Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (82.09 KB, 4 trang )
<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>
NGHĨ VUI VỀ TÍNH CÁCH NGƯỜI QUẢNG TRỊ
PHAN QUANG
<i>Trời mưa trời gió </i>
<i>Đem đó ra đơm...</i>
Câu đồng dao ấy, tơi từng bắt chước bạn bè cùng xóm hát nghêu ngao
mỗi chiều khi ngồi vắt vẻo, trên lưng con trâu đang bước những bước chậm rải
về chuồng. hoặc:
<i>Tháng giêng tháng hai</i>
<i>Tháng ba tháng bốn </i>
<i>Tháng khốn tháng nạn...</i>
Khi lớn khôn, tôi mới hiểu hết ý nghĩa của những câu có vần có điệu
nói lên cảnh nghèo khó của quê hương:
<i>Trời mưa trời gió </i>
<i>Đem đó ra đơm</i>
<i>Chạy vơ ăn cơm </i>
<i>Chạy ra mất đó </i>
<i>Đó ơi hỡi đó...</i>
Bi đát làm sao, nhà cịn mỗi cái đó, những mong kiếm được con cá
sống qua ngày trong ngày mưa lụt; vừa quay lưng đi thì cái cần câu cơm ấy bi
kẻ xấu lấy mất luôn. Cũng quẫn bách như cảnh nghèo toan tính chuyện chăn
ni:
<i>Tháng giêng tháng hai</i>
<i>Tháng ba tháng bốn </i>
<i>Tháng khôn tháng nạn</i>
<i>Tạm một quan tiền</i>
<i>Ra chợ Kẻ Diêm</i>
<i>Mua con gà ấp</i>
<i>Đẻ ra mười trứng</i>
<i>Một trứng ung</i>
<i>Hai trứng ung </i>
<i>Ba trứng ung</i>
<i>Bốn trứng ung</i>
<i>Năm trứng ung</i>
<i>Sáu trứng ung</i>
<i>Bảy trứng ung</i>
<i>Còn ba trứng </i>
<i>Nở được ba con</i>
<i>Con diều tha</i>
<i>Con quạ bắt</i>
<i>Con mặt cắt xơi...</i>
trứng, nở mỗi ba con gà, chưa kịp lớn đã bị diều tha quạ bắt mặt cắt xơi, còn
cảnh nào khốn khó hơn !
Ấy thế mà hai câu tiếp ngay sau đó, khá bất ngờ, nói lên rất rõ tính lạc
quan:
<i>Chớ tham phận khó ai ơi</i>
<i>Cịn da lơng mọc, cịn chồi nở bơng.</i>
Lạc quan đi liên di dỏm. Người Quảng Trị gốc chẳng mấy ai chưa từng
<i>Ve vẻ vè ve nghe vè nói ngược </i>
<i>Chim đẻ dưới nước </i>
<i>Cá đậu trên cây</i>
<i>Thằng chết dắt trâu đi cày</i>
<i>Thằng sống nằm ngay dưới lỗ...</i>
<i>Nói ngược vậy, để đi đến kì vọng:</i>
<i>Mấy đời cho cám ăn heo</i>
<i>Cho chuột ăn mèo, cỏ lá ăn trâu...</i>
Cái ngày ước vọng ấy đã đến. Cách mạng đổi đời. Nghịch cảnh vẫn
con và cịn đó, những cảnh ngh khổ đang giảmvà sẽ mất dần.
Sự dí dỏm nhiều khi đầy trí tuệ của người Quảng Trị không chỉ thể
hiện tập trung ở các câu chuyện trạng Vĩnh hồng nơi cả làng nói trạng; Mà
hầu như huyện nào xã nào cũng có những người được tiếng ...nói trạng. Ngay
cả khi ca ngợi sản vật địa phương, thoạt nghe tưởng là một sự kiện kế đơn
giản, thực ra hàm chứa đầy ẩn dụ. Và rồi câu kết sẽ lại mở ra, thú vị:
<i>Nem chợ Sãi </i>
<i>Vải La Vang</i>
<i>Khoai Quán Ngang</i>
<i>Dầu tràm Đại Nại...</i>
Sau khi kể lể những những món đặc sản nỗi tiếng ngon, có lẽ khơng
vật phẩm nơi nào sánh bằng:
<i>....Khoai từ Trà bát</i>
<i>Cá bống Bích La</i>
<i>Gà tơ Trà Lộc</i>
<i>Mơn động An Đơn</i>
<i>Tơm đồng Mai Lĩnh</i>
<i>Bánh ít Đạo Đầu</i>
<i>Trầu nguồn Khe gió</i>
<i>Cổ trung Đơn</i>
<i>Thơm Bồ Bản</i>
<i>Nghệ vàng An Lộng</i>
<i>Xôi thống Hải Thành...</i>
Thứ đặc sản như vậy, song ai ở đâu đâu được thưởng
thức, cịn mình thì vẫn:
Nghèo khổ mà vẫn lạc quan. Đến câu cuối lại tạo sự bất ngờ:
<i>Đội nắng Đông Hà</i>
<i>Đàn bà Hội Yên.</i>
Từ sản vật chuyển sang con người. đột ngột nhưng không dứt đoạn.
