Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (246.64 KB, 6 trang )
<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>
Nằm giữa dải đất miền Trung khí hậu khơ cằn, hè nắng dội, đơng mưa dầm, là một vùng non xanh
nước biếc, phong cảnh kỳ tú trải dọc theo bờ con sông Hương xuôi ra biển Đông. Huế từ thời các chúa
Nguyễn đã từng được chọn làm thủ phủ xứ Đàng Trong: Nguyễn Phúc Lan, Nguyễn Phúc Tần dựng
phủ ở Kim Long năm 1635-1687; Nguyễn Phúc Thái, Nguyễn Phúc Khoát dời phủ về Phú Xuân trong
những năm 1687-1712; 1739-1774. Huế cịn là kinh đơ triều vua Quang Trung Nguyễn Huệ nhà Tây
Sơn, rồi một lần nữa chính thức trở thành kinh đơ của cả nước Việt Nam khi Nguyễn Phúc Ánh lên ngơi
hồng đế, mở đầu cho vương triều Nguyễn kéo dài suốt 143 năm. Với bề dày lịch sử gắn liền với chín
đời cha ơng nhà Nguyễn ở đây, khơng có gì khó hiểu khi vua Gia Long chọn mảnh đất nằm ở trung độ
đất nước để làm kinh đơ cho triều đại mình.
Khởi công xây dựng năm 1805, Kinh Thành được quy hoạch bên bờ Bắc sông Hương, xoay mặt về
hướng Nam, với diện tích mặt bằng 520 ha, có 10 cửa chính gồm:
- Cửa Chính Bắc (còn gọi cửa Hậu, nằm ở mặt sau Kinh
Thành).
- Cửa Tây-Bắc (còn gọi cửa An Hòa, tên làng ở đây).
- Cửa Chính Tây.
- Cửa Tây-Nam (cửa Hữu, bên phải Kinh Thành).
Cửa Chính Nam (cịn gọi cửa Nhà Đồ, do gần đó có Võ Khố
-nhà để đồ binh khí, lập thời Gia Long).
- Cửa Quảng Đức .
- Cửa Thể Nhơn (tức cửa Ngăn, do trước đây có tường xây cao ngăn thành con đường dành cho
vua ra bến sơng).
- Cửa Đơng-Nam (cịn gọi cửa Thượng Tứ do có Viện Thượng Kỵ và tàu ngựa nằm phía trong cửa).
- Cửa Chính Đơng (tức cửa Đông Ba, tên khu vực dân cư ở đây).
- Cửa Đơng-Bắc (cịn có tên cửa Kẻ Trài)
Ngồi ra Kinh Thành cịn có 1 cửa thơng với Trấn Bình Đài (thành phụ ở góc Đơng Bắc của Kinh
Thành, cịn gọi là thành Mang Cá), có tên gọi là Trấn Bình Mơn.
Hai cửa bằng đường thủy thơng Kinh Thành với bên ngồi qua hệ thống Ngự Hà là Đông Thành Thủy
Quan và Tây Thành Thủy Quan.
Thành ban đầu chỉ đắp bằng đất, mãi đến cuối đời Gia Long mới bắt đầu xây gạch. Kinh Thành Huế là
sự kết hợp độc đáo giữa những nguyên tắc kiến trúc truyền thống Việt Nam, tư tưởng triết lý phương
Đông với thuyết âm dương ngũ hành của Dịch học Trung Hoa cùng những đặc điểm mang ảnh hưởng
kiến trúc quân sự phương Tây kiểu Vauban (tên một kiến trúc sư người Pháp cuối thế kỷ XVII) .
Trong lịch sử Việt Nam thời cận đại, cơng trình xây dựng Kinh Thành Huế có lẽ là cơng trình đồ sộ, quy
mô nhất với hàng vạn lượt người tham gia thi công, hàng triệu mét khối đất đá, với một khối lượng công
việc khổng lồ đào hào, lấp sông, di dân, dời mộ, đắp thành... kéo dài từ thời điểm tiến hành khảo sát
năm 1803 (triều vua Gia Long) đến khi hoàn chỉnh vào năm 1832 (triều vua Minh Mạng).
