Tải bản đầy đủ (.pdf) (105 trang)

Locgic học biện chứng tài liệu giảng dạy

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.14 MB, 105 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC AN GIANG
KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ



GIÁO TRÌNH

LOGIC HỌC BIỆN CHỨNG

PGS, TS VÕ VĂN THẮNG


AN GIANG, THÁNG 5 NĂM 2014


Giáo trình “Logic học biện chứng”, do PGS, TS. Võ Văn Thắng,
Hiệu trưởng biên soạn. Tác giả đã báo cáo nội dung và được Hội đồng
Khoa học và Đào tạo Trường ĐH An Giang thông qua ngày 13/5/2014.

Tác giả biên soạn

VÕ VĂN THẮNG

Trưởng đơn vị

Trưởng Bộ môn

Hiệu trưởng

AN GIANG, THÁNG 5 NĂM 2014



-

PGS, TS. VÕ VĂN THẮNG


-

TRƯỜNG ĐẠI HỌC AN GIANG
2014


“Lơ-gích học là một nghệ thuật có đối tượng hay mục tiêu đặt ra là tạo
cho trí tuệ con người một sự ưu việt tối đa trong việc nghiên cứu bất kỳ một
khách thể hay một mục tiêu nào, mà trí tuệ con người có thể được sử dụng để
đạt tới”.
Jeremy Bentham (Nhà triết học người Anh)


CHƢƠNG 1
ĐỐI TƢỢNG VÀ Ý NGHĨA
CỦA LƠ-GÍCH HỌC BIỆN CHỨNG
1.1. ĐỐI TƢỢNG CỦA LƠ-GÍCH HỌC BIỆN CHỨNG
1.1.1.

-

học biện chứng là gì?

Thuật ngữ logique bắt nguồn từ chữ λογος (Logos) trong tiếng Hy Lạp. Từ này

có nhiều nghĩa: từ, tƣ tƣởng, trí tuệ, lời nói, lý lẽ, ý nghĩa, quy luật... Từ logos xuất
hiện đầu tiên trong tác phẩm triết học của Heraclite (khoảng 544 - 483 Tr.CN) với
nghĩa là tính quy luật, tồn tại tất yếu trong tự nhiên1.
Từ thời cổ đại Hy Lạp, con ngƣời đã hình thành một “khoa học về tƣ duy” và
ngƣời ta đã dùng thuật ngữ λογικε (logiké) để chỉ khái niệm này. Thuật ngữ λογικε
trong tiếng La tinh đƣợc viết là logica. Các từ logika dùng ở Nga, Ba Lan; lơ-gích ở
Anh; logique ở Pháp; logik ở Đức đều có nguồn gốc từ logica. Ở Việt Nam, từ lơgích xuất hiện vào thế kỷ XIII, đƣợc dịch từ chữ logique trong tiếng Pháp.
L -

học đã ra đời gắn liền với tên tuổi hiền triết Arixtốt (Aristote, 384 -

322 Tr.CN) của đất nƣớc Hy Lạp. Trong tác phẩm Organon, Arixtốt cho rằng, lơgích học nhƣ là công cụ giúp chúng ta tƣ duy đúng đắn, mạch lạc. Tuy nhiên, ở đây,
Arixtốt có ý nói đến lơ-gích học hình thức, khoa học nghiên cứu về những hình thức
tƣ duy (thuần tuý), bất luận nội dung của tƣ tƣởng (tƣ duy) là gì, từ đó có thể rút ra
những quy tắc mà tƣ duy phải tuân theo để tránh mâu thuẫn, phù hợp với hiện thực
khách quan. Đây cũng là lần đầu tiên trong lịch sử, lơ-gích học hình thức đƣợc xem
nhƣ là một khoa học về tƣ duy. Nhƣng khác với các khoa học khác, lơ-gích học là
khoa học nghiên cứu những quy luật và hình thức của tƣ duy nhằm hƣớng nhận thức
con ngƣời đạt chân lý. Quan niệm này tồn tại suốt 20 thế kỷ, tuy nó đƣợc bổ sung,
nhƣng khơng thay đổi gì lớn. Cho nên, ngƣời ta gọi đây là lơ-gích truyền thống.
Trải qua hơn 20 thế kỷ, lơ-gích học đƣợc bổ sung và phát triển. Đặc biệt là lơgích hiện đại trở thành khoa học chính xác, nó phát triển theo nhiều hƣớng và đƣợc
ứng dụng trong nhiều lĩnh vực khác nhau: tốn học, ngơn ngữ học, khoa học máy
. Prof, Ph.d Paul Redding (TS. Lê Tuấn Huy dịch): Thông diễn học của Hegel, Nxb. Tổng hợp
Thành phố Hồ Chí Minh, 2005, tr. 290.
1

1


tính... Có thể nói, lơ-gích tốn phát triển mạnh mẽ và có ảnh hƣởng lớn đến lơ-gích

học hình thức. Tuy vậy, bản thân lý thuyết tốn học, lơ-gích tốn cũng gặp những
mâu thuẫn. Điểm quan trọng của lơ-gích học hình thức là nó xem xét các hình thức
của tƣ duy, tạm bỏ qua sự xuất hiện, biến đổi và phát triển của chúng. Mặt này của tƣ
duy do lơ-gích học biện chứng nghiên cứu. Đây chính là nguồn gốc ra đời của lơgích học biện chứng.
Ph.Hêghen (F.Hégel, 1770 - 1831), nhà triết học vĩ đại ngƣời Đức, là ngƣời
đầu tiên nghiên cứu, mang lại cho lơ-gích học biện chứng tính hệ thống và đƣợc
nghiên cứu một cách toàn diện. Tuy nhiên, từ logos đƣợc ông quan niệm gắn liền với
ý niệm tuyệt đối, lý tính1. Có thể nói, lơ-gích của ông mang tính chất duy tâm.
Ph.Hêghen quan tâm khá đặc biệt lơ-gích học và ơng hiểu nó gần nhƣ siêu hình học.
Ơng cho rằng, tƣ duy phải đi theo lơ-gích nội tại của chính thực tại, nghĩa là, đồng
nhất lý tính với thực tại; lơ-gích và các quan hệ lơ-gích phải đƣợc thể hiện trong cái
hiện thực chứ không phải trong cái suy luận trống rỗng, bởi vì, triết học là sự khám
phá cái có lý, chính vì thế nó là sự thấu triệt cái hiện tại và cái hiện thực, chứ không
phải tạo ra cái siêu việt, giả thiết là tồn tại, mà khơng ai biết nó ở đâu. Cho nên, lơgích học là tiến trình qua đó chúng ta diễn dịch từ các kinh nghiệm của chúng ta về
cái hiện thực những phạm trù mô tả về tuyệt đối. Quá trình này là tâm điểm của triết
học biện chứng của Ph.Hêghen2. C.Mác mơ tả cơng trình vĩ đại nhất của Hêghen là
Hiện tượng luận về trí tuệ nhƣ là “cái nơi thật và bí ẩn của triết lý của Hêghen”. Qua
đó Hêghen cho thấy tất cả những phát triển tri thức cho tới ngày nay chỉ là những nỗ
lực cần thiết của trí tuệ để biết mình. Tuy nhiên lơ-gích của tiến trình này khơng phải
lơ-gích truyền thống của tam đoạn luận (syllogism), nhƣng đúng hơn là lơ-gích biện
chứng pháp của Hêghen, khởi từ một quan điểm có sẵn trong đó chứa đựng các mầm
tự hủy theo hình thức mâu thuẫn nội tại3. Cơng trình Các bài thuyết trình về Triết học
Lịch sử của Ph.Hêghen, nhƣ C.Mác đánh giá, là một trong những đóng góp quan

. Prof, Ph.d Paul Redding (TS. Lê Tuấn Huy dịch): Thông diễn học của Hegel, Sđd, tr. 290.
. Xem Samuel Enoch Stumpf (Đỗ Văn Thuấn và Lƣu Văn Hy biên dịch): Lịch sử triết học và
các luận đề, Nxb. Lao động, Hà Nội, 2004, tr. 268.
3
. Ted Honderich (chủ biên): Hành trình cùng triết học (English - Vietnamese Dictionary of
Phylosophy), Nxb. Văn hóa - Thông tin, Hà Nội, 2002, tr. 462 - 463.

