Tải bản đầy đủ (.pdf) (53 trang)

Lập luận trong vở kịch tôi và chúng ta của lưu quang vũ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (671.04 KB, 53 trang )

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU .................................................................................................. 3
1. Lí do chọn đề tài ........................................................................... 3
2. Lịch sử vấn đề............................................................................... 4
3. Mục tiêu nghiên cứu ..................................................................... 5
4.

Đối tượng nghiên cứu ................................................................... 5

5.

Phạm vi nghiên cứu ...................................................................... 5

6.

Phương pháp nghiên cứu .............................................................. 5

7.

Những đóng góp của đề tài ........................................................... 6

8.

Cấu trúc của khóa luận ................................................................. 6

CHƢƠNG 1.............................................................................................. 7
CƠ SỞ LÍ LUẬN ..................................................................................... 7
1. 1. Khái quát về ngữ dụng học và lập luận............................................. 7
1.1.1. Khái quát về ngữ dụng học ............................................................. 7
1.1.2. Khái quát về lập luận....................................................................... 9


1.1.2.1. Khái niệm lập luận ....................................................................... 9
1.1.2.2. Lập luận đơn và lập luận phức ..................................................... 9
1.1.2.3. Bản chất ngữ dụng của lập luận ................................................ 11
1.1.2.3.1. Lập luận trong ngữ dụng là lập luận đời thường .................... 11
1.1.2.3.2. Lập luận trong ngữ dụng là một hành động tại lời ................. 12
1.1.2.4. Quan hệ lập luận và hiệu lực của lập luận ................................. 12
1.1.2.5. Các phương tiện định hướng ngôn ngữ lập luận........................ 13
1.1.2.5.1. Tác tử lập luận ......................................................................... 13

1


1.1.2.5.2. Kết tử lập luận ......................................................................... 14
1.1.2.6. Cơ sở của lập luận – lẽ thường................................................... 14
1.2. Khái quát về tác giả Lưu Quang Vũ và kịch bản “Tôi và chúng ta”15
1.2.1. Khái quát về tác giả Lưu Quang Vũ ............................................. 15
1.2.2. Khái quát về kịch bản “Tôi và chúng ta” ...................................... 23
CHƢƠNG 2............................................................................................ 27
KẾT QUẢ KHẢO SÁT LẬP LUẬN TRONG KỊCH BẢN “TÔI VÀ
CHÚNG TA” CỦA LƢU QUANG VŨ ............................................... 27
2.1. Khái quát chung về kết quả khảo sát ............................................... 27
2.2 Các dạng lập luận trong kịch bản ...................................................... 27
2.2.1. Lập luận đơn.................................................................................. 27
2.2.1.1. Lập luận đơn chỉ xuất hiện kết luận ........................................... 28
2.2.1.2. Lập luận đơn có một luận cứ...................................................... 31
2.2.1.3. Lập luận đơn có nhiều luận cứ ................................................... 36
2.2.2. Lập luận phức ................................................................................ 39
2.2.2.1. Lập luận phức dạng 1 ................................................................. 39
2.2.2.2. Lập luận phức dạng 2 ................................................................. 45
2.3. Đánh giá phong cách Lưu Quang Vũ qua hệ thống lập luận ........... 49

KẾT LUẬN ............................................................................................ 51
TÀI LIỆU THAM KHẢO .................................................................... 53

2


MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Lập luận là một yếu tố quan trọng bởi nó được xem như là một loại vũ khí lợi
hại trong cuộc sống nhằm thể hiện ý chí, quan điểm của người nói hay thậm chí là
bác bỏ ý kiến của người khác. Trong văn học, lập luận lại càng được biểu hiện một
cách đặc sắc, nó thể hiện sự thơng minh, chất trí tuệ và triết lí trong tác phẩm.
Khi chúng tơi nghiên cứu về lập luận trong ngữ dụng học, tức nghĩa cũng
đang nghiên cứu về những vấn đề vẫn còn đang gây nhiều tranh cãi bởi lẽ, từ xưa
đến nay chúng ta thường hay cho rằng lập luận chỉ xuất hiện trong những diễn
ngôn đơn thoại, trong một phát ngôn hoặc trong một văn bản một chiều. Sự thực là
lập luận còn có cả trong những lời đối đáp qua lại giữa các nhân vật hội thoại với
nhau (sau này chúng ta gọi lời thoại, lượt lời, tham thoại, cặp thoại). Mà kịch lại
chính là thể loại chứa những lời thoại của nhân vật.
Hơn nữa, kịch là một thể loại văn học so với các thể loại khác vẫn chưa được
nghiên cứu nhiều. Trong khi đó, những đóng góp của kịch vào nền văn học nước
ta là không hề nhỏ. Đồng hành cùng q trình phát triển của kịch, khơng thể khơng
nhắc đến cái tên Lưu Quang Vũ - một tác giả đã giành được tuyệt đối sự ưu ái của
khán giả cũng như giới nghiên cứu kịch nói suốt những năm 80 của thế kỉ XX. Chỉ
trong mười năm viết kịch, Lưu Quang Vũ có khơng ít kịch phẩm khơng chỉ gây
chấn động dư luận đương thời, đề cập những vấn đề nóng bỏng nhất của cuộc sống
hiện thực, có hiệu quả to lớn với xã hội, mà giá trị nghệ thuật của chúng cịn được
xếp hạng trong q trình phát triển của văn học kịch.
Trong số những tác phẩm kịch của Lưu Quang Vũ, “Tôi và chúng ta” là một
tác phẩm tiêu biểu cho tài năng và phong cách của ông. “Tôi và chúng ta” ra đời

trong những năm đất nước gặp nhiều khó khăn, khủng hoảng, nên đã góp phần cổ
vũ phong trào đổi mới toàn diện đời sống kinh tế, xã hội Việt Nam lúc bấy giờ.
Qua tìm hiểu, chúng tôi nhận thấy vở kịch “Tôi và chúng ta” của Lưu Quang Vũ
khơng chỉ có ý nghĩa trong quá khứ mà còn cả trong hiện tại và tương lai. Những
yếu tố quan trọng để làm nên thành công của tác phẩm chính là những lời lẽ,
những lập luận của các nhân vật trong vở kịch. Đây là một vấn đề khá mới mẻ
nhưng vẫn chưa có những nghiên cứu về nó.
Do vậy, chúng tơi muốn góp một hướng tiếp cận mới với tác phẩm, đó là
dưới góc độ ngữ dụng học mà cụ thể là cái nhìn từ góc độ lập luận trong lời thoại
của nhân vật để có thể thấy hết cái hay, cái đẹp trong vở kịch này.

3


2. Lịch sử vần đề
Lập luận vốn không phải là một vấn đề mới mẻ, nó đã xuất hiện từ rất lâu
trong các nghiên cứu trên thế giới và cả ở Việt Nam. Đã có rất nhiều cơng trình
nghiên cứu về lập luận, cụ thể:
*Ngoài nƣớc
Ngay từ thời cổ đại, từ thế kỉ V trước công nguyên, lập luận đã được chú ý
nghiên cứu. Buổi đầu, sự lập luận được coi là một lĩnh vực thuộc phạm vi của
thuật hùng biện – một “nghệ thuật nói năng”. Nó được trình bày trong tu từ học
của Aristote.
Tiếp sau đó, sự lập luận cũng được trình bày trong phép suy luận logic, trong
thuật ngụy biện hay trong những cuộc nghị luận, tranh cãi ở tịa án
Nửa sau thế kỉ XX, lí thuyết lập luận được quan tâm trở lại. Mở đầu cho thời
kì này là “khảo luận về sự lập luận – Tu từ học mới” của Perelman và Olbrechts –
Tyteca (1958).
Năm 1985, mơ hình luận lý toulmin, một sơ đồ chứa sáu thành phần liên
quan được sử dụng để phân tích lập luận và được xuất bản trong cuốn sách “Sử

dụng tranh luận” của S. Toulmin, sau đó là Grize (1982). Nói chung, lập luận vẫn
được nghiên cứu trong tu từ học và logic học.
Phải đến cơng trình của Oswald Ducrot và Jean Claude Ancombre (1983)
mới đưa ra một kiến giải mới, căn bản và độc đáo: xem xét lập luận dưới góc độ
ngữ dụng học. Hướng nghiên cứu này đã gặt hái được nhiều kết quả thú vị, bất
ngờ và hiện nay được nhiều người quan tâm.
Năm 1985, Trung tâm châu Âu về nghiên cứu lập luận đã được thành lập và
tổ chức những cuộc hội thảo chuyên về lập luận. Hội thảo đâu tiên được tổ chức
vào cuối tháng 8/1987.
*Trong nƣớc
Ở Việt Nam, việc nghiên cứu về Lí thuyết lập luận như các tác giả của “Đại
cương ngôn ngữ học” tập II đã nhận định : “Lập luận là một lĩnh vực mới trong
Ngôn ngữ học thế giới. Ở Việt Nam, nó cịn hồn tồn lạ lẫm với các nhà Ngôn
ngữ học, kể cả các nhà nghiên cứu quan tâm đến ngữ dụng học.
Cho đến hơm nay, ngồi vài bài báo cáo đăng rải rác trên tạp chí Ngơn ngữ,
Ngơn ngữ và đời sống, Kiến thức ngày nay,...thì những nghiên cứu chính thức
trình bày về lý thuyết lập luận tương đối có hệ thống chỉ có ở chương IV trong
“Đại cương ngôn ngữ học” tập II của Đỗ Hữu Châu – Bùi Minh Toán dài 47 trang,