Với mục đích phịng thủ là chính, mặt bằng của thành có dạng hình vng hơi khum ở phía trước theo
địa hình dải đất dọc bờ sơng Hương, mỗi mặt có các cổng thành, trên có vọng lâu dùng để quan sát.
Các mặt thành lại được xây khúc khuỷu với những pháo đài được bố trí cách đều nhau, kèm theo các
pháo nhãn, đại bác, kho đạn... Thêm vào đó, hệ thống hào bao bọc ngay bên ngoài được đào gần
10km chiều dài. Riêng hệ thống sông đào (Hộ Thành Hà) vừa mang chức năng bảo vệ vừa có chức
năng giao thơng đường thủy có chiều dài hơn 7 km (đoạn ở phía Tây là sơng Kẻ Vạn, đoạn phía Bắc là
sơng An Hịa, đoạn phía Đơng là sơng Đơng Ba, riêng đoạn phía Nam dựa vào sơng Hương).
Dưới con mắt của các nhà địa lý phong thủy, Kinh Thành Huế nằm trên vùng ‘Vương đảo”, trong phạm
Hồng Thành nằm bên trong Kinh Thành, có chức năng bảo vệ các cung điện quan trọng nhất của triều
đinh, các miếu thờ tổ tiên nhà Nguyễn và bảo vệ Tử Cấm Thành - nơi dành riêng cho vua và hoàng gia.
Người ta thường gọi chung Hoàng Thành và Tử Cấm Thành là Đại Nội.
Hoàng Thành được xây dựng năm 1804, nhưng để hoàn chỉnh toàn
bộ hệ thống cung điện với khoảng hơn 100 cơng trình thì phải đến
thời vua Minh Mạng vào năm 1833, mọi việc mới được hoàn tất.
Hồng Thành có 4 cửa được bố trí ở 4 mặt. Cửa chính (phía Nam) là
Ngọ Mơn, phía Đơng có cửa Hiển Nhơn, phía Tây có cửa Chương
Đức, phía Bắc có cửa Hịa Bình. Các cầu và hồ được đào chung
quanh phía ngồi thành đều có tên Kim Thủy.
Hoàng Thành và toàn bộ hệ thống cung điện bên trong là khu vực cực kỳ trọng yếu, được phân bố chặt
chẽ theo từng khu vực, tuân thủ nguyên tắc (tính từ trong ra): “tả nam hữu nữ”, “tả văn hữu võ”. Ngay
cả trong các miếu thờ cũng có sự sắp xếp theo thứ tự “tả chiêu hữu mục” (bên trái trước, bên phải sau,
lần lượt theo thời gian). Các khu vực đó là:
- Khu vực phịng vệ: gồm vịng thành bao quanh bên ngồi, cổng
thành, các hồ (hào), cầu và đài quan sát.
- Khu vực cử hành đại lễ: gồm từ Ngọ Mơn, cửa chính của Hồng
Thành - nơi tổ chức lễ Duyệt Binh, lễ Truyền Lô (đọc tên các Tiến sĩ
tân khoa), lễ Ban Sóc (ban lịch năm mới)... đến điện Thái Hòa - nơi cử
hành các cuộc lễ Đại Triều một tháng 2 lần (vào ngày 1 và 15 Âm
lịch ), lễ Đăng Quang, lễ Vạn Thọ, lễ Quốc Khánh...
- Khu vực miếu thờ: được bố trí ở phía trước, hai bên trục dọc của
Hoàng Thành theo thứ tự từ trong ra gồm: bên trái có các miếu thờ Nguyễn Kim (Triệu Tổ Miếu), miếu
thờ các vị chúa Nguyễn (Thái Tổ Miếu); bên phải có các miếu thờ
Nguyễn Phúc Luân (Hưng Tổ Miếu) và miếu thờ các vị vua nhà
Nguyễn (Thế Tổ Miếu).
