Tải bản đầy đủ (.doc) (17 trang)

G:những mối tình đẹp.doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (371.06 KB, 17 trang )

Bà Nubuko Nakamura (người Nhật), phu nhân cố Giáo sư (GS) Lương Định Của -
nhà nông học hàng đầu VN - năm nay đã 86 tuổi, nhưng nhìn rất trẻ và khỏe. Hiện bà
đang sống tại TP.HCM cùng con cháu.
Cách đây đúng 55 năm, bà theo chồng về VN, và nguyện sống suốt đời tại quê
hương thứ hai này dù chồng bà đã vĩnh viễn ra đi. Bà vừa có chuyến du lịch từ
TP.HCM ra Hà Nội, Lào Cai, và dự lễ trao giải thưởng Lương Định Của lần I tại ĐH
Nông nghiệp I. Bà đã dành cho Thanh Niên một cuộc trò chuyện cởi mở.
* Thưa bà Nubuko, bà và cố GS Lương Định Của đã gặp gỡ nhau trong hoàn cảnh
nào?
- Trước khi chiến tranh thế giới thứ II kết thúc, tôi là sinh viên ĐH quốc lập Kyushyu (Nhật
Bản). Chồng tôi (tên là Lương Định Của chứ không phải là Lương Đình Của như một số
người hay viết nhầm) là một trong số lưu học sinh thuộc các nước Đông Nam Á học
ngành trồng trọt tại trường này và chúng tôi quen nhau ở đó.
Sau khi tốt nghiệp, do muốn học cao hơn nữa, chồng tôi chuyển đến ĐH Kyoto nghiên
cứu về di truyền học tế bào. Năm 1945, kết thúc chiến tranh, được sự đồng ý của gia
đình, chúng tôi tổ chức đám cưới. Tôi kém chồng tôi 2 tuổi. Trong thời gian sống tại Nhật
Bản, chúng tôi đã có 2 con trai.
* Được biết, dù đã lấy vợ và sống ở Nhật, nhưng lúc nào chồng bà cũng nung nấu ý
định trở về Việt Nam để đem tài năng, sức lực ra giúp dân, giúp nước. Và mặc dù
Việt Nam đang bị ảnh hưởng bởi chiến tranh, nhưng bà vẫn nhiệt tình ủng hộ và theo
chồng về Việt Nam...
- Cũng năm 1945, khi nghe tin nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời, chồng tôi
rất vui mừng, phấn khởi. Đặc biệt, chồng tôi rất ngưỡng mộ, kính trọng Bác Hồ và
luôn tâm niệm sẽ trở về Việt Nam để phục vụ đất nước.
Năm 1952, sau khi chồng tôi lấy bằng Bác sĩ Nông học, gia đình tôi và bạn bè
khuyên ông nên đưa vợ con sang châu Âu hoặc đến Mỹ. Ở đấy, công danh sự
nghiệp nhất định thuận lợi hơn ở Nhật Bản.
Nhưng chồng tôi quyết định trở về Việt Nam. Ông thu thập các tư liệu, kết quả thí
nghiệm... làm tài sản cho chuyến trở về nước qua đường Trung Quốc để đến chiến
khu Việt Bắc. Nhưng chuyến đi không thuận lợi, gia đình tôi phải quay về Sài Gòn.
"Bạn bè tôi ở Nhật ngạc nhiên khi