1
2

2


trọng nhất của Ph.Hêghen vào gia sản tri thức, đó là sự hiểu biết về bản chất của tƣ
duy đƣợc điều kiện hóa theo lịch sử của chúng ta1.
Q trình biện chứng của Ph.Hêghen cho thấy, một chuyển động ba giai đoạn
(tam đoạn thức), đƣợc mô tả nhƣ một chuyển động đi từ chính đề (thesis) sang phản
đề (antithesis) và cuối cùng là hợp đề (synthesis). Hợp đề này trở thành chính đề mới
và q trình đó cứ tiếp tục cho đến khi kết thúc ở “Ý niệm tuyệt đối”. Điều
Ph.Hêghen nhấn mạnh trong lơ-gích học biện chứng của ơng là tƣ duy chuyển động
và việc mâu thuẫn không những làm cho nhận thức dừng lại, trái lại còn tác động
nhƣ một động cơ tích cực trong việc suy lý của con ngƣời.
Tam đoạn thức cơ bản đầu tiên của Hêghen là hiện hữu, hƣ vơ và hóa thành.
Ph.Hêghen nói rằng, “trí khơn phải ln ln di chuyển từ cái tổng quát và trừu
tƣợng hơn sang cái chuyên biệt cụ thể”2. Khái niệm tổng quát nhất chúng ta có thể có
về sự vật là tồn tại, tuy chúng có sự khác nhau về phẩm chất và chuyên biệt nhƣng
đều có chung một điều là tồn tại (hiện hữu). Vì vậy, hiện hữu là khái niệm tổng qt
nhất mà trí khơn có thể hình thành. Và do vậy, hiện hữu có trƣớc mọi vật. Nhƣng
theo ông, khái niệm hiện hữu không có nội dung (bao hàm cả hƣ vơ), vì nếu có nội
dung thì nó khơng cịn là hiện hữu thuần túy nữa. Khái niệm hiện hữu thuần túy là sự
trừu tƣợng hóa khơng xác định - tuyệt đối phủ định - có thể diễn dịch thành khái
niệm khác - khơng xác định, nó chuyển qua khái niệm khơng hiện hữu. Nhƣ vậy,
hiện hữu diễn dịch thành không hiện hữu và ngƣợc lại. Và phản đề, không hiện hữu,
đƣợc hàm chứa trong chính đề, hiện hữu. Ơng cho rằng, trong lơ-gích học, phản đề
ln đƣợc diễn dịch từ chính đề. Chuyển động của trí khơn từ hiện hữu sang khơng
hiện hữu tạo ra phạm trù thứ ba, đó là hóa thành. Hóa thành là sự thống nhất giữa
hiện hữu và hƣ vơ. Nó là một ý niệm, vì vậy, hóa thành là hợp đề (synthesis) của

hiện hữu và không hiện hữu. Cho nên, theo Ph.Hêghen, một vật vừa là có vừa là
khơng khi nó hóa thành. Tồn thể hệ thống triết học phức tạp của ông đều theo hệ

. Ted Honderich (chủ biên): Hành trình cùng triết học (English - Vietnamese Dictionary of
Phylosophy), Nxb. Văn hóa - Thơng tin, Hà Nội, 2002, tr. 460.
2
. Xem Samuel Enoch Stumpf (Đỗ Văn Thuấn và Lƣu Văn Hy biên dịch): Lịch sử triết học và
các luận đề, Nxb. Lao động, Hà Nội, 2004, tr. 268.
1

3


thống cấu trúc phƣơng pháp biện chứng này: chính đề sang phản đề sang hợp đề,
cuối cùng là đạt đƣợc ý niệm tuyệt đối, ơng cho hóa thành là q trình tự phát triển1.
Có thể nói, lần đầu tiên trong lịch sử triết học, Ph.Hêghen đã tạo ra đƣợc một lý
luận biện chứng phát triển với tƣ cách lơ-gích học và là phƣơng pháp. Ông đã kết
hợp phép biện chứng và lơ-gích học thành một quan niệm thống nhất về lơ-gích biện
chứng. Phép biện chứng là linh hồn của lơ-gích học, nhờ đó khoa học lơ-gích trở
thành một cơ thể sống, chứ không phải là những phạm trù khô cứng nhƣ lơ-gích học
trƣớc đây. Cơng lao của Ph.Hêghen so với những bậc tiền bối chính là ở chỗ, ơng đã
phân tích biện chứng, khái quát tất cả những phạm trù quan trọng nhất của triết học
và đã hình thành nên ba qui luật cơ bản của tƣ duy nhƣng mang tính chất duy tâm.
Khơng nghi ngờ gì nữa, có thể khẳng định rằng, “Tính chất thần bí mà phép biện
chứng đã mắc phải ở trong tay Hêghen tuyệt nhiên không ngăn cản Hêghen trở thành
ngƣời đầu tiên trình bày một cách bao qt và có ý thức hình thái vận dụng chung
của phép biện chứng ấy”2.
C.Mác (Karl Marx, 1818 - 1883), Ph.Ăngghen (F. Engels, 1820 - 1895) và
V.I.Lênin (V.I.Lénine, 1870 - 1924) là các nhà triết học mác-xít đã cải tạo và phát
triển nó trên cơ sở của chủ nghĩa duy vật biện chứng.

Đến đây, các nhà mác-xít quan niệm rằng, lơ-gích học biện chứng là khoa học
về những quy luật và hình thức phản ánh trong tư duy sự phát triển và biến đổi của
thế giới khách quan, về những quy luật nhận thức chân lý.
1.1.2. Đối tƣợng, nhiệm vụ của lơ-gích học biện chứng
1.1.2.1. Đối tƣợng của lơ-gích học biện chứng
Trong tác phẩm Khoa học lơ-gích, Hêghen từng nói rằng: “Tất cả đều đồng ý
với chuyện đối tƣợng của lơ-gích học là tư duy”3. Chính vì vậy, ơng coi lơ-gích là
“khoa học về tư duy, về những phạm trù và quy luật của tƣ duy”4.

. Xem Samuel Enoch Stumpf (Đỗ Văn Thuấn và Lƣu Văn Hy biên dịch): Lịch sử triết học và
các luận đề, Sđd, tr. 268 - 270.
2
. C.Mác và Ph.Ăng-ghen: Tồn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1993, t. 23, tr. 35.
3
. Dẫn theo E.V.Ilencov: Logích học Biện chứng, Nxb. Văn hóa - Thông tin, Hà Nội, 2002, tr.
218.
4
. Dẫn theo GS, PTS. Nguyễn Hữu Vui (Chủ biên): Lịch sử triết học, Nxb. Chính trị quốc gia,
Hà Nội, 1998, tr. 435.
1

4


Tuy nhiên, nhƣ đã trình bày trên đây, lơ-gích học biện chứng nghiên cứu những
quy luật và cả những hình thức tƣ duy (khái niệm, phán đoán, suy luận...) và những
quy luật nhận thức chân lý trên quan điểm biện chứng, tức là xem xét chúng trong
mối liên hệ, chuyển hóa, trong sự vận động và phát triển. Bởi vì, thế giới vật chất
ln ở trong q trình vận động, biến đổi và phát triển, cho nên, những hình thức của
tƣ duy đều phải dựa trên cơ sở đó, nghĩa là phải lấy nguyên lý phát triển làm cơ sở.