4


chương IV trong “Ngữ dụng học” của Nguyễn Đức Dân gồm 87 trang và chương
VIII trong “Nhập mơn logic hình thức và logic phi hình thức” cũng của Nguyễn
Đức Dân. Đó có thể được xem là những cơng trình tương đối chi tiết và chính xác
về lý thuyết lập luận. Tuy nhiên, các tác giả cũng chỉ mới tập trung nghiên cứu lập
luận về mặt lý thuyết.
Gần đây, có thêm một số đề tài nghiên cứu ở cấp độ luận án tiến sĩ, luận văn
thạc sĩ đã ứng dụng lý thuyết lập luận vào các tình huống cụ thể như tranh cãi
trong pháp lí, phê bình văn học và một vài thể loại khác...Tiêu biểu như luận văn

“Ngôn ngữ và lập luận trong tranh cãi pháp lí” (2000) của Lê Tô Thúy Quỳnh,
“Ngôn ngữ và phương pháp lập luận (dựa trên cứ liệu phê bình văn học bằng tiếng
Việt – 2001) của Đào Mục Đích, “Lập luận pháp lí” (so sánh tiếng Anh và tiếng
Việt – 2005) của Nguyễn Ngọc Thủy, luận văn “Lập luận trong truyện dân gian
Việt Nam” của Nguyễn Thị Yến Phương, luận văn “Tìm hiểu lập luận của nhân
vật Thúy Kiều trong truyện Kiều của Nguyễn Du”. Dù chưa có những đóng góp
mới về mặt lí thuyết, nhưng các tác giả trên cũng đã cho thấy rõ tầm quan trọng
của lập luận.
3. Mục tiêu nghiên cứu
Thực hiện đề tài “Lập luận trong kịch bản “Tôi và chúng ta” của Lưu Quang
Vũ”, chúng tôi đề ra những nhiệm vụ cụ thể như sau:
Thứ nhất, khái quát về hệ thống lập luận và các nhân tố của lập luận trong giao
tiếp.
Thứ hai, phân tích các yếu tố lập luận trong kịch bản “Tôi và chúng ta”.
Thứ ba, đánh giá phong cách, đặc trưng kịch Lưu Quang Vũ thông qua lập luận.
4. Đối tƣợng nghiên cứu
Do yêu cầu của đề tài nên đối tượng nghiên cứu của luận văn chính là hệ
thống lập luận trong kịch bản “Tơi và chúng ta” của Lưu Quang Vũ.
5. Phạm vi nghiên cứu
Khóa luận chủ yếu khai thác, tìm hiểu trong phạm vi kịch bản “Tôi và chúng
ta”.
6. Phƣơng pháp nghiên cứu
Trong suốt q trình thực hiện đề tài, chúng tơi sử dụng những phương pháp
nghiên cứu:

5


- Phương pháp nghiên cứu tư liệu: Phương pháp này được sử dụng trước và
trong q trình chúng tơi thực hiện đề tài để có những kiến thức khái quát về

những nội dung chính trong đề tài cũng như những nội dung có liên quan.
- Phương pháp thống kê phân loại: Chúng tôi sử dụng phương pháp này để
thống kê số lượng lập luận trong vở kịch cũng như phân loại chúng thành những
loại cụ thể.
- Phương pháp phân tích, đánh giá, so sánh: Từ những thống kê, phân loại
số lượng lập luận, chúng tơi tiến hành phân tích chúng trên cơ sở lí thuyết lập luận
và đánh giá phong cách của tác giả Lưu Quang Vũ qua hệ thống lập luận ấy.
7. Những đóng góp của đề tài
Khóa luận “Lập luận trong vở kịch “Tôi và chúng ta” của Lưu Quang Vũ”
nghiên cứu chủ yếu về lập luận trong thể loại kịch dựa trên cơ sở lí luận của
chuyên ngành ngữ dụng học, là một đề tài mà hiện nay vẫn chưa được tìm hiểu và
bàn luận. Vì vậy, việc nghiên cứu đề tài này sẽ cung cấp một lượng kiến thức nhất
định để có thể có cái nhìn thấu triệt về lập luận trong vở kịch “Tôi và chúng ta”
của Lưu Quang Vũ. Ngồi ra, nó sẽ là một nguồn tư liệu tham khảo quý báu cho
những nghiên cứu về lập luận của những sinh viên ngành Ngữ Văn sau này.
8. Cấu trúc của khóa luận
Ngồi phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, khóa luận cịn có 2 chương
chính:
Chương 1: Cơ sở lí luận
Ở chương này, chúng tơi sẽ trình bày khái qt về một số vấn đề lý thuyết
làm nền tảng, cơ sở cho việc nghiên cứu như: lịch sử, khái niệm ngữ dụng học;
khái niệm lập luận và những đặc điểm của lập luận.
Chương 2: Kết quả khảo sát lập luận trong kịch bản “Tôi và chúng ta” của Lưu
Quang Vũ.
Ở chương này, chúng tơi sẽ trình bày những kết quả mà chúng tơi đã khảo sát
được qua các lượt lời của các nhân vật. Từ đó, nhận xét, đánh giá chung về phong
cách của Lưu Quang Vũ.

6



CHƢƠNG 1
CƠ SỞ LÍ LUẬN
1. 1. Khái quát về ngữ dụng học và lập luận
1.1.1. Khái quát về ngữ dụng học
Ngữ dụng học là một bộ mơn khoa học cịn trẻ so với các bộ môn khác của
ngôn ngữ học. Trải qua biết bao thăng trầm, ngữ dụng học mới thực sự được giới
ngôn ngữ học quan tâm vào những năm 70 – 80 của thế kỉ XX. Mặc dù chưa có
lịch sử hình thành lâu dài nhưng ngữ dụng học đã đạt được những thành tựu to lớn.
Ngữ dụng học quan tâm chủ yếu đến lĩnh vực hoạt động thực hiện chức năng
giao tiếp của ngơn ngữ, cịn được gọi là lĩnh vực của lời nói hiểu theo nghĩa rộng,
bao gồm cả các sản phẩm của giao tiếp bằng ngôn ngữ và cả các cơ chế, các quy
tắc sản sinh ra chúng. Đã từng có rất nhiều định nghĩa khác nhau về ngữ dụng học:
Theo Levinson, trước năm 1983, cần chú ý đến hai định nghĩa sau:
- “Ngữ dụng học nghiên cứu những quan hệ giữa ngôn ngữ và ngữ cảnh đã
được ngữ pháp hóa hoặc đã được mã hóa trong cấu trúc của ngơn ngữ.”
- “Ngữ dụng học nghiên cứu tất cả những phương diện của ngôn ngữ khơng
nằm trong lí thuyết và ngữ nghĩa.” [3, 45]
Năm 1986, Jule cho rằng: “Ngữ dụng học nghiên cứu ý nghĩa của lời nói, ý
nghĩa của ngữ cảnh, nghiên cứu việc người ta có thể thơng báo nhiều hơn điều
được nói ra như thế nào, nghiên cứu những biểu hiện của những khoảng cách
tương đối.” [3, 49]
Năm 1990, Fasold phát biểu: “Ngữ dụng học đề cập tới mọi yếu tố con người
trong q trình giao tiếp, như tâm lí, sinh lí, và xã hội.” [6, 11]
Năm 1991, Nofsinger cho rằng “Ngữ dụng học nghiên cứu sự giao tiếp bằng
ngôn ngữ, nghiên cứu cách dùng ngôn ngữ thực sự trong những ngữ cảnh chuyên
biệt ”. Cụ thể, “nó quan tâm đến việc người nói đã dùng lời nói của mình thể hiện
hành vi xã hội riêng biệt như thế nào, quan tâm đến việc lời nói được người nghe
lí giải như là những hành vi do người nói tạo ra như thế nào, quan tâm đến việc
những người tham gia thực hiện sự suy ý như thế nào để tìm ra cái ý nghĩa được

truyền đạt thực sự trong những trường hợp đặc biệt, quan tâm đến việc các cảm
nhận về tính thích hợp của người tham gia đã được sử dụng như thế nào để tạo ra
những hiệu quả giao tiếp đặc thù, quan tâm đến việc những người tham gia tổ
chức lời nói của mình như thế nào. Có nghĩa là ngữ dụng học tập trung sự chú ý

7


vào việc các thao tác thông điệp thực tiễn bằng ngôn ngữ đã được con người vận
dụng như thế nào trong hoàn cảnh giao tiếp thực,…” [3, 49]
Năm 1993, Mey định nghĩa: “Ngữ dụng học là khoa học nghiên cứu về
những điều kiện sử dụng ngôn ngữ tự nhiên như là những yếu tố được chế định bởi
ngữ cảnh xã hội.” [6, 12]
Năm 1994, Asher (chủ biên) cho rằng: “Ngữ dụng học là sự nghiên cứu ngôn
ngữ được sử dụng trong ngữ cảnh của con người.” [3, 51]
Năm 1995, Thomas định nghĩa: “Ngữ dụng học là ngữ nghĩa trong tương
tác.” [3,50]
Năm 1997, Kasper định nghĩa: “Ngữ dụng học là nghành học nghiên cứu
ngơn ngữ từ phía người dùng, đặc biệt nghiên cứu những sự lựa chọn mà họ thực
hiện, những bó buộc mà họ gặp phải khi sử dụng ngơn ngữ trong tương tác xã hội
và nghiên cứu tác động của cách sử dụng ngôn ngữ lên người đối thoại của mình
trong hoạt động giao tiếp. Nói cách khác, ngữ dụng học nghiên cứu hoạt động
giao tiếp trong hoàn cảnh xã hội.” [3, 50]
Ở Việt Nam, tình hình nghiên cứu cũng tương tự như vậy, cũng có những
định nghĩa khác nhau về ngữ dụng học:
Theo Nguyễn Thiện Giáp, “ngữ dụng học là sự nghiên cứu ngôn ngữ trong
sử dụng và giao tiếp”.
Theo Đỗ Hữu Châu, “Dụng học nghiên cứu những phương diện nào không
thuộc nghĩa học (hiểu theo nghĩa của tín hiệu học) của ngơn ngữ và của diễn ngơn
(ngơn từ, phát ngôn).” [6, 12]

