Drugs
Navarrete-Solís J., Castanedo-Cázares J.P.,
Dermatol. 2016;15(12):1562–
Torres-Álvarez B., Oros-Ovalle C.,
1570. [PubMed] [Google Scholar]
Fuentes-Ahumada C., Gonzalez F.J. A
Mansouri P., Farshi S., Hashemi Z., Kasraee
double-blind, randomized clinical trial of
B. Evaluation of the efficacy of

niacinamide 4% versus hydroquinone 4%
cysteamine 5% cream in the treatment of
in the treatment of melasma. Dermatol
epidermal melasma: A randomized
Res Pract. 2011;2011:379173. [PMC free
double-blind placebo-controlled trial. Br
article][PubMed] [Google Scholar]
J Dermatol. 2015;173(1):209–
Nestor M.S., Bucay V.W., Callender V.D.,
217.[PubMed] [Google Scholar]
Cohen J.L., Sadick N., Waldorf
Martin L.K., Caperton C., Woolery-Lloyd
H. Polypodium leucotomos as an adjunct
H., Avashia N. A randomized doubletreatment of pigmentary disorders. J Clin
blind placebo controlled study evaluating
Aesthet Dermatol. 2014;7(3):13–
the effectiveness and tolerability of
17. [PMC free article] [PubMed] [Google
oral Polypodium leucotomos in patients
Scholar]
with melasma. JAMA
Niwano T., Terazawa S., Sato Y., Kato T.,
Dermatol. 2013;149(8):981–
Nakajima H., Imokawa G. Glucosamine
983. [Google Scholar]
abrogates the stem cell
Menter A. Rationale for the use of topical
factor + endothelin-1-induced stimulation
corticosteroids in melasma. J Drugs
of melanogenesis via a deficiency in

Dermatol. 2004;3(2):169–
MITF expression due to the proteolytic
174. [PubMed] [Google Scholar]
degradation of CREB in human
melanocytes. Arch Dermatol
Moin A., Jabery Z., Fallah N. Prevalence and
Res. 2018;310:625–
awareness of melasma during
637. [PubMed] [Google Scholar]
pregnancy. Int J Dermatol. 2006;
1.

Biên dịch: Bs. Trương Tấn Minh Vũ

13


Nordlund J.J., Grimes P.E., Ortonne J.P. The Pires A., Marques R., Encarnaỗóo J.,
safety of hydroquinone. J Eur Acad
Abrantes A., Marques I.A., Laranjo
Dermatol Venereol. 2006;20:781–
Ascorbic acid chemosensitizes colorectal
787. [PubMed] [Google Scholar]
cancer cells and synergistically inhibits
tumor growth. Front
Olejnik A., Glowka A., Nowak I. Release
Physiol. 2018;9:911. [PMC free
studies of undecylenoyl phenylalanine
article] [PubMed] [Google Scholar]
from topical formulations. Saudi Pharm

J. 2018;26:709–718. [PMC free
Regazzetti C., Sormani L., Debayle D.,
article][PubMed] [Google Scholar]
Bernerd F., Tulic M.K., De Donatis G.M.
Melanocytes sense blue light and regulate
Paine C., Sharlow E., Liebel F., Eisinger M.,
pigmentation through the Opsin3. J
Shapiro S., Seiberg M. An alternative
Invest Dermatol. 2018;138(1):171–
approach to depigmentation by soybean
178. [PubMed] [Google Scholar]
extracts via inhibition of the PAR-2
pathway. J Invest
Rivas S., Pandya A. Treatment of melasma
Dermatol. 2001;116(4):587–
with topical agents, peels and lasers: An
595. [PubMed] [Google Scholar]
evidence-based review. Am J Clin
Dermatol. 2013;14(5):359–
Passeron T., Picardo M. Melasma, a
376. [PubMed] [Google Scholar]
photoaging disorder. Pigment Cell
Melanoma Res. 2018;31(4):461–
Rodrigues M., Pandya A. Melasma: Clinical
465.[PubMed] [Google Scholar]
diagnosis and management
options. Australas J
Pawaskar M.D., Parikh P., Markowski T.,
Dermatol. 2015;56(3):151–
McMichael A.J., Feldman S.R.,