Đối với lơ-gích học biện chứng, những quy luật của nhận thức là những quy
luật phát triển của tƣ tƣởng từ cái bên ngoài đi vào cái bên trong, từ hiện tƣợng đi tới
bản chất, từ bản chất ít sâu sắc đến bản chất sâu sắc hơn, từ trực tiếp đến gián tiếp, từ
trừu tƣợng đến cụ thể, từ chân lý tƣơng đối đến chân lý tuyệt đối.
Tuy nhiên, để hiểu rõ đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của lơ-gích học biện
chứng, chúng ta cần phải dựa vào hai vấn đề có liên hệ mật thiết với nhau:
- Một là, mối quan hệ giữa lơ-gích học hình thức và lơ-gích học biện chứng;
- Hai là, sự thống nhất (đồng nhất) giữa phép biện chứng, lý luận nhận thức và
lơ-gích học biện chứng.
1.1.2.2. Nhiệm vụ của lơ-gích học biện chứng
Với đối tƣợng nghiên cứu đƣợc xác định nhƣ vậy, chúng ta có thể rút ra nhiệm
vụ cơ bản, trung tâm của khoa học lơ-gích biện chứng nhƣ sau:
- Một là, lơ-gích học biện chứng nghiên cứu sự cần thiết, cách thức thể hiện
nhƣ thế nào trong khái niệm, trong phán đoán... về sự vận động, phát triển hay những
mâu thuẫn bên trong của sự vật, hiện tƣợng, những biến đổi về chất hay sự chuyển
hoá cái này thành cái khác của chúng. Đây chính là nhiệm vụ trung tâm của lơ-gích
học biện chứng. Và, trong sự biểu đạt khoa học của mình, lơ-gích học biện chứng
xuất hiện nhƣ là một bộ phận hợp thành của triết học mác-xít.
- Hai là, lơ-gích học biện chứng nghiên cứu bản chất biện chứng của các phạm
trù lơ-gích, tính linh hoạt, tính mềm dẻo của chúng đi đến tính đồng nhất các mặt đối
lập. Phép biện chứng chính là một học thuyết lơ-gích, vì chúng nghiên cứu chức
năng nhận thức, là lơ-gích của những quy luật phổ biến và những phạm trù của sự
phát triển.
- Ba là, lơ-gích học biện chứng nghiên cứu q trình hình thành và phát
triển của bản thân nhận thức. Lơ-gích học biện chứng dựa trên lịch sử của nhận
5


thức, đó là lịch sử phát triển khái quát của tƣ duy, của lịch sử thực tiễn xã hội lồi
ngƣời.

Có thể nói, lơ-gích học biện chứng là cơ sở lơ-gích chung của nhận thức con
ngƣời, là lý luận lơ-gích chung mà dựa vào đó ngƣời ta có thể và cần phải giải thích
tất cả những lý luận lơ-gích riêng biệt và cụ thể, giải thích ý nghĩa và vai trị của
những lý luận ấy1.
1.2. QUAN HỆ GIỮA LƠ-GÍCH HỌC BIỆN CHỨNG VÀ LƠ-GÍCH HỌC
HÌNH THỨC; LƠ-GÍCH HỌC BIỆN CHỨNG VỚI PHÉP BIỆN CHỨNG VÀ
LÝ LUẬN NHẬN THỨC DUY VẬT
1.2.1. Quan hệ giữa lơ-gích học biện chứng với lơ-gích học hình thức
Lơ-gích học biện chứng và lơ-gích học hình thức là hai ngành khoa học đều
nghiên cứu tƣ duy, đều phản ánh hiện thực khách quan. Song, chúng khác nhau về
đối tƣợng, nhiệm vụ và nội dung nghiên cứu.
Nếu nhƣ lơ-gích học hình thức nghiên cứu các quy luật và hình thức của tƣ duy
nhằm đảm bảo tính đúng đắn, chặt chẽ và nhất quán trong suốt quá trình tƣ duy, quan
tâm chủ yếu đến hình thức tƣ duy, trừu tƣợng hóa nội dung thì lơ-gích học biện
chứng nghiên cứu các hình thức và quy luật của tƣ duy biện chứng, nó quan tâm chủ
yếu đến tính biện chứng về nội dung của tƣ duy. Do vậy, có thể nói, lơ-gích học biện
chứng là lơ-gích nội dung, gắn liền với nội dung.
Lơ-gích học hình thức xem xét các hình thức tƣ duy qua việc phản ánh sự vật,
hiện tƣợng trong trạng thái tách rời, đứng im tƣơng đối, ổn định tạm thời, do vậy, nó
dựa trên cơ sở tính đồng nhất, trừu tƣợng của các khái niệm, phạm trù cố định. Trong
khi đó, lơ-gích học biện chứng xem xét các hình thức tƣ duy qua sự phản ánh sự vật,
hiện tƣợng trong mối liên hệ, trong trạng thái mâu thuẫn, vận động, chuyển hóa và
phát triển, cho nên, nó dựa trên cơ sở của tính đồng nhất, cụ thể của các phạm trù
biến đổi. Và do vậy, nó phản ánh sinh động hiện thực khách quan. Lênin nhận xét:
“Những quan hệ (= chuyển hóa = mâu thuẫn) của những khái niệm = nội dung chủ
yếu của lơ-gích, hơn nữa những khái niệm ấy (và những quan hệ, chuyển hóa và

1

. Xem Từ điển triết học, Nxb. Tiến bộ, Mátxcơva, 1986, tr. 322 - 323.


6


mâu thuẫn của chúng) đều đƣợc trình bày nhƣ là những phản ánh của thế giới khách
quan”1.
Từ đặc điểm nêu trên, ta thấy, lơ-gích học hình thức xem xét hình thức và quy
luật tƣ duy khơng tính đến điều kiện lịch sử, văn hóa, xã hội... cịn lơ-gích học biện
chứng xem xét hình thức và quy luật tƣ duy dựa trên quan điểm thực tiễn, toàn diện,
lịch sử - cụ thể, biến đổi và phát triển... Lơ-gích học biện chứng xem thực tiễn là tiêu
chuẩn của nhận thức chân lý. A.G. Novikov cho rằng, lơ-gích học biện chứng khác
về cơ bản với lơ-gích hình thức và lơ-gích tốn. Nó sử dụng phƣơng pháp chính thức
nghiên cứu các hình thức tƣ tƣởng trong sự trừu tƣợng nội dung và lịch sử phát triển
của nhận thức trong tất cả các mâu thuẫn của nó. Lơ-gích biện chứng phân tích
những mâu thuẫn biện chứng của sự vật và ý tƣởng và sự phát triển của nhận thức.
Nó là một phƣơng pháp khoa học của nghiên cứu thực tế và chính sự suy nghĩ2.
Lơ-gích học biện chứng ra đời là một bƣớc phát triển về mặt tƣ duy. Song, nó
khơng phải là sự thủ tiêu lơ-gích học hình thức. Trái lại, lơ-gích học biện chứng cho
phép chúng ta xác định vị trí quan trọng của lơ-gích học hình thức và sự cần thiết của
nó trong nghiên cứu khoa học cũng nhƣ trong cuộc sống. Ph.Ăngghen từng cho rằng,
khoa học về tƣ duy cũng nhƣ bất kỳ khoa học nào khác, là khoa học lịch sử, khoa
học về sự phát triển lịch sử của tƣ duy con ngƣời.
Cần lƣu ý rằng, lơ-gích học hình thức và lơ-gích học biện chứng là hai ngành
khoa học khơng mâu thuẫn, không loại trừ nhau. Trong sự phát triển của mỗi ngành
khoa học, chúng bổ sung cho nhau và đều rất cần thiết cho nhận thức và nghiên cứu
khoa học. Mỗi ngành khoa học có ƣu điểm, hạn chế nhất định và có phạm vi ứng
dụng riêng nó. Chúng ta không nên phủ định hoặc xem nhẹ một ngành khoa học nào.
Vấn đề là ở chỗ, chúng ta vận dụng nó sao cho hợp lý, hiệu quả. Việc nắm vững hai
ngành khoa học này, từ đó vận dụng vào quá trình nhận thức sẽ cho phép chúng ta
phản ánh chính xác, đầy đủ, khách quan và tồn diện về hiện thực khách quan.

