BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
..
TRƯỜNG ĐẠI HỌC CÔNG NGHỆ TP. HỒ CHÍ MINH
KHĨA LUẬN TỐT NGHIỆP
HỒN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ TRỌNG TÀI THƯƠNG MẠI
TRONG TRANH CHẤP KINH DOANH THƯƠNG MẠI
Ngành:
LUẬT KINH TẾ
Giảng viên hướng dẫn: PGS.TS BÀNH QUỐC TUẤN
Sinh viên thực hiện: Phan Thị Phương Tuyền
MSSV: 1411270478
Lớp: 14DLK09
TP. Hồ Chí Minh, năm 2018
LỜI CẢM ƠN
Em xin chân thành cảm ơn và sự tri ân sâu sắc đối với các thầy cô Trường Đại
học Cơng nghệ Thành phố Hồ Chí Minh và đặc biệt là đối với các thầy, cô khoa
Luật của trường đã tạo mọi điều kiện cho em học tập tốt nhất. Em cũng xin chân
thành cảm ơn thầy Bành Quốc Tuấn đã nhiệt tình hướng dẫn em hồn thành tốt
khóa luận tốt nghiệp.
Trong q trình làm khóa luận khó tránh khỏi sai sót, rất mong các Thầy, Cơ
bỏ qua. Đồng thời do trình độ lý luận cũng như kinh nghiệm thực tiễn cịn hạn chế
nên khóa luận khơng thể tránh khỏi thiếu sót, em rất mong nhận được ý kiến đóng
góp của Thầy, Cơ để em học hỏi thêm được nhiều kinh nghiệm hơn và hồn thành
tốt khóa luận tốt nghiệp này.
Em xin chân thành cảm ơn!
Sinh viên
Phan Thị Phương Tuyền
LỜI CAM ĐOAN
Tôi tên: PHAN THỊ PHƯƠNG TUYỀN
MSSV: 1411270478
Tôi xin cam đoan các số liệu, thông tin sử dụng trong Khóa luận tốt nghiệp
này được thu thập từ nguồn tài liệu đáng tin cậy, trên các sách báo khoa học chun
ngành (có trích dẫn đầy đủ và theo đúng qui định);
Nội dung trong khóa luận này do kinh nghiệm của bản thân được rút ra từ
quá trình nghiên cứu và kiến thức học được KHÔNG SAO CHÉP từ các nguồn tài
liệu, khóa luận khác.
Nếu sai sót Tơi xin hồn tồn chịu trách nhiệm theo qui định của Nhà
Trường và Pháp luật.
Sinh viên
Phan Thị Phương Tuyền
MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU ........................................................................................................1
1. Lý do chọn đề tài ................................................................................................1
2. Tình hình nghiên cứu đề tài ..............................................................................2
3. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu. ...............................................3
4. Phương pháp nghiên cứu. .................................................................................3
5. Kết cấu của khóa luận .......................................................................................4
CHƯƠNG 1: KHÁI QUÁT CHUNG VỀ TRỌNG TÀI THƯƠNG MẠI
TRONG TRANH CHẤP KINH DOANH THƯƠNG MẠI. .................................5
1.1 Khái niệm, đặc điểm tranh chấp kinh doanh thương mại và các phương
thức giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại. ..........................................5
1.1.1 Khái niệm, đặc điểm tranh chấp kinh doanh thương mại ...........................5
1.1.2 Các phương thức giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại ...............9
1.2 Khái quát về Trọng tài thương mại .............................................................13
1.2.1 Khái niệm, đặc điểm của Trọng tài thương mại........................................13
1.2.2 Các hình thức Trọng tài thương mại tại Việt Nam....................................15
1.2.3 Quá trình hình thành và phát triển của Trọng tài thương mại Việt Nam. 18
1.3 Sự hỗ trợ tư pháp đối với hoạt động của Trọng tài thương mại ...............20
1.3.1 Cơ sở thiết lập mối quan hệ giữa Tòa án và cơ quan thi hành án dân sự
đối với hoạt động của Trọng tài thương mại .....................................................20
1.3.2 Vai trò hỗ trợ tư pháp của Tòa án và cơ quan Thi hành án trong hoạt
động của Trọng tài thương mại ..........................................................................23
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1 ....................................................................................26
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG ÁP DỤNG PHÁP LUẬT HIỆN HÀNH VỀ
TRỌNG TÀI THƯƠNG MẠI VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ .................................27
2.1 Nội dung điều chỉnh của pháp luật hiện hành về Trọng tài thương mại và
thực tiễn áp dụng .................................................................................................27