163. [PubMed] [Google Scholar]
Balkrishnan R. Melasma and its impact
on health-related quality of life in
Ryoo Y.W., Suh S.I., Mun K.C., Kim B.C.,
Hispanic women. J Dermatolog
Lee K.S. The effects of the melatonin on
Treat. 2007;18(1):5–
ultraviolet-B irradiation cultured dermal
9. [PubMed] [Google Scholar]
fibroblasts. J Dermatol
Sci. 2001;27(3):162–
Perper M., Eber A.E., Fayne R., Verne S.H.,
169.[PubMed] [Google Scholar]
Magno R.J., Cervantes J. Tranexamic
acid in the treatment of melasma: A
Sarkar R. Chemical peels for
review of the literature. Am J Clin
melasma. Pigment Cell Melanoma
Dermatol. 2017;18(3):373–
Res. 2013;26(3):451. [Google Scholar]
381. [PubMed] [Google Scholar]
Sarkar R., Ailawadi P., Garg S. Melasma in
Picardo M., Carrera M. New and
men: A review of clinical, etiological,
experimental treatments of cloasma and
and management issues. J Clin Aesthet
other hypermelanoses. Dermatol
Dermatol. 2018;11(2):53–59. [PMC free
Clin. 2007;25(3):353–
article][PubMed] [Google Scholar]

362. [PubMed] [Google Scholar]

Biên dịch: Bs. Trương Tấn Minh Vũ

14


Sarma N., Chakraborty S., Poojary S.A.,
Rathi S., Kumaran S., Nirmal B.
Evidence-based review, grade of
recommendation, and suggested
treatment recommendations for
melasma. Indian Dermatol Online
J. 2017;8(6):406–442. [PMC free
article] [PubMed] [Google Scholar]

Treat. 2010;21(5):272–
275. [PubMed] [Google Scholar]
Vachiramon V., Suchonwanit P.,
Thadanipon K. Melasma in men. J
Cosmet Dermatol. 2012;11:151–
157. [PubMed] [Google Scholar]

Videira I.F., Moura D.F., Magina S.
Mechanisms regulating
Schulte B.C., Wu W., Rosen T. Azelaic acid:
melanogenesis. An. Bras.
Evidence-based update on mechanism of
Dermatol. 2013;88:76–83.[PMC free
action and clinical application. J Drugs

article] [PubMed] [Google Scholar]
Dermatol. 2015;14(9):964–
968.[PubMed] [Google Scholar]
Wargniez W., Jungman E., Wilkinson S.,
Seyler N., Grộgoire S. Inter-laboratory
Seỗkin H.Y., Kalkan G., Ba Y., Akbaş A.,
skin distribution study of 4-n-butyl
Önder Y., Özyurt H. Oxidative stress
resorcinol: The importance of liquid
status in patients with melasma. Cutan
chromatography/mass spectrometry
Ocul Toxicol. 2014;33(3):212–
(HPLC-MS/MS) bioanalytical
217. [PubMed] [Google Scholar]
validation. J Chromatogr B Analyt
Siscovick J.R., Zapolanski T., Magro C.,
Technol Biomed Life
Carrington K., Prograis S., Nussbaum
Sci. 2017;1060:416–
M. Polypodium leucotomos inhibits
423. [PubMed] [Google Scholar]
ultraviolet B radiation-induced
Watanabe F., Hashizume E., Chan G.P.,
immunosuppression. Photodermatol
Kamimura A. Skin-whitening and skinPhotoimmunol
condition-improving effects of topical
Photomed. 2008;24(3):134–
oxidized glutathione: A double-blind and
141. [PubMed] [Google Scholar]
placebo-controlled clinical trial in healthy

Sonthalia S., Daulatabad D., Sarkar R.
women. Clin Cosmet Investig
Glutathione as a skin whitening agent:
Dermatol. 2014;7:267–274. [PMC free
Fact, myths, evidence and
article][PubMed] [Google Scholar]
controversies. Indian J Dermatol
Werlinger K.D., Guevara I.L., González
Venereol Leprol. 2016;82(3):262–
C.M., Rincón E.T., Caetano R., Haley
272.[PubMed] [Google Scholar]
R.W. Prevalence of self-diagnosed
Taraz M., Niknam S., Ehsani A.H.
melasma among premenopausal Latino
Tranexamic acid in treatment of
women in Dallas and Fort Worth. Tex
melasma: A comprehensive review of
Arch Dermatol. 2007;143(3):424–
clinical studies. Dermatol
425.[PubMed] [Google Scholar]
Ther. 2017:30(3). [PubMed] [Google
Wohlrab J., Kreft D. Niacinamide Scholar]
Mechanisms of action and its topical use
Tse T. Hydroquinone for skin lightening:
in dermatology. Skin Pharmacol
Safety profile, duration of use and when
Physiol. 2014;27(6):311–
should we stop? J Dermatolog
315. [PubMed] [Google Scholar]


Biên dịch: Bs. Trương Tấn Minh Vũ

15


Biên dịch: Bs. Trương Tấn Minh Vũ

16



×