- Khu vực dành cho bà nội và mẹ vua (phía sau, bên phải), gồm hệ
thống cung Trường Sanh (dành cho các Thái hoàng Thái hậu) và cung
Diên Thọ (dành cho các Hoàng Thái hậu).
- Khu vực dành cho các hoàng tử học tập, giải trí như vườn Cơ
Hạ, điện Khâm văn... (phía sau, bên trái).
- Ngồi ra cịn có kho tàng (Phủ Nội Vụ) và các xưởng chế tạo đồ dùng cho hồng gia (phía trước
vườn Cơ Hạ)
Khu vực Tử Cấm Thành nằm trên cùng một trục Bắc-Nam với Hoàng Thành và Kinh Thành, gồm một
vòng tường thành bao quanh khu vực các cung điện như điện Cần Chánh (nơi vua tổ chức lễ Thường
triều), điện Càn Thành (chỗ ở của vua), cung Khơn Thái (chỗ ở của Hồng Q phi), lầu Kiến Trung
(từng là nơi ở của vua Bảo Đại và Hoàng hậu Nam Phương), nhà đọc sách và các cơng trình khác phục
vụ cho nhu cầu sinh hoạt của nhà vua và gia đình như Thượng Thiện Đường (nơi phục vụ ăn uống),
Mặc dù có rất nhiều cơng trình lớn nhỏ được xây dựng trong khu vực Hoàng Thành nhưng tất cả đều
được đặt giữa thiên nhiên với các hồ lớn nhỏ, vườn hoa, cầu đá, các
hòn đảo và các loại cây lưu niên tỏa bóng mát quanh năm. Mặc dù
quy mơ của mỗi cơng trình có khác nhau, nhưng về tổng thể, các cung
điện ở đây đều làm theo kiểu “trùng lương trùng thiềm” (hay còn gọi là
“trùng thiềm điệp ốc” - kiểu nhà kép hai mái trên một nền), đặt trên nền
đá cao, vỉa ốp đá Thanh, nền lát gạch Bát Tràng có tráng men xanh
hoặc vàng, mái cũng được lợp bằng một loại ngói đặc biệt hình ống có
tráng men thường gọi là ngói Thanh lưu ly (nếu có màu xanh) hoặc
Hồng lưu ly (nếu có màu vàng). Các cột được sơn thếp theo mơ típ long-vân (rồng-mây). Nội thất cung
điện thường được trang trí theo cùng một phong cách nhất thi nhất họa (một bài thơ kèm một bức
tranh) với rất nhiều thơ bằng chữ Hán và các mảng chạm khắc trên gỗ theo đề tài bát bửu, hay theo đề
tài tứ thời.
Điều đáng nói ở đây là sự phân biệt nam nữ, lớn nhỏ, trên dưới theo địa vị, thứ bậc rõ ràng, áp dụng
cho mọi đối tượng cho dù đó là thành viên trong hồng tộc, là mẹ vua hay hồng tử, cơng chúa. Nam
có lối đi riêng, nữ có lối đi riêng, quan văn một bên, quan võ một bên. Tất cả nhất nhất đều chiếu theo
quy định mà thực hiện, thể hiện rõ nét ý thức tập trung quân chủ, mọi quyền lực về tay nhà vua, đặc
biệt là dưới triều vua Minh Mạng.