1.2.2. Quan hệ giữa lơ-gích học biện chứng với phép biện chứng và lý luận
nhận thức
. V.I. Lênin: Toàn tập, Nxb. Tiến bộ, Mátxcơva, 1981, t. 29, tr. 209.
. Xem Dialectical Materialism. A. G. Novikov: The Great Soviet Encyclopedia, 3rd Edition
(1970-1979). © 2010 The Gale Group, Inc. All rights reserved. Đọc từ
Dialectical + Logic.
1
2

7


Trong lịch sử, có nhiều quan niệm khác nhau về vấn đề quan hệ giữa lơ-gích
học, lý luận nhận thức và phép biện chứng. I.Can-tơ (I.Kant, 1724 - 1804) quan niệm
lơ-gích học nhƣ một phần của lý luận nhận thức. Lý luận nhận thức rộng hơn, do lý
giáo không phải là khả năng duy nhất, mặc dù là tối quan trọng để xử lý các chất liệu
cảm tính, trực quan và biểu tƣợng thành hình thức tri thức, thành các khái niệm và
các hệ thống các khái niệm, thành khoa học. Vì thế, “Lơ-gích học nhƣ nó vốn có
đƣợc tất cả những ngƣời theo Can-tơ kiến giải nhƣ một phần của lý luận nhận thức”.
Cho nên, “lôgic học trong kiến giải kiểu Can-tơ khơng bao giờ phủ hết tồn bộ
những vấn đề của lý luận nhận thức, ngoài những giới hạn của nó vẫn cịn sự phân
tích các q trình, đƣợc thực hiện bởi các khả năng, đấy cịn có trực quan và linh
cảm, trí nhớ và tƣởng tƣợng, và còn nhiều thứ khác nữa”1.
Khác với quan niệm này phải kể đến quan niệm của Ph.Hêghen. Ơng cho rằng,
lơ-gích học bao hàm toàn bộ và đầy đủ những vấn đề nhận thức, khơng để lại sau
những giới hạn của mình bất kỳ một hình mẫu tƣởng tƣợng nào. Nó bao chứa sự xem
xét chúng với tƣ cách là sản phẩm bên ngoài (đƣợc thực hiện trong chất liệu tiếp
nhận bằng cảm tính) của năng lực hoạt động tƣ duy, vì chúng cũng chính là tƣ duy,
và chỉ đƣợc vật hóa khơng phải trong các từ ngữ, các phán đốn và suy luận, mà
trong các sự vật (các hành vi, các sự kiện và v.v...) đối lập cảm tính với cá thể. Nhƣ

vậy, “Lơ-gích học ở đây hịa nhập tồn bộ với lý luận nhận thức vì tất cả những khả
năng nhận thức còn lại đƣợc xem xét nhƣ là các dạng của tư duy, nhƣ là tƣ duy mà
còn chƣa đạt đến hình thức thể hiện thích hợp, cịn chƣa chín muồi đến nó”2.
V.I.Lênin tỏ thái độ thận trọng với quan niệm này và cho rằng: “Trong cách
hiểu nhƣ thế lơgic học trùng với lý luận nhận thức. Nói chung đó là vấn đề rất quan
trọng”3. Theo ơng, lơ-gích học và lý luận nhận thức không ở bất kỳ trƣờng hợp nào
lại là hai khoa học khác nhau. Theo E.V.Ilencov, vì thế, các định nghĩa lơ-gích của tƣ
duy cịn có những phạm trù và quy luật (những sơ đồ) phổ biến, đƣợc nhận thức
trong tiến trình phát triển cả nghìn năm của văn hóa khoa học và đƣợc kiểm chứng về

. Xem E.V.Ilencov: Lơgích học Biện chứng, Nxb. Văn hóa - Thông tin, Hà Nội, 2002, tr. 382 383, 386, 156.
2
Xem E.V.Ilencov: Lơgích học Biện chứng, Nxb. Văn hóa - Thông tin, Hà Nội, 2002, tr. 382 383, 386, 156
3
. Xem E.V.Ilencov: Lơgích học Biện chứng, Nxb. Văn hóa - Thông tin, Hà Nội, 2002, tr. 382 383, 386, 156
1

8


tính khách quan qua thực tiễn xã hội - con ngƣời1. Ở đây, ta thấy lơ-gích học đƣợc
hiểu nhƣ là hòa nhập với phép biện chứng. Cho nên, theo V.I.Lênin, lơ-gích học (lý
luận nhận thức) và phép biện chứng nằm trong mối quan hệ đồng nhất, trùng nhau về
đối tƣợng và thành phần các phạm trù.
Phép biện chứng khơng có đối tƣợng khác với đối tƣợng của lý luận nhận thức
(của lơ-gích học), cũng nhƣ lơ-gích học (lý luận nhận thức) khơng có đối tƣợng
nghiên cứu khác với đối tƣợng của phép biện chứng.
Trong tác phẩm triết học nổi tiếng “Bút ký triết học”, Lênin khẳng định, sự
thống nhất giữa phép biện chứng, lý luận nhận thức và lơ-gích học biện chứng là một
nguyên lý rất quan trọng của triết học mác-xít. Theo Lênin, phép biện chứng cũng

chính là lý luận nhận thức, là lơ-gích biện chứng của Chủ nghĩa Mác. Ông đã chỉ ra
sự thống nhất biện chứng của ba bộ phận này. Chính vì vậy mà hệ thống triết học của
Mác - Lênin đã khắc phục đƣợc sự tách rời, đối lập trong triết học trƣớc đó.
Tuy nhiên, chúng ta khơng đƣợc đồng nhất siêu hình giữa phép biện chứng,
nhận thức luận và lơ-gích biện chứng. Bởi vì, ba bộ phận này có sự đồng nhất biện
chứng, nghĩa là, chúng có bao hàm sự khác biệt, đồng thời trong sự khác biệt đó có
yếu tố đồng nhất. Cho nên, mỗi quy luật, phạm trù của triết học duy vật biện chứng
phải thực hiện đồng thời cả ba chức năng, đó là chức năng của phép biện chứng, của
nhận thức luận và của lơ-gích biện chứng. Do vậy, có thể nói, lơ-gích học biện chứng
nghiên cứu cả những quy luật và những hình thức tƣ duy trên quan điểm biện chứng,
nghĩa là xem xét chúng trong sự liên hệ, chuyển hóa, vận động và phát triển.
1.3. SƠ LƢỢC VỀ SỰ PHÁT TRIỂN CỦA LƠ-GÍCH HỌC
Lơ-gích học ra đời trên cơ sở những nhu cầu thiết yếu của đời sống con ngƣời
nhƣ: hoạt động suy nghĩ, nghiên cứu khoa học, tranh luận khoa học... Với ý nghĩa đó,
lơ-gích học ra đời rất sớm ở thời kỳ cổ đại và phát triển gắn liền với triết học và tốn
học. Tuy lơ-gích học biện chứng ra đời sau nhƣng những yếu tố của nó đã xuất hiện
vào thời kỳ này, đặc biệt là trong triết học của Heraclite, Platon, Aristote, Lão Tử,
Trang Tử, Mặc Tử, Công Tôn Long, Tuân Tử, trƣờng phái Nya-Vai’sesika,...

1

. Xem E.V.Ilencov: Lơgích học Biện chứng, Nxb. Văn hóa - Thông tin, Hà Nội, 2002, tr. 396.