Theo Cao Xuân Hạo, “Dụng pháp có thể định nghĩa là ngành nghiên cứu nội
dung của ngơn từ trong những tác dụng qua lại của nó với tình huống bên ngồi,
với ngơn cảnh, với những người tham gia cuộc giao tiếp bằng ngơn ngữ. Nói một
cách khác, nó nghiên cứu trực tiếp cách sử dụng ngơn ngữ trong sinh hoạt xã
hội.” [10, 59]
Từ những định nghĩa trên có thể thấy rằng cho đến nay, những vấn đề về đối
tượng phạm vi nghiên cứu của ngữ dụng học vẫn chưa có sự thống nhất giữa các
nhà nghiên cứu. Tuy vậy, có thể nhận thấy rằng phần lớn các định nghĩa ít nhiều
đã đề cập đến nhiệm vụ nghiên cứu ngôn ngữ trong những ngữ cành nhất định của
bộ mơn ngữ dụng học. Có thể hiểu một cách khái quát:
Ngữ dụng học là ngành học nghiên cứu cách sử dụng ngôn ngữ trong giao
tiếp nghiên cứu ngôn ngữ trong sự chi phối của ngữ cảnh.

8


Theo đó, những vấn đề ngữ dụng học nghiên cứu là: các hành động ngơn
ngữ, lí thuyết lập luận, lí thuyết hội thoại và nghĩa tường minh, nghĩa hàm ẩn.
1.1.2. Khái quát về lập luận
1.1.2.1. Khái niệm lập luận
Giao tiếp bao giờ cũng có mục đích. Mục đích ấy thể hiện lập trường, ý chí,
quan điểm của người nói và nó là kết luận cuối cùng của diễn ngơn. Diễn ngơn sẽ
thiếu thuyết phục nếu người nói chỉ đưa ra một phát ngơn rất khái qt, ví dụ:
“Q nhất là lúa gạo”, “quý nhất là vàng” hay “quý nhất là thì giờ”. Vì vậy, để
thuyết phục người nghe đến cái đích mà mình đã định, trong q trình nói năng,
người nói phải đưa ra các lí lẽ, ví dụ: “Ai khơng ăn mà sống được”; “có vàng là có
tiền”, “có tiền sẽ mua được lúa gạo”; “Có thì giờ mới làm ra lúa gạo, vàng bạc”.
Tồn bộ q trình nói năng, trong đó có thao tác đưa ra lí lẽ để thuyết phục
người nghe, người đọc đến một kết luận nào đó được gọi là lập luận.
Trong cuốn Đại cương ngôn ngữ học (Tập 2, Ngữ dụng học), Đỗ Hữu Châu

cho rằng: Lập luận là đưa ra những lí lẽ nhằm dẫn dắt người nghe đến một kết
luận hay chấp nhận một kết luận nào đấy mà người nói muốn đạt tới [3, 155] và
tiêu chí để xác định một lập luận là kết luận. Hễ tìm ra được một kết luận thì ta có
một lập luận.
Có thể biểu diễn quan hệ lập luận giữa các nội dung trong phát ngơn như sau:
p1; p2;… r
Trong đó:
p1, p2,…là các luận cứ, lí lẽ
r là kết luận
Ví dụ sau đây là một lập luận:
(1)

Cây cối tươi tốt q, có lẽ tối hơm qua trời mưa

Lập luận trên có một luận cứ “cây cối tươi tốt quá” hướng đến kết luận r là một
dự đốn: “tối hơm qua trời mưa”.
1.1.2.2. Lập luận đơn và lập luận phức
Tính chất luận cứ và kết luân của phát ngơn nào đó có tính chất tương đối.
Tức là, một phát ngôn là kết luận của lập luận này nhưng đồng thời có thể là luận
cứ của một lập luận khác. Nói cách khác, một lập luận có thể bao gồm nhiều lập

9


luận nhỏ hơn – các lập luận bộ phận. Tùy theo tính phức hợp của lập luận, ta có
các lập luận đơn (gồm một lập luận) và lập luận phức (lập luận gồm các lập luận
bộ phận). Ta có các ví dụ sau:
(1) Nó là một đứa học giỏi, lại thêm nhà có điều kiện nên nó đã quyết định đi
du học.
(2) Dù thế nào thì nó cũng là người làng này, cũng từng sống lương thiện nên

được mọi người yêu quý. Vả lại, gần đây nó cũng đã thay đổi rất nhiều, kể ra
nó biết suy nghĩ hơn trước rồi. Chắc chắn, lần này mọi người sẽ tha thứ cho
nó.
Ví dụ (1) là một lập luận đơn, bao gồm hai luận cứ và một kết luận như sau:

Luận cứ

Kết luận

(p) Nó là một đứa học giỏi
(r) Nó đã quyết định đi du học
(q) Nhà có điều kiện
Ví dụ (2) là một lập luận phức. Có thể phân tích lập luận này như sau:

Luận cứ của lập
luận bộ phận (luận
cứ bậc 2)
(p1) Nó cũng là
người làng này
(q1) Cũng từng sống
lương thiện
(p2) Gần đây, nó
cũng đã thay đổi rất
nhiều

Kết luận của lập luận
bộ phận – luận cứ của
lập luận lớn (luận cứ
bậc 1)


(r1=p) Được mọi người
yêu mến

Kết luận chung

(r) Chắc chắn lần này
mọi người sẽ tha thứ
cho nó

(r2=p) Nó biết suy nghĩ
hơn trước

Trong ví dụ (2), lập luận lớn hướng tới kết luận chung (r) gồm hai luận cứ là
(p) và (q); (p) và (q) lại chính là hai kết luận (r1) và (r2) của hai lập luận bộ phận
gồm các luận cứ (p1), (q1) và (p2).

10


1.1.2.3. Bản chất ngữ dụng của lập luận
1.1.2.3.1. Lập luận trong ngữ dụng là lập luận đời thƣờng
Nhắc đến lập luận, người ta thường hay nghĩ ngay đến lập luận trong logic
bởi tam đoạn luận logic có kết luận là hệ quả tất yếu của đại tiền đề, tiểu tiền đề và
của thao tác suy diễn. Nếu đại tiền đề đúng, tiểu tiền đề đúng và thao tác suy diễn
đúng thì kết luận tất yếu phải đúng. Tính đúng sai của nó do tính đúng sai của các
tiền đề quyết định. Một kết luận logic chỉ có hai khả năng hoặc đúng, hoặc sai.
Nếu kết luận logic đã đúng thì khơng thể lập luận để chứng minh rằng nó sai được,
và ngược lại. Trong logic khơng có phản lập luận. Ví dụ :
Người nào đen thì xấu
Lan đen

nên Lan xấu
Tuy nhiên, ở tam đoạn luận đời thường, bởi đại tiền đề khơng phải là một
chân lí khoa học, khách quan mà là những lẽ thường, những kinh nghiệm sống
được đúc kết dưới dạng ngun lí, cho nên chúng khơng tất yếu đúng. Vì lẽ
thường này có thể trái ngược với lẽ thường kia nên lập luận đời thường có phản
lập luận. Vì vậy mà có người thì kết luận Lan xấu, nhưng người khác lại bảo Lan
khơng xấu (có dun), nhưng lập luận nào xem chừng cũng nhận được sự đồng
tình nhất định của người nghe.
Có thể thấy, lập luận trong logic ln rạch rịi, dứt khốt. Một lập luận hướng
đến một kết luận là sai thì khơng thể đồng thời hướng đến kết luận đúng. Nói khác
đi, lập luận logic không bao giờ chấp nhận sự mâu thuẫn. Tuy nhiên trong lập luận
đời thường, đôi khi lập luận mà kết luận của nó có vẻ phi logic vẫn được chấp
nhận. Chẳng hạn lập luận sau đây:
SP1: - Bạn còn tiền xài không mà không ăn sáng?
SP2: - Hết rồi, chỉ còn năm mươi ngàn
Trong lập luận logic, các luận cứ và kết luận phải được diễn đạt bằng mệnh
đề trần thuyết. Do vậy chỉ phát ngôn của hành động ngôn ngữ loại tái hiện (trần
thuật – miêu tả) là được sử dụng. Cịn trong lập luận đời thường, ngồi phát ngôn
trần thuyết, các phát ngôn phi miêu tả (như hỏi, than, thúc giục, yêu cầu,…) cũng
được sử dụng.
Ví dụ:
- Hết giờ làm việc rồi, anh ra đi!
- Mới 8 giờ thơi, cần gì phải vội.
- Thuốc lá rất hại cho sức khỏe, con nên cai đi!