thấy tôi sống ở Việt Nam, vì họ cho
rằng đất nước này nghèo nàn, lạc
hậu, cuộc sống không an toàn. Tôi
khuyên họ đến Việt Nam một
chuyến vì giá du lịch sang đây rẻ,
thế là họ đi. Sau khi đi ai cũng
muốn quay trở lại lần nữa...".
Lúc này Việt Nam đang là thuộc địa của Pháp, nên người Việt chịu rất nhiều bất
công về vật chất và tinh thần. Gia đình các em chồng đối xử với tôi rất tốt. Tuy nhiên,
phải một thời gian dài tôi mới hòa nhập được với phong tục tập quán VN.
* Được biết, trong thời gian GS Lương Định Của công tác ở Hà Nội, với kiến thức về
nông học của mình bà đã giúp đỡ GS rất nhiều trong việc lai tạo giống cây trồng?
- Năm 1954 cách mạng cử người liên lạc, đưa cả gia đình tôi từ Sài Gòn tập kết ra
miền Bắc. Lúc này tôi chưa nói được tiếng Việt. Tôi được Bộ Nông nghiệp sắp xếp
công tác giúp đỡ chồng trong công việc lai cây lúa.
Đây là công việc đòi hỏi tính tỉ mỉ, cẩn thận, kiên nhẫn, những người khác làm việc
này chồng tôi không tin tưởng.
* Và bà còn là biên dịch viên kiêm phát thanh viên tiếng Nhật của Ban tiếng Nhật,
Đài Tiếng nói Việt Nam...
- Tôi nhận lời làm việc tại đài phát thanh vì thấy phù hợp và mình có thể làm được.
Có một kỷ niệm không bao giờ quên khi tôi dịch và đọc bản tin ngày 30.4.1975, ngày
miền Nam Việt Nam được giải phóng.
Tôi như vẫn thấy không khí sôi nổi, phấn khởi của người dân lúc đó. Đã trải qua
những năm chiến tranh vất vả khi ở Nhật Bản cũng như ở Việt Nam, nên tôi không
thể nào quên ngày chiến tranh hoàn toàn kết thúc.
* Trong thời gian sống ở Hà Nội, chắc hẳn gia đình bà từng đón
tiếp nhiều nhà lãnh đạo của Đảng và Nhà nước đến thăm?
- Gia đình tôi ở gác 4, khu tập thể Kim Liên, Hà Nội. Trong số các vị lãnh đạo nhà
nước thời bấy giờ, quan tâm giúp đỡ chồng tôi nhiều nhất và được chồng tôi vô cùng
kính trọng, coi như người anh lớn của mình là ông Phạm Văn Đồng và ông Phạm

Hùng. Ông Phạm Văn Đồng đã đến thăm và chụp ảnh cùng gia đình.
Bà Nubuko thời trẻ
Còn ông Phạm Hùng nhiều lần mời gia đình đến dùng cơm. Tại những nơi chồng tôi
công tác có trồng nhiều cây, một số vị lãnh đạo có ghé thăm và chồng tôi có tặng họ
những loại hoa quả trồng ở đó.
* GS Lương Định Của được coi là một nhà nông học hàng đầu Việt Nam, từng được
trao tặng danh hiệu Anh hùng lao động (năm 1967), Giải thưởng Hồ Chí Minh
(1996)... Trong những thành công được ghi nhận của GS có phần đóng góp rất lớn
của bà, bà có tự hào về chồng mình?
- Các danh hiệu mà chồng tôi được Chính phủ và Quốc hội trao tặng là do nỗ lực
của bản thân ông cùng với sự góp sức rất nhiều của các đồng nghiệp. Trong đó,
quan trọng nhất là việc các vị lãnh đạo đã tạo điều kiện thuận lợi cả về vật chất lẫn
tinh thần để chồng tôi phát huy hết khả năng của mình phục vụ đất nước.
Bản thân tôi chỉ lo gánh vác việc nhà, nuôi dạy con cái để chồng yên tâm công tác.
Tôi rất tự hào vì chồng mình có phần đóng góp trong việc phát triển nền nông nghiệp
Việt Nam trong một giai đoạn rất khó khăn.
* Hơn 50 năm sống ở VN, bà có giữ mối liên lạc nào với quê hương và có dành thời
gian trở về Nhật thăm gia đình?
- Tôi được cho phép về thăm gia đình ở Nhật Bản hai lần vào năm 1972 và 1976
bằng kinh phí do nhà nước đài thọ (vé máy bay và vé tàu biển). Tôi rất biết ơn, vì
trong hoàn cảnh đất nước còn nhiều khó khăn, nhưng Chính phủ vẫn quan tâm săn
sóc đến cá nhân và gia đình tôi.
Lúc đó đi sang Nhật rất khó, do nước ta chưa có quan hệ ngoại giao với Nhật Bản.
Nhưng bây giờ thì khác, việc đi lại rất dễ dàng, hằng năm tôi đều về Nhật thăm gia
đình. Mặt khác thông tin liên lạc bây giờ hiện đại nên việc liên lạc với người thân ở
Nhật Bản rất thường xuyên.
* Vì sao bà nguyện sống suốt đời tại quê hương thứ hai này dù chồng bà đã vĩnh
viễn ra đi?
- Quan niệm của tôi là sống vì gia đình, vì chồng con. Tôi đã sống ở Việt Nam được
55 năm, đây cũng chính là quê hương của tôi. Hiện nay tôi thấy rất hạnh phúc vì