9


Ở thời kỳ cổ đại, lơ-gích học xuất hiện ở cả phƣơng Đông lẫn phƣơng Tây. Thế
nhƣng, khi đề cập lịch sử lơ-gích học, ngƣời ta ít hoặc khơng nói đến sự phát triển
của nó ở phƣơng Đơng. Đây là một thiếu sót.
Thật vậy, tuy luận lý học phƣơng Đơng không đƣợc quan niệm thuần tuý nhƣ ở

phƣơng Tây, nhƣng trong Nhân minh học (xuất hiện vào khoảng thế kỷ VII, VI trƣớc
Công nguyên) là môn học về việc xác định rõ nguyên nhân của sự vật, hiện tƣợng
bằng nhận thức đúng đắn và lập luận chặt chẽ. Trƣờng phái triết học NyàyaVai’sesika của Ấn Độ cổ đại đã khởi xƣớng Nhân minh học và họ đã có những đóng
góp quan trọng cho lơ-gích học. Ngũ đoạn luận là một ví dụ. Phái này quan tâm
nhiều đến lơ-gích và thuật ngụy biện. Họ đƣa ra thuyết biện luận gồm 05 đoạn hay
gọi là ngũ đoạn luận:
1) Luận đề - Pratijnã;
2) Ngun nhân - Heta;
3) Ví dụ - udàharana;
4) Suy đốn - Upanaya;
5) Kết luận - Nigamana.
Chẳng hạn, phái Nyàya-Vai’sesika đƣa ra ví dụ nổi tiếng về quan sát và suy
luận:
1) Đồi có lửa cháy.
2) Do đồi bốc khói.
3) Mà những gì bốc khói đều có lửa cháy, ví dụ nhƣ bếp lị.
4) Đồi đã bốc khói thì khơng thể khơng có lửa cháy.
5) Vậy, đồi có lửa cháy.
Ta thấy, hình thức ngũ đoạn luận này gần giống tam đoạn luận của Arixtốt :
1) Tất cả những gì bốc khói đều có lửa cháy.
2) Đồi bốc khói.
3) Do đó, đồi có lửa cháy.
Phật giáo quan niệm rằng, thế giới vừa “thật” vừa “khơng thật”, bởi vì, mọi sự
vật, hiện tƣợng, kể cả tƣ duy của con ngƣời chỉ tồn tại “thật” một cách tƣơng đối mà
thôi, chúng vận động, biến đổi không ngừng, chúng hiện ra rồi biến đi liên tục, nhƣ
những “ảo giác”. Chính vì vậy, Phật giáo chia thế giới thành hai sự thực khác nhau:
10


sự thực tƣơng đối và sự thực tuyệt đối. Và lơ-gích học Phật giáo căn cứ, hình thành

trên hai sự thực ấy, cho nên nó khác biệt với lơ-gích của Arixtốt. Mục đích của lơgích Phật giáo là giúp cho con ngƣời tránh khỏi đƣợc mọi sai lầm và ảo giác. Để đạt
đƣợc mục đích đó, lơ-gích học Phật giáo đƣa ra tứ đoạn luận (trétralème), một
phƣơng pháp biện luận thật đặc thù mà trong tiếng Phạn gọi là catuscoti. Trong
Trung Bộ Kinh (Najjhima Nikaya, kinh số 72) có ghi: “Như Lai [...] thật sâu thẳm,
vơ biên, khơng thăm dị được, giống như đại dương. Những lời lẽ như hiển-hiện,
không-hiển-hiện, hiển-hiện và không-hiển-hiện, không-hiển-hiện cũng không phải là
không-hiển-hiện, không thể dùng để diễn tả được”. Phát biểu này của Đức Phật cho
thấy, nguyên tắc căn bản của tứ đoạn luận gồm có 4 mệnh đề thốt ra khỏi sự biện
luận thông thƣờng. Trong các kinh điển đặc thù của Nam tông bằng tiếng Pali ngƣời
ta cũng thấy nêu lên nguyên tắc của tứ đoạn luận nhƣ sau:
“Có (ati)
Khơng có (neti)
Có và khơng có (ati ca natica)
Khơng phải có cũng khơng phải khơng có (nevati na neti):
Đấy là những lời giáo huấn của Đấng Giác ngộ”.
Theo học giả Quentin Ludwig trong quyển sách về Phật giáo của ông tựa đề Le
Bouddhisme, histoire, courant religieux, cultures, do Eyrolles xuất bản năm 2005,
cho rằng, Arixtốt và cả thầy của mình là Platon (Platon, 428 - 347 tr.CN) đều biết
đến tứ đoạn luận do Đức Phật thuyết giảng. Tuy nhiên, theo tác giả, tứ đoạn luận
Phật giáo đã làm cho hai ông bực bội và khơng quyết đốn gì đƣợc, vì phép biện luận
của Phật giáo mang lại một tình trạng bất định hƣớng, khơng giải quyết đƣợc, khơng
kết luận đƣợc1.
Có thể nói, Nhân minh học Phật giáo phát triển mạnh vào cuối thời kỳ cổ đại
và giữa thời kỳ trung cổ. Ở Trung Hoa, thời kỳ này cũng xuất hiện nhiều triết gia mà
tƣ duy lơ-gích, đặc biệt là tƣ duy biện chứng của họ đã đạt trình độ khá sắc sảo.
Mặc Tử (khoảng 480 - 420 Tr.CN) và phái Biệt Mặc đã đề cập nhiều vấn đề
thuộc lơ-gích học: Tam biểu pháp; xây dựng khái niệm “loại” và “lơ-gích theo loại”.
. Xem Hoàng Phong: Nghiên cứu Phật học - Triết học Phật giáo. Đọc từ:
/>1


11


Đặc biệt, ơng có những lập luận sắc sảo trong bác bỏ và chứng minh. Mặc Địch nói:
“Nói ắt phải dựng ra mẫu. Nói mà khơng có mẫu, thì như kẻ đứng trên bàn xoay mà
xác định sớm tối, phải trái lợi hại khác nhau không thể biết rõ. Nên lấy nói ắt có ba
biểu. Ba biểu là gì? ... Có cái gốc, có cái để bắt đầu, có cái để dùng”.
“Gốc ở đâu? Gốc trước nhất là ở việc của thánh vương thời cổ.
Bắt đầu từ đâu? Chỗ bắt đầu sau cùng là xét sự thật trước tai mắt trăm họ.
Dùng vào chỗ nào? Phát ra chỗ việc hình chính, nhắm vào cái lợi cho trăm họ.
Như thế gọi là lời nói có ba biểu”1.
Rõ ràng, Tam biểu pháp của Mặc Tử khơng chỉ thể hiện tƣ duy hình thức mà
cịn thể hiện tính biện chứng của tƣ duy.
Trong suy luận, Mặc Tử lấy nguyên lý cùng loại làm cơ sở và đó là phƣơng
thức để làm rõ học thuyết về “pháp”. Học thuyết về “pháp” quan trọng nhƣ học
thuyết nhân quả và chúng có quan hệ chặt chẽ với nhau. Trong suy luận, “pháp”
chính là chủng hoặc loại mà chủ từ thuộc vào. Ông cho rằng, suy luận diễn dịch
chẳng qua là suy luận mƣợn những từ theo trình tự phù hợp với tuần tự gọi tên để
tiến hành. Mặc Tử cho rằng, “Phàm từ lấy loại mà dùng. Lập từ mà không làm rõ về
loại, ắt sẽ khó khăn” (Mặc Tử, Đại thủ)2. Cịn trong lập luận bác bỏ, chứng minh,
Mặc Tử cũng có những lập luận rất sắc sảo và tinh tế. Thật vậy, thời cổ đại, ông phản
bác lại các nhà nguỵ biện đƣa ra những mệnh đề: “Cãi khơng thắng”, “Nói tồn sai”,
“Học vơ ích”, “Không phê phán”. Chẳng hạn, ông phản bác lại mệnh đề “Cãi không
thắng” nhƣ sau: “Thử hỏi: Thuyết cãi không thắng của các ông là đúng hay là
không đúng đây? Nếu cách nói của các ơng đúng, thì tức là các ơng đã cãi thắng rồi.
Nếu cách nói của các ơng là khơng đúng, thì tức là các ơng đã cãi mà thua, và người
khác cãi thắng. Vậy thì sao lại nói cãi khơng thắng được?”3.
Sau Mặc Tử phải kể đến Huệ Thi (370 - 310 Tr.CN) và Công Tơn Long (320 255 Tr.CN). Các ơng có cơng chỉ ra những khuynh hƣớng của lơ-gích học hình thức
khơng thuần t (lơ-gích đa trị, lơ-gích tình thái, lơ-gích mờ...). Ở thời gian này,
Cơng Tơn Long đã có nhiều nghịch luận nổi tiếng. Có thể nêu 21 nghịch luận của