2.1.1 Phạm vi thẩm quyền của Trọng tài thương mại .......................................27
2.1.2 Thỏa thuận Trọng tài thương mại .............................................................32
2.1.3 Trọng tài viên ............................................................................................37
2.1.4 Thi hành và hủy phán quyết Trọng tài .....................................................41
2.2 Một số kiến nghị góp phần hồn thiện pháp luật Trọng tài thương mại. 51
2.2.1 Hoàn thiện quy định về thẩm quyền giải quyết tranh chấp của Trọng tài.
............................................................................................................................51
2.2.2 Hoàn thiện quy định về thỏa thuận Trọng tài thương mại. .......................52
2.2.3 Hoàn thiện một số quy định về Trọng tài viên. .........................................52
2.2.4. Hoàn thiện về việc thi hành và hủy phán quyết Trọng tài .......................53
KẾT LUẬN CHƯƠNG 2 ....................................................................................55
KẾT LUẬN ..............................................................................................................56
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ...............................................................57
DANH MỤC VIẾT TẮT
Nội dung được viết tắt
Từ viết tắt
Luật Trọng tài thương mại năm 2010
Luật TTTM 2010
Cơ quan Thi hành án dân sự
Cơ quan THADS
Phán quyết trọng tài
PQTT
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Tồn cầu hố xã hội hóa và hội nhập kinh tế quốc tế là xu thế khách quan
của thời đại, lôi cuốn ngày càng nhiều nước tham gia, vừa thúc đẩy hợp tác, vừa
tăng cường sức ép cạnh tranh và tuỳ thuộc lẫn nhau giữa các nền kinh tế. Việc hội
nhập kinh tế quốc tế có ý nghĩa khá quan trọng đối với các nước đang phát triển,
nhất là đối với Việt Nam khi xây dựng nền kinh tế thị trường theo hướng cơng
nghiệp hố, hiện đại hố.
Hơn hai mươi hai năm đổi mới và mở cửa nền kinh tế nước nhà đã có
những chuyển biến tích cực, hợp tác và giao lưu thương mại ngày càng phát triển.
Song cũng trong bối cảnh đó, các quan hệ thương mại ngày càng trở nên đa dạng và
phức tạp. Các quan hệ này không chỉ được thiết lập giữa các chủ thể kinh doanh
trong nước mà cịn mở rộng tới các tổ chức nước ngồi. Chính vì vậy, tranh chấp
thương mại là điều khơng thể tránh khỏi và cần được quan tâm giải quyết kịp thời.
Pháp luật Việt Nam nói chung cũng như pháp luật thương mại Việt Nam nói riêng
đã quy định nhiều hình thức giải quyết tranh chấp như: thương lượng, hòa giải, Tòa
án hay Trọng tài. Với những quy định của pháp luật hiện hành đã góp phần giải
quyết các tranh chấp trong quan hệ thương mại một cách nhanh chóng, bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của các đương sự. Điển hình tiểu biểu nhất đó là phương
thức giải quyết bằng Trọng tài.
Phương thức giải quyết tranh chấp bằng Trọng tài đã tồn tại rất lâu trong
lịch sử phát triển của xã hội. Với những lợi thế vốn có của mình, Trọng tài đã được
nhiều quốc gia thừa nhận và trở thành phương thức tối ưu để giải quyết tranh chấp
khi các bên không tự thương lượng được với nhau. Ngày nay, hầu như tất cả các
nước đều có tổ chức Trọng tài của nước mình để giải quyết tranh chấp kinh doanh
thương mại quốc tế lẫn trong nước. Ở Việt Nam phương thức Trọng tài cũng được
ra đời rất sớm và được sửa đổi, bổ sung để phù hợp với nền kinh tế hiện nay.
Cùng với sự phát triển của nền kinh tế và xu thế hội nhập quốc tế thì tranh
chấp cũng ngày càng nhiều với tính chất và mức độ cũng ngày càng phức tạp.