sống gần gũi với con cháu. Năm 1976, khi về thăm gia đình ở Nhật Bản (lúc này
chồng tôi đã mất), mẹ tôi có nói đưa hết cả gia đình về Nhật, bà sẽ lo cho.
Nhưng chồng tôi luôn nói rằng là người Việt Nam phải sống và làm việc ở Việt Nam
để phục vụ đất nước. Có thể ra nước ngoài để học tập, nghiên cứu nhưng mục đích
cuối cùng cũng là quay trở lại làm giàu cho quê hương mình.
Trong khi con cái tôi đang đi làm, học tại Việt Nam thì quay về Nhật Bản làm gì? Bây
giờ tôi thấy mình quyết định không về Nhật Bản là hoàn toàn đúng đắn và trong lòng
luôn cảm thấy hạnh phúc khi sống ở Việt Nam.
Bà Nubuko ở Bảo tàng Quang Trung
* Chứng kiến biết bao nhiêu thăng trầm của lịch sử, kinh tế, văn hóa..., bà có cảm
nhận gì về sự đổi thay của đất nước Việt Nam hôm nay?
- Việt Nam đang có nhiều thay đổi chóng mặt. Tôi vừa du lịch từ TP.HCM đến Lào
Cai, đâu đâu cũng thấy xây dựng, hai bên đường cây cối xanh tươi, nhà cửa đẹp đẽ,
nét mặt người dân luôn tươi vui... Năm 1955, lần đầu tiên tôi biết nông thôn miền
Bắc, không thể tưởng tượng được sự nghèo khổ của người nông dân khi đó. Chính
vì thế, tôi hiểu được lý do tại sao người Việt Nam hy sinh tất cả để đấu tranh giành
độc lập cho dân tộc, và quyết tâm xây dựng lại đất nước.
* Bằng những trải nghiệm của chính mình và sự quan sát những người Nhật khác
sống ở Việt Nam, bà có nhận xét gì về người nước ngoài nói chung và người Nhật
nói riêng sống ở Việt Nam?
- Bạn bè tôi ở Nhật ngạc nhiên khi thấy tôi sống ở Việt Nam, vì họ cho rằng đất nước
này nghèo nàn, lạc hậu, cuộc sống không an toàn. Tôi khuyên họ sang Việt Nam một
chuyến vì giá du lịch sang đây rẻ, thế là họ đi. Sau khi đi ai cũng muốn quay trở lại
lần nữa.
Họ ca ngợi Việt Nam phong cảnh rất đẹp, cái gì cũng rẻ, thức ăn ngon, an ninh trật
tự tốt, người Việt Nam rất hiếu khách. Nhiều người Nhật sang Việt Nam công tác
muốn ở lại sống ở đây sau khi hết hạn.
Họ đã lấy chồng, vợ người Việt Nam, chứng tỏ nước ta rất hấp dẫn người nước
ngoài. Chính phủ ta cũng có chế độ chính sách thích hợp, không phân biệt người
nước ngoài, người dân không kỳ thị chủng tộc.