. Hồ Thích và Cao Tự Thanh dịch: Lịch sử logic học thời tiên Tần, Nxb. Thành phố Hồ Chí
Minh, 2004, tr. 120.
2
. Hồ Thích và Cao Tự Thanh dịch: Lịch sử logic học thời tiên Tần, Sđd, tr. 155.
3
. Triệu Truyền Đống (Nguyễn Quốc Siêu biên dịch): Phương pháp biện luận. Thuật hùng
biện.
- 19.
1

12


Cơng Tơn Long: 1. Trứng có lơng; 2. Gà có ba chân; 3. Sính (kinh đơ nƣớc Sở) có
thiên hạ; 4. Chó có thể là dê; 5. Ngựa có trứng; 6. Ếch có đi; 7. Lửa khơng nóng;
8. Núi có miệng (Sơn xuất khẩu; Hồ Thích gọi là Sơn hữu khẩu); 9. Bánh xe khơng
chạm đất; 10. Mắt khơng nhìn thấy; 11. Chỉ không tới, tới không hết; 12. Rùa dài
hơn rắn; 13. Cái củ không vuông, cái quy không thể lấy để vẽ hình trịn; 14. Cái lỗ
mộng khơng bao giờ khích với lỗ mộng; 15. Bóng con chim bay chƣa từng động đậy;
16. Mũi tên sắt không đi mau, nhƣng có lúc khơng đi mà cũng khơng dừng; 17. Chó
khơng phải là chó; 18. Ngựa vàng bị đen là ba con; 19. Chó đen màu trắng; 20.
Ngựa con mồ cơi chƣa từng có mẹ; 21. Cái dùi một thƣớc, mỗi ngày chặt một nửa,
muôn đời không chặt hết.
Chúng ta dễ dàng nhận ra một số nghịch lý (16, 21) kể trên giống nghịch lý nổi
tiếng của Zénon, một nhà nguỵ biện nổi tiếng cổ đại Hy Lạp. Ngoài ra, Cơng Tơn
Long cịn đƣa ra nghịch luận nổi tiếng khác “Bạch mã phi mã”. Các nghịch luận này
thể hiện trình độ tƣ duy biện chứng sâu sắc về khái niệm cụ thể và khái niệm trừu
tƣợng, về sự vật và thuộc tính của nó... Qua các nghịch luận ta thấy, Cơng Tơn Long
đã nhận thức đƣợc tính vơ hạn và chia cắt của khơng gian và thời gian, tính liên tục
và gián đoạn của vận động vật chất...

Cùng thời với Công Tôn Long là Trang Chu (369 - 286 Tr.CN). Ông đƣợc
mệnh danh là ngƣời ngụy biện nổi tiếng thời Chiến Quốc. Lập luận của ông chủ yếu
dựa vào lơ-gích khơng cùng loại. Tiếp sau Cơng Tơn Long, Trang Chu phải kể đến
Tuân Tử (298 - 238 Tr.CN), một nhà triết học duy vật kiệt xuất ở Trung Hoa thời kỳ
cổ đại. Ơng đƣa ra nhiều luận điểm có giá trị về khoa học lơ-gích hình thức.
Trong khi đó, ở phƣơng Tây, Arixtốt (Aristote, 384 - 322 Tr.CN), nhà triết học
tài hoa cổ đại Hy Lạp đã đề cập các vấn đề của lơ-gích học một cách khá đầy đủ.
Những vấn đề lơ-gích đƣợc ơng trình bày chủ yếu trong tác phẩm nổi tiếng mang tên
Organon (công cụ)... Bởi vì, theo Arixtốt, lơ-gích học hình thức đƣợc coi nhƣ một
công cụ của tƣ duy mạch lạc, đúng đắn. Tác phẩm Organon gồm 06 tập, đƣợc
Bekker sắp xếp và Viện Hàn Lâm Đức xuất bản năm 1831, bao gồm:
- Tập I: “The Categories” (các phạm trù): Chia thế giới thành 10 phạm trù mà
thực chất là bàn về khái niệm - hình thức cơ bản của tƣ duy;
- Tập II: “De Interpretatione” (về chú giải): Phân loại mệnh đề;
13


- Tập III và IV: “Prior analytics” và “topics” (phân tích I): Bàn về tam đoạn
luận;
- Tập V: “The Sophisticis Enlenchis”: Bàn về bác bỏ, nguỵ biện, thuật tranh
luận;
- Tập VI: “Posterior Analytics”: Bàn về chứng minh, định nghĩa, kiến thức
khoa học...
Có thể nói, Arixtốt đã đề cập một cách khá hoàn chỉnh về những quy tắc của tƣ
duy con ngƣời. Tuy chỉ dừng lại ở lơ-gích học hình thức, nhƣng giá trị của nó vƣợt
xa thời đại ơng đang sống. Những vấn đề nhƣ: định nghĩa, khái niệm, phạm trù, phán
đoán, lý thuyết tam đoạn luận... là những cống hiến lớn lao của Arixtốt cho nhân
loại. Vì vậy, cho đến nay, không ai phủ nhận Arixtốt là cha đẻ của bộ mơn lơ-gích
học. Có thể nói, luận lý học của Arixtốt đã đạt đƣợc thành tựu rực rỡ ở thời kỳ cổ
đại. Théophracte (khoảng 372 - 287 Tr.CN), học trò của Arixtốt, đã phát triển, sửa

chữa một số điểm trong cơng trình của Arixtốt và bổ sung các loại hình tam đoạn
luận của Arixtốt, đồng thời ơng đã đƣa ra những phán đốn có điều kiện. Trƣờng
phái Mégare và những ngƣời theo trƣờng phái Khắc kỷ đã đƣa lơ-gích học thời cổ
đại lên tới đỉnh cao. Họ là tác giả của những nghịch lý và nguỵ biện nổi tiếng (nghịch
lý “Kẻ nói dối”); Diodone Cromes và Philon (khoảng 318 TrCN), học trị của ơng lần
đầu tiên có ý kiến về bảng chân - trị và đặc biệt là phép kéo theo. Lơ-gích Khắc kỷ có
những cống hiến nhất định cho sự phát triển lơ-gích học, đặc biệt là họ đƣa ra đƣợc
05 mệnh đề đúng đắn trong lơ-gích ký hiệu.
Vào khoảng cuối thời kỳ cổ đại ở phƣơng Tây, Apul đƣa ra hình vng lơgích về quan hệ giữa 04 loại hình phán đốn đơn; Galien (131–200)1 đƣa ra loại
hình thứ tƣ của tam đoạn luận (P ---- M; M ---- S; Vậy, S ---- P). Đặc biệt, Boèce
(470 – 524) đã hệ thống hố lơ-gích của Arixtốt và đƣa ra một số cơng thức của lơgích mệnh đề.
Bƣớc sang giai đoạn đầu của thời kỳ trung cổ ở phƣơng Tây, ngƣời ta tiếp
tục phát triển lơ-gích học của Arixtốt và đi sâu vào nghiên cứu những vấn đề ngữ
nghĩa và triết lý lơ-gích. Trên cơ sở lơ-gích cổ điển của Cicéron (106 – 43 TrCN),
Boèce, Apuleé (khoảng 123 – 170), Pièrre Abelard (1079 – 1142) là nhà triết học

1

Galien bổ sung loại hình này ở thời trung cổ, ngƣời ta gọi đây là “Hình Galien”.