Vẫn liền một mạch ngợi ca.
Phải là dân Quảng Trị, nhất là dân gốc Triệu Hải, mới rõ phụ nữ làng
Hội Yên(chứ không phải phố cổ Hội An nổi tiếng xứ Quảng) xinh đẹp, quyến
rũ như thế nào.
Mấy câu trích vui trên gợi tôi nhớ một kỉ niệm, một chuyến có
thực.Xin được thuật lại để minh họa mấy câu phương ngữ(mà riêng tôi vẫn
muốn gọi là đồng dao)
đầu năm 1947, mặt trận chống Pháp ở Thừa Thiên và biên giới lào
Việt vỡ. Kháng chiến lan rộng. Hồi ấy tơi đang phụ trách ban bình dân học vụ
huyện Hải Lăng. Chúng tôi dời cơ quan lên vùng chiến khu Nà Tiên, Bợơc
Lỡ... Được một thời gian ngắn thì có chủ trương cấp trên cho quay trở lại
đồng bằng bám dân, hoạt động.Chúng tôi về dọc bờ biển Triệu Phong - Hải
Lăng ven đường 68 vốn nỗi tiếng “con đường không vui” đối với quân đội
viễn chinh Pháp. Tiếp tục triển khai cơng tác xố mù chữ và bổ túc văn hố
trong thơn, xã.
Ban bình dân học vụ huyện gồm bảy tám anh chị em, chia nhau mỗi
người một địa bàn. Trong ban có anh bạn cùng quê với tôi, xuất thân hương
sư, nghèo kết nỗi tài hoa. Anh làm thơ khá hay. đặt biệt tiếng đàn thiết tha
điệu nghệ vọng ra từ cây đàn nguyệt của anh làm mê mẩn bao nhiêu người ở
quê cũng như cơ quan sơ tán.
Ban phân công anh về thôn Hội Yên. Cuối tuần, theo lịch công tác,
mọi người tập trung về địa điểm để hội ý, bàn giao. Không thấy anh bạn đâu.
Từân đầu vắng mặt. Tuần thứe hai vãn vắng mặt. Lo lắng chúng tơi cử người
sang thơn Hội n tìm hiểu. Anh bạn tôi cuối cùng trỡ về, không đi một
mình mà dẫn theo một cơ gái trẻ xinh, nồng nhiệt cực kì...<i>Hội n!</i> Anh bạn
tài hoa của tơi khơng những đã triển khai tốt cơng tác mà cịn thuyết phục
được gia đình cơ gái cho phép con đi “thốt ly”(tức là làm cán bộ chuyên
trách, theo một cách ngày nay). Đó là điều rất quý, Bỡi Hội Yên là thơn cơng
giáo tồn tịng, thời gian đầu kháng chiến, ít gia đình cho con thốt ly, đi
tham gia chiến đấu hoặc hoạt động xã hội.
Đĩ nhiên đôi nam nữ ấy thành gia thất.
Vừa qua , nhân đi cơng tác, tơi có dịp ghé thăm đội già. Tổi hỏi
vui:Vẫn nhớ đật sản quê đấy chứ? Ông cười :“Nhớ lắm. Làm sao quên được
ăn cơm bữa diếp. Nhớ cả bữa ăn tối ăn khoai - bữa mai ăn sắn - đội nắng
Đơng hà...”
Ơng bạn già của tơi dừng lại, khơng đọc nốt câu cuối. Vì người đàn bà
Hội Yên lúc ấy cũng đang có mặt, cùng chồng tiếp bạn đường xa. Tơi thống
trơng hình như bà tủm tỉm cười.