* Mối tình của bà và cố GS Lương Định Của là minh chứng cho tình hữu nghị giữa
hai dân tộc. Bà có muốn nói điều gì với thế hệ trẻ hai nước hôm nay?
- Thế hệ trẻ ngày nay ít quan tâm đến quá khứ. Ở cả Việt Nam và Nhật Bản ngày
nay, thanh niên đều ít biết đến chiến tranh. Tôi có hỏi một cháu gái bán hàng lưu
niệm khoảng 17-18 tuổi ở Quảng Trị: "Ở đây trước kia chiến tranh rất ác liệt phải
không?". Cháu nói: "Không có, ở đây không bao giờ có chiến tranh cả!".
Nếu chúng ta không giáo dục cho thế hệ trẻ biết về sự khốc liệt của chiến tranh, thì
chúng sẽ không thấy giá trị của hòa bình ngày nay. Tôi nghĩ, muốn có nền hòa bình
bền vững để đất nước phát triển, những người trẻ tuổi cần phải thông hiểu lịch sử
đất nước mình.
* Xin cảm ơn bà.
Một bậc Minh Vương, một Danh Y đức độ &
một Mối Tình tuyệt đẹp
Tác giả: TRẦN NHẬT THU
Chuyện kể rằng: Vào mùa xuân năm 1533, công chúa Phương
Anh - con gái yêu của vua Lê Trung Tông lâm bệnh hiểm nghèo...
Các quan ngự y trong triều đã thúc thủ, bó tay. Bao nhiêu bài
thuốc hay trong nước cũng như của Trung Hoa được dâng lên
nhưng bệnh tình công chúa vẫn không thuyên giảm, trái lại ngày
càng nặng thêm. Ngày lo việc triều chính, đêm đêm vua lại về ngồi
cạnh giường bệnh con gái.
Cuộc đời cũng có lắm điều kỳ diệu, nhưng kỳ diệu hơn cả là
tình phụ/mẫu tử. Dù là bậc vua chúa hay thứ dân thì ai cũng thiết
tha với mạng sống của con cái mình. Vua Lê Trung Tông cũng
không ngoại lệ, bởi vua vốn là nguời giàu lòng nhân ái trong đời
thường, là bậc minh vương trong việc trị nuớc, chăm dân, quyết
không để con gái đi vào cõi chết. Vua truyền lệnh cho mời tất cả
lương y trong nước về kinh. Có người chỉ mới cầm tay bắt mạch,
xem sắc mặt công chúa thì vội cúi đầu lạy tạ lui ra.
Lúc bấy giờ ở làng Đa Sĩ, xă Kiến Hưng (Hà Đông) có đông y

tên là Hoàng Đôn Hòa, ngày đêm chăm lo bốc thuốc cứu người,
không từ nan bất cứ con bệnh nào, dù xa xôi cách trở đến đâu,
ông cũng đi cho bằng đuợc để thăm mạch kê đơn. Người nghèo
ông cứu mạng không lấy tiền. Hình như cái phù vân, phù du, công
hầu danh tướng ông đã cởi bỏ, không tơ hào đến giàu sang, phú
quý... Nguời từ cõi chết trở về qua tay ông không biết bao nhiêu
mà kể.
Nghe quần thần dâng bảo, vua Lê Trung Tông cho người tới
mời Hoàng Đôn Hòa về triều.
Từ chốn thôn quê vào nơi cung cấm, đông y Hoàng Đôn Hòa
không khỏi bối rối, e dè, ngập ngừng. Vả lại trước ông từng có bao
nhiêu bậc danh y đã không cứu nổi một người con gái! Công chúa
Phương Anh cũng là một mạng người, dù mạng người đó ở chốn
lầu son gác tía. Hoàng Đôn Hòa biết rằng nếu công chúa không
qua khỏi bệnh tình thì tiếng tăm ông cũng dần phai nhạt, không
còn dấu ấn gì trong cuộc đời! Mấy lần ông định thoái thác, nhưng
bổn phận của người thầy thuốc, của một lương y đức độ không
cho phép ông chùn buớc.
Và hình như tâm linh cho ông biết rằng đây là định mệnh, là số
phận của riêng ông. Năm đó ông mới bước sang tuổi 20...
Ngày đêm ông dốc lòng, dốc sức cứu chữa cho công chúa
bằng các bài thuốc đã chữa cho người nghèo, theo đó mà gia
giảm từng vị, rồi tự mình sắc thuốc dâng lên công chúa. Ông miệt
mài lo cho con bệnh mà bỏ ngoài tai những lời bàn tán xì xầm của
kẻ xấu, chỉ chực chờ ông thất bại. Các quan ngự y thì khinh mạn,
xem thường cho ông còn non nớt, khờ dại và chỉ mong ông "thân
bại danh liệt"...
Được Hoàng Đôn Hòa tận tụy cứu chữa, bệnh tình công chúa
thuyên giảm dần và qua được cơn "thập tử nhất sinh". Công chúa

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×