Đến nay, trải qua bao biến động và thời gian, hàng trăm cơng trình
kiến trúc ở Đại Nội chỉ cịn lại ít ỏi chiếm khơng đầy một nửa con số
ban đầu. Nhưng với tư cách là tài sản vô giá của dân tộc, là thành quả
lao động của hàng vạn người trong suốt một thời gian dài, khu di tích
Khơng gian cung Diên Thọ
Một gian nội thất cung Diên Thọ
Đại Nội đang dần được trả lại dáng xưa cùng các di tích khác nằm trong quần thể kiến trúc đã được cả
nhân loại công nhận là Di sản Thế giới. Được sự đầu tư của nhà nước và sự giúp đỡ của bè bạn gần
xa trong cộng đồng quốc tế thông qua các cuộc vận động nhằm cứu vãn, bảo tồn và phát huy những
giá trị vật chất và tinh thần của di sản văn hóa Huế, nhiều di tích ở hồng cung Huế đã từng bước được
phục hồi, trở lại nguyên trạng cùng nhiều cơng trình khác đang được bảo quản, sửa chữa, góp phần gìn
giữ khu di tích lịch sử thuộc triều đại phong kiến cuối cùng ở Việt Nam.
Vòng tường thành thứ 3 của Kinh đô Huế, giới hạn khu vực làm việc, ăn ở và sinh hoạt của vua và
hoàng gia. Tử Cấm thành nguyên gọi là Cung Thành, được khởi công xây dựng từ năm Gia Long thứ 2
(1803), năm Minh Mạng thứ 2 (1821) đổi tên thành Tử Cấm Thành.
Thành có bình diện hình chữ nhật, cạnh nam, bắc dài 341m, cạnh
đông, tây dài 308m chu vi 1300m. Tường thành xây hoàn toàn bằng
gạch vồ, dày 0,7m, cao 3,7m. Ở mặt trước, phía nam là cửa chính Đại
Cung Mơn, kết cấu hồn tồn bằng gỗ, lợp ngói lưu li vàng. Mặt bắc
có 2 cửa Tường Loan và Nghi Phụng (trước năm 1821 mang tên
Tường Lân). Thời Bảo Đại, sau khi xây lầu Ngự Tiền Văn Phòng mở
thêm cửa Văn Phòng. Mặt đơng có hai cửa Hưng Khánh và Đơng An,
về sau lấp cửa Đông An, mở thêm cửa Duyệt Thị ở phía đơng Duyệt Thị Đường (ở mặt này cũng mở
thêm cửa Cấm Uyển nhưng rồi lại lấp). Mặt tây có 2 cửa: Gia Tường
và Tây An. Tất cả các cửa thành ở ba mặt đông, tây, bắc đều xây
bằng gạch và vôi vữa, mái chồng nhiều tầng, làm giả ngói. Bên trong
Tử Cấm thành bao gồm hàng chục cơng trình kiến trúc với qui mơ
Khu vực cung Càn Thành, từ Đại Cung Môn đến điện Càn Thành
bao gồm cả điện Cần Chánh, điện Văn Minh, điện Võ Hiển, Tả Vu,
Hữu Vu. Từ điện Cần Chánh trở ra phía trước là nơi vua thiết thường
triều cùng các cận thần. Có thể xem đây là phần nối dài của khu
Ngoại triều, gắn liền với khu vực cử hành nghi lễ từ Ngọ Mơn đến
điện Thái Hịa. Từ bức bình phong sau lưng điện Cần Chánh trở về
bắc là phần Nội Đình. Đây là khu vực ăn ở, sinh hoạt của vua và gia
đình cùng những người phục vụ.
Khu vực Cung Khơn Thái nằm ở phía bắc cung Càn Thành, bao gồm điện Khôn Thái, điện Trinh Minh...
là nơi ăn ở sinh hoạt của Hồng Q Phi và các phi tần mỹ nữ thuộc Nội Cung. Ở phía đơng là khu vực
phục vụ việc ăn uống, sức khỏe và giải trí của vua, bao gồm Thượng Thiện đường, Thái Y viện, Duyệt
Thị Đường, vườn Thiệu Phương, vườn Ngự Uyển.
Không gian Tử Cấm Thành