11


1.1.2.3.2. Lập luận trong ngữ dụng là một hành động tại lời
Theo Ducrot, lập luận là một hành động tại lời bởi các lý do sau đây:

Lập luận cũng làm thay đổi tư cách pháp nhân của người nói và người nghe,
bởi vì khi đưa ra một lập luận, người nói phải tin vào điều mình nói, phải chịu
trách nhiệm về các luận cứ và kết luận mà mình đưa ra; cịn người nghe đang ở
trạng thái vơ can cũng chuyển sang trạng thái chờ đợi lập luận.
Lập luận cũng có mục đích của nó. Ít khi người ta đưa ra một lí lẽ, một luận
cứ vơ mục đích. Nói ra một phát ngôn hoặc một chuỗi phát ngôn, bao giờ người ta
cũng hướng đến một kết luận, một hành động tại lời.
Lập luận cũng là một hành động có quy ước. Theo J. Moeschler, tính quy
ước biểu hiện ở các tác tử, các kết tử lập luận và ở chính các nội dung miêu tả.
Lập luận cũng có những thể chế như các hành động tại lời khác. Tính thể chế
thể hiện ở việc tuân theo các lẽ thường của lập luận.
Tóm lại, lập luận trong ngữ dụng có những điểm giống, đồng thời cũng có
những điểm khác với lập luận trong logic; lập luận trong ngữ dụng là lập luận đời
thường. Vì là lập luận đời thường nên nó uyển chuyển, đa dạng hơn lập luận trong
logic. Chính vì vậy nó đã đi sâu vào đời sống, được mọi người sử dụng hàng ngày
trong mọi hình thức giao tiếp.
1.1.2.4. Quan hệ lập luận và hiệu lực của lập luận
Trước khi chỉ ra hiệu lực của lập luận, cần điểm qua các kiểu quan hệ giữa
các thành tố trong lập luận. Trong lập luận, giữa các luận cứ với nhau, giữa các
luận cứ và kết luận, giữa hai hay nhiều lập luận với nhau trong một diễn ngôn hay
một phát ngơn có quan hệ chặt chẽ. Quan hệ này biểu hiện ở hai khả năng:
Thứ nhất là quan hệ đồng hướng, quan hệ này xảy ra khi p và q đều cùng
hướng tới một kết luận chung. Nếu pr (luận cứ p hướng tới r), và qr (luận cứ
q hướng tới r) thì ta có p và q là hai luận cứ đồng hướng lập luận, ví dụ:
p: Chiếc xe này ít hao xăng
q: Chiếc xe này mới chạy được 9000km
r: Nên mua
Ta nói p, q, r có quan hệ đồng hướng vì đều hướng đến kết luận nên mua.
Thứ hai là quan hệ nghịch hướng, quan hệ này xảy ra khi p hướng tới r, còn q
hướng tới – r, trong đó r và – r phải thuộc cùng phạm trù, nói cách khác, - r là phủ

định của r. Nếu pr (luận cứ p hướng tới r), và q -r (luận cứ q hướng tới kết
luận trái ngược với r), ta có p và q là hai luận cứ nghịch hướng lập luận. Ví dụ:

12


p: Chiếc xe này rẻ  r mua đi
q: Chiếc xe này quá cũ  - r đừng mua nó
Trong quan hệ đồng hướng và nghịch hướng, các luận cứ có thể quan hệ với
nhau theo hai dạng: tương hợp và không tương hợp. Quan hệ tương hợp khi chúng
thuộc cùng một phạm trù. Quan hệ không tương hợp khi chúng khác phạm trù.
Trong ví dụ trên (p: Chiếc xe này ít hao xăng ; q: Chiếc xe này mới chạy được
9000km), p, q có quan hệ tương hợp vì chúng đều nói về thuộc tính của xe. Cịn ví
dụ sau đây:
p: Chiếc xe này rẻ
q: Anh vừa nhận được tiền nhuận bút
p, q có quan hệ khác phạm trù vì chúng độc lập với nhau: p hướng đến thuộc tính
của xe, cịn q hướng đến chủ thể mua xe.
Tóm lại, có thể rút ra nhận xét về hiệu lực của lập luận như sau: ở các hướng
lập luận khác nhau, các luận cứ có thể có hiệu lực lập luận khác nhau, tức là p, q
có sức mạnh khác nhau đối với kết luận. Thông thường, hướng của kết luận được
quyết định bởi luận cứ nằm gần nó nhất và luận cứ có hiệu quả lập luận mạnh hơn
được đặt sau luận cứ có hiệu quả lập luận yếu hơn. [3, 178]
Từ hai tiền đề đã phân tích trên, ta có thể rút ra tiểu kết về lập luận: Khi lập
luận, ta có thể chọn lựa nhiều luận cứ có quan hệ khác nhau. Trong một lập luận,
có thể có lí lẽ đồng hướng và nghịch hướng, cùng phạm trù và khác phạm trù. Tuy
nhiên cần nhớ rằng các luận cứ khác nhau có lập luận hiệu lực khác nhau; do đó
phải biết cách lựa chọn và sắp xếp các luận cứ một cách hợp lí. Hiệu lực của lập
luận được quyết định bởi lí lẽ nằm gần nó nhất, cho nên trong những lập luận
nghịch hướng, luận cứ nào có hiệu lực càng mạnh thì nên đặt càng gần với kết

luận.
1.1.2.5. Các phƣơng tiện định hƣớng ngôn ngữ lập luận.
1.1.2.5.1. Tác tử lập luận
Trong phát ngơn, ngồi các từ miêu tả cịn có các từ phi miêu tả (các phụ từ,
các tình thái từ). Những từ này được người nói, người viết dùng để chuẩn bị cho
một kết luận được hướng tới. Các từ đó được gọi là tác tử lập luận. Hay nói khác
đi, “tác tử lập luận là những yếu tố tác động vào một phát ngôn sẽ tạo ra một định
hướng, nghĩa làm thay đổi tiềm năng lập luận của phát ngôn.” [4, 176]
Một số tác tử lập luận thường được sử dụng như: chỉ, những, là ít, là nhiều,
lận, hà…Ví dụ:

13


Chỉ có ba nghìn trong túi thơi. (1)
Có những ba nghìn trong túi ( kia). (2)
Mớ tiền ba chục nghìn là ít. (3)
Mớ tiền ba chục nghìn là nhiều. (4)
Chỉ hướng đến kết luận đánh giá ít, những hướng đến kết luận đánh giá
nhiều; là ít, là nhiều lại đánh dấu những luận cứ đối nghịch về hướng lập luận, cụ
thể là nhiều hướng tới kết luận: ít, nhẹ; cịn là ít hướng tới kết luận: nhiều, nặng.
1.1.2.5.2. Kết tử lập luận
Kết tử là những yếu tố dùng để nối kết các thành phần luận cứ và kết luận
trong lập luận. Nhờ các kết tử lập luận mà quan hệ lập luận giữa các thành phần
trong lập luận chặt chẽ hơn. Ví dụ:
(1) Trời đẹp, tơi đi chơi
(2) Vì trời đẹp nên tơi đi chơi
Các kết tử vì, nên nối luận cứ với kết luận và làm cho quan hệ lập luận trong
ví dụ (2) chặt chẽ hơn so với ví dụ (1).
*Kết tử đánh dấu luận cứ và kết tử đánh dấu kết luận

Căn cứ vào vị trí của các kết tử trong lập luận trong lập luận mà có các kết tử
đánh dấu luận cứ và các kết tử đánh dấu kết luận.
Các kết tử đánh dấu luận cứ như: vì, bởi, hơn nữa, bên cạnh đó,...
Các kết tử đánh dấu kết luận như: nên, vậy, thế nên, do đó,...
*Kết tử hai vị trí và kết luận ba vị trí
Căn cứ vào số lượng tối thiểu các luận cứ phải có trong lập luận khi sử dụng
kết tử lập luận mà các kết tử được chia thành kết tử hai vị trí và kết tử ba vị trí.
Kết tử hai vị trí là những kết tử lập luận địi hỏi tối thiểu phải có một luận cứ
và kết luận để tạo thành lập luận.
Kết tử ba vị trí là những kết tử lập luận đòi hỏi tối thiểu phái có hai luận cứ
và kết luận để tạo thành lập luận.
1.1.2.6. Cơ sở của lập luận – lẽ thƣờng
Để kết nối các lí lẽ và kết luận với nhau, người ta phải dựa vào các lẽ thường.
Nếu tác tử, kết tử là những phương tiện ngơn ngữ có tác dụng định hướng và nối
kết các thành tố lập luận, thì lẽ thường chính là cơ sở của lập luận. Trong lập luận
đời thường, lẽ thường chính là các nguyên lí, những chân lí thơng thường có tính
chất kinh nghiệm, khơng có tính tất yếu, bắt buộc như các tiền đề logic, được con
người sử dụng để xây dựng những lập luận riêng.

14


Dù có những lẽ thường phổ qt chung cho tồn nhân loại, ví dụ: “Càng ít
thời gian thì càng khẩn trương hơn”; “Càng học hành nhiều thì càng có cơ hội thi
đỗ”…Có những lẽ thường chung cho một số dân tộc có cùng nền văn hóa nào đó,
ví dụ: “Con hư tại mẹ, cháu hư tại bà”;“Tôn sư trọng đạo”…, hay có những lẽ
thưởng riêng cho từng quốc gia, dân tộc, thậm chí cho một địa phương, một tập
thể nào đó, ví dụ: “Số 9 là số tốt”, “ xuất hành kị ngày mùng 5”,… nhưng vẫn có
thể nói đặc điểm chung của lẽ thường là tính khái quát. Nhờ có tính khái qt mà
lẽ thường trở thành cơ sở để xây dựng những lập luận cụ thể và những lập luận ấy