14


Pháp đã hệ thống tƣ tƣởng của Boèce. Giữa thế kỷ XII, XIII, các nhà lơ-gích nổi
tiếng là Albert Le Grand (1206 – 1280), Pierre d’Espagne (1220 – 1277), Duns
Scotus (khoảng 1266 – 1308), trong đó, Pierre d’Espagne là ngƣời có cơng khái
qt và đặt tên cho các kiểu của 4 loại hình tam đoạn luận nhằm giúp con ngƣời dễ
nhớ nhƣ: BARBARA, CELARENT, BARBARI, DARII... Tuy vậy, ở Tây Âu lúc
bấy giờ, thần học và chủ nghĩa kinh viện vẫn giữ địa vị thống trị. Chế độ phong
kiến và triết học kinh viện châu Âu chủ yếu lấy lơ-gích học của Arixtốt để bảo vệ

cho những tín điều tơn giáo (Thiên Chúa giáo).
Trong khi đó, vào giữa thời kỳ trung cổ ở phƣơng Đông, Nhân minh học Phật
giáo phát triển mạnh và đạt đƣợc những thành tựu đáng kể. Điển hình có thể kể đến
một trong những thành tựu đó là bộ kinh điển “Nhân minh nhập chính lý luận”
(Nyàya Dvarataraka Sàtra) của Sancaravasmin và “Chính lý nhất trích luận” (Nyàya
Bindu) của Dharmakirti. Trong 2 bộ sách này, ngƣời ta cho rằng, tam chi tác pháp
của Nhân minh học khác với tam đoạn luận của Arixtốt và giống nhƣ luận chứng
trong lơ-gích học hình thức.
Đến thời kỳ Phục hƣng và Cận đại (bắt đầu từ thế kỷ XVI), luận lý học của
Arixtốt trở nên chật hẹp, thiếu sót trƣớc sự phát triển của toán học và các ngành khoa
học khác. Bằng những khám phá riêng lẻ khơng có trong bộ Organon của Arixtốt,
nhiều ngành khoa học đã thực hiện những bƣớc tiến lớn lao. Điều đó làm cho các nhà
tƣ tƣởng nhận thấy rằng, cần phải đề xuất thêm những phƣơng pháp tƣ duy mới trong
việc khám phá chân lý. Ph.Bêcơn (Francis Bacon, 1561 - 1626), triết gia nổi tiếng
ngƣời Anh, đã xây dựng một khoa học lơ-gích mới. Ông viết tác phẩm mà cái tên của
nó mang ý nghĩa của điều này: Novum Organon (công cụ mới). Ph.Bêcơn đƣa ra lơgích ứng dụng và đặc biệt đề cao phƣơng pháp quy nạp trong khoa học thực nghiệm.
Trong khi Ph.Bêcơn gắng công minh giải những quy tắc của phƣơng pháp thực
nghiệm trong Novum Organon thì R.Đềcác (Réne Descartes, 1596 - 1650) làm sáng
rõ thêm phép quy nạp và những quy luật chính của luận lý học trong Discours de la
méthode (Luận về phƣơng pháp - 1637). Trong lơ-gích tốn, R.Đềcác là ngƣời có
cơng sáng lập bộ mơn Hình học Giải tích. Ơng lấy phƣơng trình đại số để biểu diễn
tính chất trong hình học. Ơng viết quyển Regulx (Lơ-gích diễn dịch). Tác phẩm này
đánh dấu sự đoạn tuyệt với học thuyết của Arixtốt. Ngƣời ta gọi đây là hình thức mới
thứ nhất của lơ-gích học hình thức. R.Đềcác đã góp phần ký hiệu hố tốn học, đồng
15


thời cố gắng đƣa tốn học vào lơ-gích. Do vậy, ngƣời ta xem lơ-gích của Ph.Bêcơn
và R.Đềcác là lơ-gích khoa học (Logique Scientifique) hay lơ-gích ứng dụng
(Logique Appliqe). Năm 1662, quyển sách nổi tiếng Logique De Port-Royal

(Logique ou l’art de penser - Lơ-gích hay nghệ thuật tƣ duy) do Antonie Arnold
(1612 – 1694) và Pierre Nicole (1625 - 1695) thuộc phái Port - Royal viết để dạy
cho công tƣớc Chevrense. Quyển sách gồm 4 phần: tƣ tƣởng, phán xét, suy luận và
phƣơng pháp, đồng thời phản ánh một số công trình của R.Đềcác và Paxcan (Pascal,
1623 - 1662).
Sau R.Đềcác là nhà toán học ngƣời Đức G.W.Lai-bni-txơ (G.W.Leibniz, 1646
- 1716), đã mơ ƣớc tới thứ luận lý mới, có tính chất phổ biến, xác đáng hơn luận lý
của Arixtốt là nó biến các lối lý luận thành công thức, ký hiệu. Đây là hình thức mới
thứ hai của luận lý học. Có thể nói, Lai-bni-txơ là một trong những ngƣời đầu tiên có
ý kiến về khả năng đƣa tốn học vào lơ-gích, xây dựng hệ thống ký hiệu lơ-gích,
giúp ta diễn đạt ngắn gọn q trình tƣ duy của mình. Ơng đã đƣa thêm 05 kiểu loại
hình tam đoạn luận (02 kiểu cho hình I; 02 kiểu cho hình II; 01 kiểu cho hình IV) và
quy luật túc lý của lơ-gích học hình thức.
Cơng trình của Ph.Bêcơn đƣợc G.X.Min (J.Stuart Mill, 1806 - 1873) phát triển
thành hệ thống lơ-gích suy diễn và lơ-gích quy nạp. G.X.Min coi lơ-gích học là khoa
học về các chứng cứ, tìm cho quy nạp những quy tắc và sơ đồ lơ-gích, tƣơng tự các
qui tắc tam đoạn luận. Đến đây, ngƣời ta cho rằng, lơ-gích học của Arixtốt kết hợp
với những cơng trình của Ph.Bêcơn, R.Đềcác và G.X.Min trở thành lơ-gích truyền
thống. Và bấy giờ, lơ-gích học đƣợc quan niệm là một khoa học nghiên cứu về các
quy luật và hình thức của tƣ duy chính xác.
Năm 1847, ở phƣơng Tây xuất hiện hai cơng trình lơ-gích: Đại số học của Lơgích của G.Bun (G.Boole, 1815 - 1864) và Lơ-gích học Hình thức của Augustus De
Morgan (1806 - 1871). Với hai cơng trình này, lơ-gích học đã đƣợc tốn học hố. Đó
là điều Lai-bni-txơ đã đề cập từ thế kỷ XVII. Từ đây, lơ-gích học hiện đại, lơ-gích
ký hiệu phát triển mạnh mẽ.
John Venn (1834 - 1923) dùng 03 vòng tròn để xét xem một tam đoạn luận có
hợp lơ-gích khơng. 03 vịng trịn đƣợc vẽ giao nhau, diễn đạt tất cả khả năng có thể
xảy ra về quan hệ giữa các tiền đề. Sau đó, xem với các khả năng đó, kết luận của
suy luận có thể biểu diễn đƣợc trên sơ đồ hay khơng. G.Frege (1848 - 1925) có cơng
16



rất lớn trong việc cách mạng hố lơ-gích, biến đại số lơ-gích và tốn thành lơ-gích
Tốn. Ơng cho rằng, lơ-gích Toán sẽ giúp chúng ta lập luận chặt chẽ hơn. J.Peano
(1858 - 1923) kế thừa tƣ tƣởng của G.Frege. Ông đƣa ra 03 khái niệm khởi đầu: Số,
Zéro, Kế tiếp và 05 công lý (gọi là công lý J.Peano). B.Russell (1872 - 1970), ngƣời
chịu ảnh hƣởng tƣ tƣởng của J.Peano về việc xem tốn là một phần của lơ-gích học,
cùng Whitehead (1861- 1947) là hai nhà toán học và triết học ngƣời Anh soạn chung
quyển Principia Mathematica. Hai ông đã cải thiện lơ-gích học của Lai-bni-txơ và có
tham vọng biểu diễn những từ ngữ, mệnh đề, liên hệ trong lơ-gích học của Arixtốt
bằng những ký hiệu đơn giản đồng thời đƣa mọi lý luận về những phép tính thực
nghiệm theo những qui tắc chính xác.
Lơ-gích hiện đại trở thành khoa học chính xác, nó phát triển theo nhiều hƣớng
và đƣợc ứng dụng trong các lĩnh vực khác nhau: toán học, ngơn ngữ học, khoa học
máy tính... Lơ-gích tốn phát triển mạnh mẽ và có ảnh hƣởng lớn đến lơ-gích học
hình thức, thâm nhập vào lơ-gích học hình thức nhƣng bản thân lý thuyết toán học
cũng gặp những mâu thuẫn.
Điểm quan trọng của lơ-gích học hình thức là nó xem xét các hình thức của tƣ
duy bỏ qua sự xuất hiện, biến đổi và phát triển của chúng. Do vậy, nó không thể thực
hiện đƣợc chức năng phƣơng pháp luận triết học phổ biến. Mặt này của tƣ duy do
lơ-gích học biện chứng nghiên cứu. Nói nhƣ V.I.Lênin, chỉ có lơ-gích học biện
chứng mới thực hiện đƣợc chức năng này, bởi lẽ, chỉ có lơ-gích học biện chứng “mới
phá vỡ chân trời nhỏ hẹp của lơ-gích hình thức”, và gắn bó hữu cơ với thế giới khách
quan1.
I.Cantơ (I. Kant, 1724 - 1804), nhà bác học và triết học ngƣời Đức đã phân biệt
lơ-gích chung và lơ-gích tiên nghiệm. Theo ơng, lơ-gích tiên nghiệm khác với lơ-gích
chung, tức là lơ-gích hình thức ở chỗ, lơ-gích tiên nghiệm nghiên cứu sự phát triển của
tri thức, và, khác với nó, khơng xa rời nội dung. Có thể nói, một trong những đóng góp
lớn nhất của I.Cantơ là học thuyết về antinomi của lý tính thuần túy, đƣợc xem là đỉnh
cao của lơ-gích tiên nghiệm của I.Cantơ (trình bày trong quyển hai, I.Cantơ gọi là
Lơ-gích tiên nghiệm hay Phép biện chứng tiên nghiệm), nó là điểm khởi đầu cho phép