có thể được mọi người (hay nhiều người) trong cộng đồng đó chấp nhận.
Nói chung, “tất cả các phát ngôn của chúng ta đều bị câu thúc bởi một hoặc
những lẽ thường nào đó. Lẽ thường là những câu thúc xã hội vơ hình, có khi vơ
thức nhưng quy định chặt chẽ lời nói và cách xử sự của con người trong cuộc sống
xã hội.” [3, 198]. Tuy nhiên có bao nhiêu lẽ thường là điều khơng thể tính tốn,
thống kê hết được. Có thể nói có vơ số lẽ thường với mn hình mn vẻ về nội
dung phản ánh. Tục ngữ là kho tàng những lẽ thường của các dân tộc trên thế giới
đã được cố định hóa bằng những hình thức ngơn từ, ví dụ như: “Tốt gỗ hơn tốt
nước sơn”, “một giọt máu đào hơn ao nước lã”, “bán anh em xa mua láng giềng
gần”, “không thầy đố mầy làm nên”, “học thầy không tầy học bạn,… Ngồi ra,
cịn có những lẽ thường chưa được định hình bằng ngơn từ nhưng vẫn có tác dụng
chi phối lập luận của chúng ta, chẳng hạn như: “đồ cổ là đồ quý”, “hàng ngoại là
hàng tốt”, “đi học nước ngoài là giỏi”,…
Nghiên cứu các lẽ thường giúp ta có thể phát hiện chiều sâu văn hóa của dân
tộc, quan niệm đạo đức của xã hội ở từng thời đại khác nhau - những cái có tác
dụng chi phối rất lớn đối với việc xây dựng lập luận và lĩnh hội lập luận của con
người.
1.2. Khái quát về tác giả Lƣu Quang Vũ và kịch bản “Tôi và chúng ta”
1.2.1. Khái quát về tác giả Lƣu Quang Vũ
Nền văn học thời kì kháng chiến chống Mỹ đã ươm mầm nên một tài năng
xuất chúng mang tên Lưu Quang Vũ. Nếu Nguyễn Tn, Tơ Hồi làm đẹp chữ
quốc ngữ trong lĩnh vực truyện ngắn thì Lưu Quang Vũ cịn làm đẹp chữ quốc ngữ
hơn trong thơ và kịch.
Lưu Quang Vũ (1948 – 1988), quê gốc ở Đà Nẵng, sinh tại Phú Thọ trong
một gia đình tri thức, cha là nhà viết kịch Lưu Quang Thuận nên thiên hướng và
năng khiếu dành cho bộ mơn nghệ thuật kịch nói của ơng được bộc lộ từ nhỏ. Từ
năm 1965 đến năm 1970, ông vào bộ đội, phục vụ trong quân chủng Phòng không

15



– không quân. Từ năm 1970 đến năm 1978 ông xuất ngũ và làm đủ mọi nghề để
mưu sinh như làm hợp đồng cho Nhà xuất bản Giải phóng, chấm cơng trong một
đội cầu đường, vẽ pa-nơ, áp phích,... Chính những trải nghiệm thực tế đó đã cho
Lưu Quang Vũ những cái nhìn và chiêm nghiệm sâu sắc về cuộc sống, từ đó đúc
kết và viết lên những tác phẩm kết tinh từ những giá trị mà ông đã khám phá được.
Từ năm 1978 đến năm 1988, ông là biên tập viên tạp chí Sân khấu và bắt đầu sáng
tác kịch nói. Vở kịch đầu tay “Sống mãi tuổi 17” - viết lại theo kịch bản của Đào
Duy Kỳ đã đặt dấu mốc khởi đầu cho một tài năng sáng tác để nối tiếp sau đó, Lưu
Quang Vũ lại tiếp tục thành công vang dội với những vở kịch gây chấn động dư
luận như: “Lời nói dối cuối cùng”, “Nàng Xi-ta”, “Chết cho điều chưa có”, “Nếu
anh khơng đốt lửa”, “Lời thề thứ 9”, “Khoảnh khắc và vô tận”, “Bệnh sĩ”, “Tôi
và chúng ta”,... Với những thành tựu đã đạt được nhờ nguồn lực sáng tác mạnh
mẽ, Lưu Quang Vũ không chỉ trở thành một hiện tượng đặc biệt của sân khấu kịch
trường những năm 80 của thế kỉ XX mà còn được coi là một trong những nhà soạn
kịch tài năng nhất của nền văn học nghệ thuật Việt Nam hiện đại. Ông qua đời
giữa lúc tài năng đang độ chín nhất, ngày 29 – 8 - 1988, trong một tai nạn ô tô trên
quốc lộ 5 cùng với người bạn đời là nhà thơ Xuân Quỳnh và con trai Lưu Quỳnh
Thơ.
Trước khi đến với thể loại kịch nói, Lưu Quang Vũ từng làm thơ, sáng tác
truyện ngắn, vẽ tranh. Thơ của Lưu Quang Vũ không sắc sảo và dữ dội như kịch
nhưng giàu cảm xúc, trăn trở, khát khao. Rất nhiều bài thơ của ông được bạn đọc
yêu thích như: “Và anh tồn tại”, “Tiếng Việt”, “Vườn trong phố”, “Bầy ong trong
đêm sâu”,... Ơng cịn là tác giả của một số truyện ngắn mang đậm phong cách
riêng. Tác phẩm chính: “Hương cây” (thơ, 1968 – in chung trong tập “Hương cây
- Bếp lửa”), “Mây trắng của đời tôi”(thơ, 1989), “Bầy ông trong đêm sâu” (thơ,
1993) cùng nhiều bài thơ khác chưa in thành tập và một tập tiểu luận: “Diễn viên
và sân khấu” ( tiểu luận, 1979 – in chung). Năm 2000 ơng được tặng Giải thưởng
Hồ Chí Minh về văn học và nghệ thuật.
Lưu Quang Vũ trải qua hai lần kết hôn, lần kết hôn đầu tiên là với nghệ sĩ,

diễn viên Tố Uyên. Diễn viên Tố Uyên là người nổi tiếng qua bộ phim “Con chim
vành khuyên” khi chỉ mới 13 tuổi. Đã có một thời gian, Lưu Quang Vũ và Tố
Uyên cùng sinh hoạt chung trong đội văn nghệ Cung thiếu nhi Hà Nội. Lưu Quang
Vũ đã phải lịng Tố Un từ ngày đó nhưng mối tình của họ chỉ thật sự chớm nở
trong khoảng thời gian Lưu Quang Vũ nhập ngũ từ năm 1965 đến năm 1970. Họ
đã thư từ cho nhau, Lưu Quang Vũ đã yêu Tố Uyên say đắm, vượt qua những gì
nghiêm khắc nhất của luật lệ quân đội, những vần thơ của Lưu Quang Vũ những
năm ấy ln có hình ảnh của Tố Uyên.

16


Có thể thấy tập thơ Hương cây (1968) là tập hợp những bài thơ ông viết bằng
những cảm xúc thăng hoa nhất, đằm thắm nhất dành cho tình yêu đầu đời - Tố
Uyên. Năm 1970, hai người tổ chức lễ cưới nhưng mối tình của họ cũng chỉ kéo
dài đến năm 1972 – khi đứa con vừa mới chập chững bước đi thì tan vỡ. Thời gian
sau đó là khoảng thời gian Lưu Quang Vũ chìm vào đau khổ và bế tắc. Nhưng
những người nghệ sĩ, họ có một may mắn là dù lúc sung sướng hay đau khổ, họ
đều có thể vịn vào câu thơ. Lưu Quang Vũ đã tựa vào thơ như một chỗ dựa những
lúc ấy. Nếu kịch giúp Lưu Quang Vũ giao cảm với đời thì thơ lại là nơi để ông
sống với cảm xúc của chính mình.
Trong đời sống tình cảm của Lưu Quang Vũ, dường như có sự chi phối của
nghệ thuật. Đơi lúc ta không thể phân biệt được liệu Lưu Quang Vũ u người vì
chính con người hay vì nghệ thuật mà yêu luôn cả người. Người yêu sau này của
Lưu Quang Vũ là một nữ họa sĩ. Lưu Quang Vũ đặc biệt say mê hội họa. Ngay từ
khi cịn nhỏ, ơng đã dành cho hội họa một tình cảm lớn nhưng khi bước vào sự
nghiệp nghệ thuật, Lưu Quang Vũ đã chọn văn chương để theo đuổi. Tình yêu do
xa vắng quá lâu ngày với hội họa, Lưu Quang Vũ đã phần nào u cơ gái này vì
điều đó. Theo như Lưu Khánh Thơ – em gái của ông kể lại, ngày đó, trong phịng
Lưu Quang Vũ treo tồn tranh của người ấy. Nhưng dường như những truân

chuyên trên con đường tình cảm của Lưu Quang Vũ vẫn chưa hề dừng lại, mối
tình mà ơng gọi là “ tình u những năm đau xót và hy vọng” cũng khơng kéo dài
lâu. Chỉ khi đến với Xuân Quỳnh, Lưu Quang Vũ mới tìm được hạnh phúc thật sự.
Họ chính là mảnh ghép của nhau, họ sinh ra là dành cho nhau. Lưu Quang Vũ và
Xuân Quỳnh đã từng làm việc cùng nhau, cùng sống gần gũi trong khu nhà 96A
cho văn nghệ sĩ nhưng mãi cho đến khi trái tim mỗi người đều có một vết nứt, họ
mới tìm đến được với nhau. Trong lúc Lưu Quang Vũ đang trong bước khó khăn
nhất, Xuân Quỳnh đã luôn bên cạnh, nhận ra tài năng và vựt dậy tinh thần ông.
Vượt qua bao định kiến, chính sự đồng điệu của tâm hồn đã mang họ đến bên nhau
và suốt cuộc đời sau, họ luôn dành cho nhau sự ảnh hưởng. Chuyện tình Lưu
Quang Vũ – Xuân Quỳnh được giới văn nghệ sĩ rất ngưỡng mộ và khâm phục bởi
họ đã yêu và hơn hết vì yêu mà sẵn sàng làm mọi thứ vì nhau. Vì yêu Lưu Quang
Vũ, Xuân Quỳnh đã vượt lên trên định kiến xã hội lúc ấy để đến với Vũ, làm tất cả
vì sự nghiệp của Vũ.
Với Lưu Quang Vũ, Xn Quỳnh khơng chỉ là người tình, là mẹ của con ơng
mà cịn là người ở bên Lưu Quang Vũ những lúc khổ đau nhất. Có Xuân Quỳnh,
Lưu Quang Vũ phấn chấn và làm được nhiều việc hơn. Hơn hết, mười lăm năm
chung sống bên nhau hạnh phúc, họ đã dành cho nhau những vần thơ đẹp nhất:
“Biết ơn em, em từ miền gió cát

17


Về với anh, bông cúc nhỏ hoa vàng
Anh thành người có ích cũng nhờ em
Anh biết sống vững vàng khơng sợ hãi”
(Và anh tồn tại)
“Chỉ có thuyền mới hiểu
Biển mênh mơng nhường nào
Chỉ có biển mới biết

Thuyền đi đâu, về đâu”
(Thuyền và biển)
Trong sự nghiệp văn chương của mình, Lưu Quang Vũ khởi đầu bằng thơ ca
và dành trọn đến hai mươi năm cuộc đời để làm thơ. Thế nhưng, khi nhắc đến Lưu
Quang Vũ, người ta hay nhắc đến kịch nhiều hơn. Nhưng khơng vì vậy mà chúng
ta cho rằng thơ Lưu Quang Vũ viết không hay hay viết ít, mà chỉ vì ơng đối với
kịch đã q thành công vang dội. Vả lại những năm cuối đời ông chỉ dành cho việc
viết kịch. Nhưng chính thơ ca mới là tình yêu, là lĩnh vực mà Lưu Quang Vũ tâm
đắc. Trong một lần nói chuyện với Trịnh Thanh Sơn, Lưu Quang Vũ bộc bạch:
“Mình bận viết kịch! Kịch mới cứu sống mình... chết đói. Nhưng nói thực, thơ mới
là tình u của tơi. Tơi sẵn sàng đổi cả mười vở kịch lấy một tập thơ, thậm chí lấy
mười bài thơ hay”. Khác với chất thơ hồn nhiên của người bạn đời Xuân Quỳnh,
thơ của Lưu Quang Vũ có phần triết lí và tràn ngập hình ảnh ẩn dụ thế nên thơ của
ông đôi lúc kén người đọc. Làm thơ từ rất sớm, từ khi mới là cậu bé lên năm, Lưu
Quang Vũ đã biết viết thơ để thể hiện lịng u thương, gắn bó với q hương.
Ngay khi mới ra đời, Lưu Quang Vũ đã được rất nhiều bạn trẻ mến mộ và nhận
được sự chú ý của giới phê bình. Nhà phê bình văn học Hồi Thanh với một ánh
nhìn đầy kinh nghiệm cho cây bút trẻ tuổi, ông đã gọi Lưu Quang Vũ là “một cây
bút nhiều triển vọng”, Lê Đình Kỵ thì cho rằng “Thơ Lưu Quang Vũ có một điệu
tâm hồn riêng”. Con đường sáng tác thơ của Lưu Quang Vũ cơ bản có thể chia
thành ba chặng: 1963 – 1971; 1971 – 1973; 1974 – 1988.
Lưu Quang Vũ đặt dấu mốc cho tên tuổi của mình ở chặng đường đầu tiên
với tập thơ Hương cây - Bếp lửa in chung với Bằng Việt năm 1968. Chàng thanh
niên Lưu Quang Vũ cũng như bao nhà thơ ở độ tuổi ấy đều mang một tiếng nói
thiết tha yêu đất nước, là trái tim dễ rung cảm với thiên nhiên, con người:
“Tổ quốc là nơi tỏa bóng yên vui
Nơi nghĩ đến lòng ta yên tĩnh nhất

18



Nhưng nghĩ đến Người lịng tơi rách nát
Xin người đừng trách giận Việt Nam ơi”
(Việt Nam ơi)
“Ta bước đi, thương nhớ những năm nào
Ơi cái phố tuổi thơ, phố nghèo kháng chiến
Hương đất hương cây bồi hồi bao kỷ niệm”
(Phố huyện)
Hơn hết, chặng đường thơ đầu tiên đã ghi dấu những rung động đầu đời,
những đắm say của chàng thi sĩ, chàng lính đa tình:
“Dưa hấu bổ ra thơm suốt ngày dài
Em cũng mát lành như trái cây mùa hạ
Nước da nâu và nụ cười bỡ ngỡ
Em như cầu vồng bảy sắc hiện sau mưa.”
(Vườn trong phố)
Chặng đường thứ hai (1971 – 1973) là giai đoạn chứng kiến nhiều đổi thay
của Lưu Quang Vũ. Cái “tôi” của thời gian này là cái “tôi” thế sự đời tư. Những va
vấp trong cuộc đời sau khi rời quân ngũ và đổ vỡ trong hơn nhân đã khiến Lưu
Quang Vũ có những hoang mang, hồi nghi và bế tắc:
“Có những lúc tâm hồn tôi rách nát
Như chiếc lá khô, như chồng gạch vụn
Một tấm gương chẳng biết soi gì
Một đáy giếng cạn khơ, một hốc mắt đen”
(Có những lúc)
Chặng đường thứ ba (1974 – 1988) đánh dấu bước trưởng thành của Lưu
Quang Vũ, khơng cịn là những mộng mơ của chàng thanh niên hai mươi tuổi cũng
khơng cịn là cái tơi hoang mang, bế tắc. Lưu Quang Vũ ở chặng này đã tìm được
con đường cho mình, trong sự nghiệp lẫn tình yêu. Và có lẽ tình u chính là
nguồn sức mạnh to lớn mới có thể vựt dậy sức mạnh cho con người đương trong
bóng tối. Nổi bật trong giai đoạn nay chính là những bài thơ tình Lưu Quang Vũ

viết cho người bạn đời của mình - nữ thi sĩ Xuân Quỳnh:
“Anh vẫn dựng ngơi nhà theo quy luật của tình yêu

19


Chẳng cần những lâu đài lạnh giá
Chỉ tin nơi nào có em đến ở
Chỉ sống bằng hơi thở của em thơi”
(Mắt của trời xanh)
Bên cạnh đó, cảm xúc sáng tác của thi sĩ cũng được khơi nguồn từ lịch sử,
văn hóa dân tộc. Tác giả hướng về nhân dân, ca ngợi khơng chỉ lịng u nước mà
cịn ở tính cách mạnh mẽ của họ trong thời hậu chiến. Tìm về với giá trị văn hóa,
Lưu Quang Vũ cảm nhận về tiếng Việt trong tâm hồn, trong cốt cách Việt Nam:
“Chưa chữ viết đã vẹn trịn tiếng nói
Vầng trăng cao đêm cá lặn sao mờ
Ôi tiếng Việt như đất cày, như lụa
Ĩng tre ngà và mềm mại như tơ”
(Tiếng Việt)
Tóm lại, chặng đường thơ của Lưu Quang Vũ gắn liền với cuộc đời của
ông, mỗi giai đoạn là mỗi cái “tôi" khác nhau. Tầm vóc trong thơ ca của Lưu
Quang Vũ là không thể nào phủ nhận được. Từ khi bắt đầu sự nghiệp văn chương
đến khi li biệt cuộc đời, dẫu những năm cuối là khoảng thời gian dành cho kịch
nhưng ta cũng không thể nào khiên cưỡng phủ nhận thơ của Lưu Quang Vũ lúc
nào cũng tỏa sáng trên văn đàn.
Thật sự chưa có ai tài năng như Lưu Quang Vũ, khơng những viết kịch,
làm thơ ơng cịn viết truyện ngắn. Truyện Lưu Quang Vũ viết về đời sống xung
quanh, những phút giây thống qua, những con người bình dị thường nhẹ nhàng,
không dữ dội, ông viết một cách giản dị, điềm đạm. Đến với truyện ngắn, Lưu
Quang Vũ cũng đã khẳng định được phong cách riêng cho mình với hơn ba mươi

truyện ngắn: “Thị trấn ven sống”, “Anh Thình”, “Anh Y”, “Mùa hè đang đến”,
“Một chuyện sớm mùa thu”,...Sau này dù đã trở thành nhà viết kịch nổi tiếng, Lưu
Quang Vũ đã có lần nói: “Mình vẫn mê thơ lắm. Mê cả truyện ngắn. Có thể lúc
nào đó mình sẽ trở lại với thơ, với truyện ngắn”.
Trong bốn mươi năm cuộc đời của mình, Lưu Quang Vũ gần như dành trọn
tám năm cuối đời cho bộ môn kịch nói và cũng chính bộ mơn này đã đưa tên tuổi
Lưu Quang Vũ trở thành nhà viết kịch Việt Nam vĩ đại nhất mà đến giờ vẫn chưa
một ai có thể thay thế được. Ít ai biết được rằng những vở kịch từ nhỏ đến lớn, từ
chưa công diễn đến được dàn dựng và công diễn rộng rãi trong nước và thế giới lại
được sáng tác ở một nơi – trong một điều kiện vơ cùng khó khăn. Đó là căn nhà