biện chứng hiện đại sau này.
. Dẫn theo A.Sep-tu-lin: Phương pháp nhận thức biện chứng, Nxb. Tiến bộ và Nxb. Sự thật,
1989, tr. 19.
1

17


I.Cantơ đƣa ra bốn antinomi (nghịch lý), gồm :
Nghịch lý I:
Chính đề: “Thế giới có điểm khởi đầu trong thời gian và cũng bị giới hạn trong
không gian”1;
Phản đề: “Thế giới khơng có điểm khởi đầu và khơng có giới hạn trong không
gian nhƣng là vô tận về thời gian lẫn khơng gian”2.
Nghịch lý II:
Chính đề: “Bất cứ bản thể nào trong thế giới đều đƣợc cấu tạo từ các đơn tố và
khơng có gì tồn tại mà bản thân không phải là đơn tố hay là tập hợp của các đơn tố”3;
Phản đề: “Không sự vật đa hợp nào trong thế giới đƣợc cấu tạo từ các đơn tố
và không thể tồn tại bất kỳ đơn tố nào trong thế giới”4.
Hai antinomi này đƣợc I.Cantơ gọi là antinomi toán học.
Nghịch lý III:
Chính đề: “... cần thiết phải thừa nhận một nguyên nhân tự do để giải thích trọn
vẹn các hiện tƣợng”5;
Phản đề: “Khơng có tự do, trái lại mọi sự vật xảy ra trong thế giới đều chỉ tuân
theo các định luật của tự nhiên”6.
Nghịch lý IV:
Chính đề: “Có một Hữu thể tuyệt đối tất yếu thuộc về thế giới, làm nguyên
nhân cho nó”7;

. Immanuel Kant: Phê phán lý tính thuần túy (Bùi Văn Nam Sơn dịch và chú giải), Nxb. Văn

học, 2004, tr. 760, 762, 769.
2
. Immanuel Kant: Phê phán lý tính thuần túy (Bùi Văn Nam Sơn dịch và chú giải), Nxb. Văn
học, 2004, tr. 760, 762, 769
3
. Immanuel Kant: Phê phán lý tính thuần túy (Bùi Văn Nam Sơn dịch và chú giải), Nxb. Văn
học, 2004, tr. 760, 762, 769.
4
. Immanuel Kant: Phê phán lý tính thuần túy (Bùi Văn Nam Sơn dịch và chú giải), Sđd, tr.
771, 778, 780, 786, 788.
5
. Immanuel Kant: Phê phán lý tính thuần túy (Bùi Văn Nam Sơn dịch và chú giải), Sđd, tr.
771, 778, 780, 786, 788.
6
. Immanuel Kant: Phê phán lý tính thuần túy (Bùi Văn Nam Sơn dịch và chú giải), Sđd, tr.
771, 778, 780, 786, 788.
7
. Immanuel Kant: Phê phán lý tính thuần túy (Bùi Văn Nam Sơn dịch và chú giải), Sđd, tr.
771, 778, 780, 786, 788.
1

18


Phản đề: “Khơng có một Hữu thể nào tuyệt đối tất yếu dù ở trong hay ở
ngoài thế giới nhƣ là nguyên nhân của nó” 1.
I.Cantơ gọi hai antinomi này là hai antinomi năng động.
I.Cantơ đã dành chín chƣơng sách để phân tích bốn antinomi này và đã đi đến
kết luận rằng, sở dĩ có bốn antinomi của lý tính thuần túy là do lý tính muốn vƣơn tới
nhận thức đầy đủ về thế giới với tƣ cách là chỉnh thể, tuyệt đối, và do đó tất yếu nảy

sinh mâu thuẫn. Chìa khóa để giải quyết mâu thuẫn đó chỉ có thể là chủ nghĩa duy
tâm tiên nghiệm và đối tƣợng nhận thức của lý tính là một thế giới đƣợc phân đôi
thành hai mảng độc lập: “Thế giới vật tự nó” và “Thế giới hiện tƣợng”2.
Ph.Hêghen nhận xét: “Có thể xem chúng (các antinomi của I.Cantơ v.v.) nhƣ
một bƣớc chuyển cơ bản đến triết học mới nhất”3.
Nhƣ vậy, có thể nói rằng, I.Cantơ là ngƣời có cơng đặt cơ sở cho lơ-gích học
biện chứng ra đời.
Chính Ph.Hêghen (1770 - 1831), nhà triết học vĩ đại ngƣời Đức, đã xuất phát từ
học thuyết của I.Cantơ để phát triển thành lơ-gích của mình. Trên tinh thần biện
chứng do I.Cantơ đặt ra, đó là biện chứng trong quan hệ chính đề - phản đề của các
antinomi, Ph.Hêghen đã khắc phục tính chất nhị nguyên bằng chủ nghĩa duy tâm
khách quan triệt để, xây dựng lƣợc đồ biện chứng đầy đủ mâu thuẫn và đã vạch ra
lƣợc đồ vận hành đặc trƣng của lơ-gích biện chứng theo cơng thức: Chính đề - phản
đề - hợp đề4. Lơ-gích của Hêghen có khả năng nhận thức những quy luật của thế giới
giới khách quan mà theo quan niệm của ơng nó chỉ kết quả của “sự tha hóa của ý
niệm tuyệt đối”. Có thể nói, cái thể hiện phép biện chứng trong hệ thống triết học của
Ph.Hêghen là ý niệm lơ-gích (tinh thần “tuyệt đối thứ nhất”, ý niệm tuyệt đối). Ý
niệm này tự thực hiện trong hệ thống thơng qua tính phổ biến của lơ-gích học, tính
đặc thù của giới tự nhiên, tính đơn nhất và tính chủ quan của tinh thần, nó là cái
chung hợp nhất chúng lại. Tinh thần đƣợc ông quan niệm là thực thể của tất cả những
. Immanuel Kant: Phê phán lý tính thuần túy (Bùi Văn Nam Sơn dịch và chú giải), Sđd, tr.
771, 778, 780, 786, 788.
2
. Xem Trung tâm Khoa học xã hội và Nhân văn quốc gia - Viện Triết học: I. Cantơ - Người
sáng lập nền triết học cổ điển Đức, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 1997, tr. 65, 49, 66.
3
. Xem Trung tâm Khoa học xã hội và Nhân văn quốc gia, Viện Triết học: I. Cantơ - Người
sáng lập nền triết học cổ điển Đức, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 1997, tr. 65, 49, 66.
4
. Xem Trung tâm Khoa học xã hội và Nhân văn quốc gia - Viện Triết học: I. Cantơ - Người

sáng lập nền triết học cổ điển Đức, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 1997, tr. 65, 49, 66.
1

19


×