20


96A Phố Huế, Hà Nội, nơi Lưu Quang Vũ cho ra đời gần 50 vở kịch trên một
chiếc bàn nhỏ chỉ kê đủ một quyển sổ, căn phòng chỉ rộng sáu mét vuông, mùa
đông cũng như mùa hè. Những năm tám mươi của thế kỉ XX, kịch của Lưu Quang
Vũ ngự trị khắp nơi trên sân khấu cả nước. Vở kịch đầu tay “Sống mãi tuổi 17” viết lại theo kịch bản của Đào Duy Kỳ năm 1979. Kịch tái hiện tao đoạn hoạt động
Cách mạng quan trọng trong cuộc đời Lý Tự Trọng, khoảng thời gian anh sống
cùng những người dân nghèo, phu bến cảng, bán hàng rong, những người vì cuộc
sống mà tha hóa trở thành gái điếm, giang hồ... Dẫu chưa gây được tiếng vang
nhưng “Sống mãi tuổi 17” cũng đem đến cho Lưu Quang Vũ Huy chương vàng
trong Hội diễn sân khấu năm 1985. Với bước đà của vở kịch đầu tiên, Lưu Quang
Vũ tiếp tục bùng nổ khi cho ra đời những vở kịch gây chấn động dư luận, phản
ánh đời sống và tâm lí con người trong chế độ đương thời. Điều đó đã được thể
hiện mạnh mẽ trong những dịng thơ của ơng: “Thế hệ mình cần những người
dũng cảm – Dũng cảm yêu thương dũng cảm căm thù” hay “Nịnh đời dễ, chửi đời
cũng dễ - Chỉ xây đời là khó khăn thơi”. Chính những năm tháng lăn lộn, kiếm
sống, va chạm ngoài đời đã cho Lưu Quang Vũ những trải nghiệm thực tế nhất.
Tâm hồn dễ dàng rung cảm giúp ông nhận ra những mâu thuẫn nội tại và ngọn lửa

đấu tranh đòi cải cách đang cháy âm ĩ trong lòng từng người, cần một ai đó tiên
phong lên tiếng. Và Lưu Quang Vũ đã trở thành một người như thế, thậm chí cịn
là một người tiên phong sắc sảo khi dùng kịch để diễn tả những xung đột trong đời
sống xã hội. Thơ ca, văn xi cũng có thể hàm chứa những tư tưởng ấy nhưng hơn
hết, kịch mới là thứ vũ khí trực tiếp đi vào lịng người, kết nối họ với nhau bằng
những luồng tư tưởng chung. Ngôn ngữ một khi được cất lên thành tiếng và đặt
vào bối cảnh nhất định trên sân khấu thì lúc nào cũng dễ dàng đi vào tiềm thức con
người nhất.
Lưu Quang Vũ được mệnh danh là người “nhìn đâu cũng ra kịch”. Đó có thể
là những câu chuyện đời thường mà ông tình cờ nghe được hay một phần do tác
giả tự tưởng tượng thêm. Hơn hết, Lưu Quang Vũ có biệt tài phát hiện cái đẹp
trong cái bình dị nhất. Các nhân vật trong kịch của ông luôn mang một vẻ đẹp, dù
đó có thể là nhân vật thủ vai ác đi chăng nữa thì Lưu Quang Vũ vẫn cho họ cơ hội
để họ có thể cho khán giả nhìn thấy tâm hồn thật sự của mình. Đến với kịch Lưu
Quang Vũ, người tốt chưa hẳn tốt mà người xấu chưa hẳn đã xấu. Đối với Lưu
Quang Vũ, tinh thần nhân ái, tình yêu con người mãi mãi là “nguồn sáng trong
đời”. Những vở kịch “Người trong cõi nhớ”, “Người tốt nhà số 5”, “Nguồn sáng
trong đời”,... có thể gọi là những vở kịch kết tinh lòng nhân ái và tài năng nhìn đời
của Lưu Quang Vũ.

21


Cảm hứng sáng tác kịch của Lưu Quang Vũ chủ yếu được khơi nguồn từ ba
hướng chính. Cốt truyện được xây dựng dựa trên các phương tiện thông tin truyền
thông đại chúng, tin tức thời sự, một sự việc bất chợt xảy ra trong đời sống hay
một vụ án mới bị phanh phui... Đấy là lúc tài năng Lưu Quang Vũ được bộc lộ rõ
nhất, những hiểu biết về nghệ thuật kịch nói đã cho ơng những kiến thức nhất định
về cách thức tổ chức, sắp xếp cốt truyện, cách làm thế nào để cốt truyện được
mạch lạc, ý vẫn được truyền tải mà không hề sáo rỗng. Đến đây, cái nơi nghệ thuật

mới được chứng tỏ khi hễ có sự việc gì xảy ra, Lưu Quang Vũ sẽ lập tức hình
thành cấu tứ và trật tự các lớp vở kịch. Vả chăng chỉ có tài năng như thế, Lưu
Quang Vũ mới có thể đáp ứng kịp nhu cầu của các đồn nghệ thuật từ Nam chí
Bắc. Có những người sẵn sàng đứng ngồi cửa hàng giờ thậm chí chấp nhận mang
tiếng “dầm dề” để có được kịch bản của Lưu Quang Vũ. Những vở kịch “Tôi và
chúng ta”, “Chết cho điều chưa có”, “Vụ án 2000 ngày”, “Lời thề thứ chín”,
“Nguồn sáng trong đời”,... là những vở kịch được dựng lên từ những sự kiện nóng
bỏng trong xã hội. Thế nên kịch của Lưu Quang Vũ mang tính thời đại sâu sắc.
Ngoài ra, một bộ phận kịch của Lưu Quang Vũ được viết dựa vào cốt truyện
dân gian và văn học. Đó là những thể loại văn học dân gian đã đi vào thời gian,
thách thức thời gian của dân tộc như “tích, trị” cổ, cổ tích và huyền thoại. Từ
những cái đã cũ, Lưu Quang Vũ sáng tạo, tạo ra những cái mới. Những vở kịch có
thể là những nhân vật cũ nhưng lại mang một hơi thở mới, những người ngày
trước lại mang một nỗi buồn của thời đại ngày nay. Những vở kịch như “Hồn
Trương Ba da hàng thịt”, “Ơng vua hóa hổ”, “Linh hồn của đá”, “Lời nói dối
cuối cùng”,...là những vở kịch dẫu mượn cốt truyện dân gian có sẵn nhưng khơng
vì thế mà lu mờ đi tài năng của Lưu Quang Vũ bởi mỗi vở là một khám phá mới
của ông. Ở “Hồn Trương Ba da hàng thịt”, ta thấy được bi kịch của con người
khơng được sống là chính mình. Nếu cốt truyện dân gian hoàn toàn chấp nhận việc
hồn Trương Ba trong xác hàng thịt, hồn vẫn an nhiên, vui sống bên gia đình thì vở
kịch của Lưu Quang Vũ lại khai thác theo một hướng mới. Trong một thân xác lạ
lẫm khơng phải của mình, Trương Ba rơi vào bi kịch, giằng xé nội tâm khi con
người thanh cao không thể chấp nhận cái tầm thường làm mất đi giá trị. Trong
hồn cảnh như thế địi hỏi con người phải ln đấu tranh để tự hồn thiện mình, đó
cũng là lời cảnh tỉnh của Lưu Quang Vũ với thời đại. Ngoài ra, vở kịch cũng phải
ánh thực trạng của xã hội với “máu” con buôn thực dụng của anh con cả, tay lí
trưởng với những thủ đoạn ăn tiền trắng trợn, là thái độ làm việc quan liêu, tắc
trách của Nam Tào, Bắc Đẩu. Hay “Lời nói dối cuối cùng” với thành công trong
việc xây dựng nhân vật Cuội. Vở kịch mới nghe vào đã thấy sự thu hút bởi “nói
dối như Cuội” mà cũng có lời nói dối cuối cùng. “Lời nói dối cuối cùng” mang

một thơng điệp vẫn cịn ngun vẹn tính thời sự cho đến ngày nay: Sự trung thực

22


hay lòng tốt của con người phải được xây dựng trên cơ sở của chữ "Chân", chứ
không thể dùng sự xảo biện, dối trá để đạt được những mục đích tốt đẹp... Đối với
những vở kịch được lấy ý tưởng và viết lại dựa trên tác phẩm của tác giả khác như
“Sống mãi tuổi 17”, “Hoa cúc xanh trên đầm lầy”,... Lưu Quang Vũ cũng để lại
ấn tượng lớn trong lòng người. Từ ý nghĩa đã được đưa vào tác phẩm của tác giả
trước, Lưu Quang Vũ lại cho thêm vào gia vị mới. Đó là những triết lí hịa trộn
trong chất thơ! Trong những vở kịch của Lưu Quang Vũ đôi lúc ta nhận ra chất thơ
từ trong bối cảnh đến lời thoại của nhân vật. Đối với ông “thơ và kịch rất gần
nhau, đó là hai thể loại lớn của văn học, là cuộc sống và thế giới tinh thần của
con người được biểu hiện ở dạng tinh chất nhất, mạnh mẽ nhất, tuy ngôn ngữ nghệ
thuật của chúng có những điểm khác biệt”.
Bên cạnh hai nguồn cảm hứng liệt kê ở trên phải kể đến một số lượng lớn tác
phẩm được sáng tác dựa hoàn toàn vào tài năng và trải nghiệm sống của bản thân
ơng. Đó là những câu chuyện thu nhặt được trong quá trình bôn ba khắp nơi của
Lưu Quang Vũ sau khi xuất ngũ hay những xung đột trong sự sống hằng ngày,
giữa người với người và giữa người với chính họ. Đó là những lần đâu tranh nội
tâm của nhân vật Hưng trong vở kịch “Bệnh sĩ”, những toan tính tồn tại trong gia
đình trong “Ơng khơng phải là bố tơi”, cuộc đấu tranh của những con người trẻ
tuổi xã hội lạc hậu trong “Tôi và chúng ta”.
1.2.2. Khái quát về kịch bản “Tôi và chúng ta”
“Tôi và chúng ta” được sáng tác vào năm 1984 khi đất nước đang lâm vào
tình trạng khủng hoảng, suy thoái về kinh tế, xã hội ngày càng bất ổn rất cần một
sự thay đổi trong tư tưởng và hành động. Mâu thuẫn cơ bản của vở kịch đó là sự
xung đột giữa hai bên đổi mới và bảo thủ. “Tôi và chúng ta” gồm tất cả IX cảnh.
Nội dung chính của vở kịch phản ánh cuộc đấu tranh gay gắt để thay đổi phương

thức tổ chức, lề lối hoạt động sản xuất ở xí nghiệp Thắng Lợi, giữa hai lực
lượng: bảo thủ và đổi mới.
Phe bảo thủ, mà đại diện là các nhân vật Nguyễn Chính (phó giám
đốc), Trương (quản đốc phân xưởng) cùng sự hỗ trợ của Trần Khắc (đại diện Ban
thanh tra của Bộ) với tư tưởng hết sức bảo thủ, khư khư giữ lấy các nguyên tắc,
quy chế đã thành cứng đờ, lạc hậu, kiên quyết không chấp nhận đổi mới.
Phe đổi mới, mà đại diện là Hồng Việt (giám đốc xí nghiệp), Thanh (kíp
trưởng phân xưởng 1), Lê Sơn (kỹ sư) cùng đại đa số anh chị em công nhân với
tinh thần dám nghĩ dám làm, phá bỏ các quy định giáo điều, lạc hậu, khao khát đổi
mới để đem lại quyền lợi, hạnh phúc cho mọi người. Nhân vật tiểu biểu của vở
kịch là Hoàng Việt - đại diện cho tư tưởng đổi mới. Đi phần đầu đến cuối vở kịch,

23


Hoàng Việt hiện lên với toàn bộ vẻ đẹp, người mà tính cách đã thể hiện qua lời
nói, rất thẳng thắn và dũng cảm. Hoàng Việt là giám đốc mới của Thắng Lợi, một
xí nghiệp mang cái tên hồn tồn trái ngược với tình trạng hoạt động của nó. Xí
nghiệp ln ln thua lỗ, cơng nhân khơng có việc làm, sống khổ sở với đồng
lương èo ọt, lay lắt thế nhưng nó vẫn sững sững, hiên ngang tồn tại nhờ cơ chế của
chế độ. Hồng Việt dù hãy cịn trẻ tuổi và vừa mới vào làm việc đã nhận ra tất cả,
muốn cải tạo, thay đổi phương thức sản xuất, kinh doanh nhưng lại bị sự phản đối
ghê gớm của lực lượng bảo thủ dùng vỏ ngoài nguyên tắc để chống đối. Dù vậy,
nhân vật Hoàng Việt trước sau vẫn như một, kiên trì bảo vệ lí tưởng, Hồng Việt
mạnh dạn bày tỏ khát vọng: “Tôi căm ghét cái nghèo, cái trì trệ nhưng quan trọng
hơn là tơi rất thương và rất tin các công nhân của tôi. Nhờ họ mà tơi dám làm!”
[15, 76]. Chính dự cảm đổi thay đã cho Lưu Quang Vũ có những lí tưởng tốt đẹp
để ơng truyền tất cả vào nhân vật Hồng Việt. Khi chế độ vẫn chưa được cải cách
thì Lưu Quang Vũ đã cho nhân vật của mình thẳng thắn: “Xây dựng chủ nghĩa xã
hội là gì các đồng chí biết không ? Là đi từ thế giới của cái Tôi sang thế giới của

chúng ta. Khơng cịn “tiền của tơi”, “của cải của tôi”, “quyền lợi của riêng tôi",
mà là quyền lợi của chúng ta, của cải của chúng ta, hạnh phúc của chúng ta ? Và
cái Chúng ta ấy phải được làm bằng khả năng, phẩm cách và quyền lực của từng
cái Tôi cụ thể".[15, 30]. Với những tư tưởng cao đẹp ấy của mình, Hồng Việt
quyết định củng cố lại xí nghiệp, thực thi cách làm ăn mới, kiên quyết khơng theo
những ngun tắc đã kìm hãm xí nghiệp đi lên. Thế nhưng những đề xuất của
Hoàng Việt lúc nào cũng vấp phải sự phản đối của những con người bảo thủ đang
cùng làm việc trong xí nghiệp với vơ số những lí do: muốn mở rộng quy mơ sản
xuất thì cần phải thêm nhiều cơng nhân; khơng được sự cho phép của biên chế
trên; khơng có quỹ lương cho hợp đồng... Nguyễn Chính – người đại diện cho phe
bảo thủ, lúc nào cũng tỏ ra chính trực dựa vào cấp trên, tuân theo nguyên tắc cấp
trên nhằm mục đích duy nhất chống lại những cải cách của Hồng Việt. “Tơi và
chúng ta” vì thế hấp dẫn nhờ vào những mâu thuẫn và cũng nhờ mâu thuẫn mà
người xem ln phân biệt giữa hai tuyến nhân vật. Nói cách khác “Tơi và chúng
ta” chính là sự đối đầu giữa Hoàng Việt, Thanh, Lê Sơn và đại đa số anh em cơng
nhân đối với Nguyễn Chính, Trương và Trần Khắc. Cuối cùng, số đơng vì lí tưởng
cao đẹp cũng giành chiến thắng.
Hồng Việt đánh trúng tâm lí đại bộ phận lao động khi vạch ra khuyết điểm:
“Cái dở lâu nay của chúng ta là: người chăm và kẻ lười được đối xử như nhau,
người tài năng và kẻ đốt nát đều hưởng chung một mức quyền lợi.Thậm chí có
những kẻ khơng làm gì cả chỉ ngồi phấn thơi, lại được vị nể hơn người vất vả cống
hiến. Xã hội chủ nghĩa gì mà lại lạ thế ?” [15, 37]. Muốn đưa xí nghiệp ra khỏi
thua lỗ, trì trệ cần sự kiên trì và dũng cảm, Hồng Việt ln sẵn sàng đối mặt với

24


sự chống đối, “miễn là nó giúp chúng ta làm được thêm nhiều sản phẩm” [15, 38].
Hoàng Việt thực hiện chế độ lương khoán theo sản phẩm nhằm đảm bảo cơng
bằng giữa cống hiến và hưởng thụ, kích thích khả năng lao động sáng tạo. Thế nên

dù đang sống trong cơn bão phản đối, Hoàng Việt vẫn nhận được sự tin tưởng của
đa số công nhân. Như một sự am tường về quy luật cuộc sống và thời đại, anh cho
rằng: “Sự vật không đứng yên, cuộc sống không đứng n một chỗ, có cái hơm qua
đúng, hơm nay nó là vật cản phải tìm cách phá bỏ...” [15, 40]. Khi mà chế độ bao
cấp vẫn đang tồn tại gây ra nhiều hệ lụy, tình trạng quan liêu vẫn tiếp tục hồnh
hành, ngay tại trong xí nghiệp, nhiều cán bộ làm việc theo nguyên tắc “Cấp trên
cao lại dựa vào cấp trên cao hơn nữa, nghĩa là các kế hoạch được đề ra một cách
ngược đời” [15, 35]. Đáng lẽ phải do từ cơ sở đưa lên, dựa trên khả năng cơ sở và
yêu cầu của thị trường... Với sự chuyển động mạnh mẽ của đời sống, Hoàng Việt
được xây dựng như một nhân vật tiên phong mở đường.
Những nhân vật như Lê Sơn, Thanh cũng là một trong những người có cùng
quan điểm và lí tưởng với Hồng Việt. Nhưng khác với Hoàng Việt, Lê Sơn vẫn
chưa đủ dũng cảm, có lí tưởng nhưng khơng dám theo đuổi lí tưởng, có tài nhưng
lại dễ dàng chấp nhận. Điều đó thật dễ thấy khi bao lần Hoàng Việt mời anh giúp
đỡ, anh đã lắc đầu từ chối. Lê Sơn là một kỹ sư có năng lực nhưng chính cơ chế cũ
kĩ đã gị bó, uốn nắn anh thành một người biết nghe lời tuyệt đối. Dù biết Hồng
Việt có khả năng nhưng anh phủ nhận: “Anh sẽ không làm được gì đâu? Ai cho
anh làm? Cái cơ chế này nó là như vậy: mọi người đều có quyền mà hóa ra chẳng
ai có quyền hết!” [15, 19]. Lê Sơn chẳng khác nào dạng người đang rất cần người
tiếp thêm động lực và vạch đường đi thì Hồng Việt lại xuất hiện đúng ngay lúc
ấy. Đi theo Hồng Việt, dù có lần cũng phải thừa nhận “Tôi nhát. Nếu người ta
dọa thiêu tơi trên giàn lửa thì tơi cũng đành phải nói là trái đất này khơng quay”
[15, 41] nhưng Lê Sơn vẫn một mực khẳng định “Tôi sẽ không bỏ chạy đâu” [15,
41]. Bên cạnh đó, nhân vật Thanh là người có vai trị quan trọng trong vở kịch.
Đối với Hồng Việt, Thanh là người góp phần làm sáng rõ thêm lí tưởng của anh.
Hồng Việt có thể có ý tốt, có lập trường cao đẹp nhưng những lí tưởng của anh
cịn thiên về lí thuyết hơn thực tế. Nếu khơng có nhân vật Thanh trong vở kịch,
q trình cải cách của Hồng Việt có thể cịn lâu mới thành công.
Một trong những nhân vật đại điện cho phe bảo thủ - Phó Giám đốc Nguyễn
Chính là người đã từng đánh đổ bốn đời giám đốc, thâm độc đến mức “nếu bắt tay

mình, mình phải xem lại tay có cịn đủ năm ngón khơng ?Từ nay Chính sẽ khơng
can ngăn anh nữa đâu, hắn sẽ để mặc anh dấn sân vào các sự việc rồi hắn mới ra
tay” [15, 40]. Nguyễn Chính là một kẻ ích kỷ, chỉ biếtt nghĩ cho riêng mình và đố
kị với người khác một cách kín đáo. Từ sâu trong bản chất, đây chính là đại biểu

25


×