Trước tình hình đó, việc lựa chọn phương thức nào để giải quyết tranh chấp có tầm
quan trọng đặc biệt bởi nó có thể quyết định mức độ thiệt hại của doanh nghiệp một
1
khi thương vụ bị đổ bể. Hiện nay, khơng có phương thức giải quyết tranh chấp nào
chiếm vị thế tuyệt đối cả. Căn cứ vào những ưu điểm vượt trội của Trọng tài thì
phương thức này đang được các doanh nghiệp lựa chọn, đặc biệt là đối với các tranh
chấp có yếu tố nước ngồi. Tuy vậy, phương thức này hiện nay vẫn còn bất cập bởi
pháp luật về Trọng tài thương mại 2010 có những quy định pháp luật chưa rõ ràng
gây khăn không nhỏ trong việc giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại
trong thời gian sắp tới. Vì vậy tơi đã lựa chọn đề tài “Hồn thiện pháp luật về
Trọng tài thương mại trong giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại” làm đề
tài nghiên cứu cho khóa luận tốt nghiệp của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Trọng tài thương mại đã và đang sử dụng phổ biến ở các nước và ở Việt
Nam. Vấn đề giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại bằng Trọng tài là một
trong những vấn đề được quan tâm không những trong nước mà còn đối với các
nước trên thế giới.
Vì vậy, trong thời gian qua đã có rất nhiều luật gia, học giả chú ý và nghiên
cứu về vấn đề này như: Tác giả Dương Văn Hậu có xuất bản sách “Trọng tài
thương mại Việt Nam trong tiến trình đổi mới” được xuất bản năm 1999; Tác giả
Đào Văn Hội có xuất bản cuốn sách “Hồn thiện pháp luật giải quyết tranh chấp
kinh tế ở nước ta hiện nay” được xuất bản năm 2004; Cuốn “Công nhận và thi hành
các quyết định của Trọng tài thương mại tại Việt Nam” của tác giả Nguyễn Trung
Tín được xuất bản năm 2005; Cuốn “Pháp luật và thực tiễn Trọng tài thương mại
quốc tế” năm 1986 được tái bản năm 2004;v.v..
Các bài viết của các học giả khác được đăng trên các tạp chí cũng nghiên
cứu giải quyết tranh chấp bằng Trọng tài. Cụ thể như sau: “Về mối quan hệ giữa
Tòa án và Trọng tài trong việc đảm bảo hiệu quả giải quyết tranh chấp kinh tế bằng
Trọng tài” của tác giả Dương Thanh Mai (tạp chí Nhà nước & pháp luật, số
12/1997); “Giải quyết tranh chấp bằng Trọng tài và cơ chế hỗ trợ của Tòa án” của
tác giả Lê Thị Bích Thoa (tạp chí nghiên cứu lập pháp, số 14 tháng 7/2009);
“Những nguyên lý cơ bản của cơ chế giải quyết tranh chấp bằng Trọng tài và áp
dụng xây dựng Luật Trọng tài ở Việt Nam” của tác giả Đào Ngọc Báu (tạp chí
Nghiên cứu lập pháp, số 158 tháng 11/2009); “Giải quyết tranh chấp bằng phương
thức Trọng tài ở Việt Nam” của tác giả Đỗ Văn Đại (Tạp chí khoa học pháp lý, số
6(43) /2003); “Vài nét về thực trạng Trọng tài thương mại Việt Nam” của tác giả
Lại Thế Anh (Tạp chí dân chủ và pháp luật, số 14 tháng 6/2007)v.v..
2
Ngồi ra cịn các luận văn, khóa luận tốt nghiệp như: “Một số vấn đề về
hoàn thiện pháp luật Trọng tài thương mại Việt Nam trong điều kiện hội nhập kinh
tế quốc tế” của Phạm Thị Hồng, trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh, năm
2009; “Một số vấn đề pháp lý về công nhận và cho thi hành phán quyết của Trọng
tài thương mại nước ngoài tại Việt Nam – Định hướng hoàn thiện” của Châu Mai
Hoàng Uyển, trường đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh, năm 2015;v.v..
Các cơng trình nghiên cứu đã trình bày khá rõ nhưng vẫn chưa thật sự đầy
đủ và xác đáng đối với tình hình giải quyết tranh chấp bằng Trọng tài hiện nay. Vì
thế tác giả xin dựa trên những kinh nghiệm và kiến thức của các cơng trình trên để
tiếp tục hoàn thiện pháp luật về Trọng tài thương mại trong giải quyết tranh chấp
kinh doanh thương mại.
3. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu.
Trong khóa luận này, tác giả nghiên cứu dựa trên Luật Trọng tài thương
mại năm 2010, Nghị định 63/2011/NĐ-CP ngày 28 tháng 07 năm 2011 của Chính
Phủ về việc quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật TTTM
2010, Nghị quyết số 01/2014/NĐ-HĐTP của Hội đồng thẩm phán Tòa án Nhân dân
tối cao hướng dẫn thi hành một số quy định của Luật TTTM 2010 và các quy định
có liên khác.
Trong phạm vi đề tài của mình tác giả nghiên cứu về khái niệm, đặc điểm
của Trọng tài thương mại tranh, trình bày về quá trình hình thành và phát triển của
Trọng tài thượng mại và sự hỗ trợ tư pháp đối với hoạt động của Trọng tài thương
mại và Tòa án. Tác giả còn nghiên cứu về nội dung điều chỉnh của pháp luật hiện
hành về Trọng tài thương mại như: thẩm quyền giải quyết tranh chấp của trong tài
thương mại, thỏa thuận Trọng tài thương mại, Trọng tài viên, thi hành và hủy pháp
quyết Trọng tài, đồng thời nêu lên thực trạng và đưa ra một số kiến nghị nhằm hoàn
thiện hệ thống pháp luật về Trọng tài thương mại.
4. Phương pháp nghiên cứu.
Trong quá trình nghiên cứu, để hồn thành khóa luận tốt nghiệp này, tác giả
đã vận dụng các phương pháp sau:
- Về phương pháp luận: dựa trên cơ sở duy vật biện chứng của Chủ nghĩa
Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh cùng với chủ trương, đường lối, chính sách
của Đảng Cộng sản Việt Nam.
3
- Về phương pháp khác: ngồi ra tác giả cịn sử dụng biện pháp phân tích,
so sánh, tổng hợp, khái quát lịch sử và thông qua tham khảo sách, báo, website, tạp
chí, v.v..
5. Kết cấu của khóa luận
Khóa luận được chia làm hai chương:
- Chương 1: Khát quát chung về Trọng tài thương mại trong tranh chấp kinh
doanh thương mại
- Chương 2: Thực trạng áp dụng pháp luật hiện hành về Trọng tài thương mại
và một số kiến nghị.
4
CHƯƠNG 1:
KHÁI QUÁT CHUNG VỀ TRỌNG TÀI THƯƠNG MẠI TRONG
TRANH CHẤP KINH DOANH THƯƠNG MẠI.
1.1 Khái niệm, đặc điểm tranh chấp kinh doanh thương mại và các
phương thức giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại.
1.1.1 Khái niệm, đặc điểm tranh chấp kinh doanh thương mại
Trong xã hội hiện nay, có thể nói tranh chấp thương mại là một hiện tượng
xung đột, mâu thuẫn bình thường trong nền kinh tế thị trường. Tranh chấp có thể
biểu hiện ở những dạng sau như: Tranh chấp trong kinh doanh được diễn ra giữa
các chủ thể tham gia kinh doanh, đó là những tranh chấp phát sinh trong các khoản
đầu tư, sản xuất đến tiêu thụ trên thị trường hoặc thực hiện dịch vụ trên thị trường
nhằm mục đích sinh lợi; Tranh chấp giữa nhà đầu tư với nước tiếp nhận đầu tư:
Loại tranh chấp này nảy sinh trong việc thực hiện các hợp đồng BOT, BTO, BT,
thực hiện điều ước quốc tế khuyến khích và bảo hộ đầu tư song phương hoặc đa
phương; Tranh chấp giữa các quốc gia trong việc thực hiện điều ước quốc tế song
phương và đa phương; Tranh chấp giữa các quốc gia với các thiết chế kinh tế quốc
tế trong việc thực hiện điều ước quốc tế về thương mại đa phương như: tranh chấp
giữa Mỹ và EU về nhập khẩu chuối tại Tổ chức Thương mại thế giới (WTO). 1
Trong các loại tranh chấp nói trên thì tranh chấp về kinh doanh thương mại
là loại hình tranh chấp phổ biến nhất. Thuật ngữ "tranh chấp" nói chung được hiểu
là sự bất đồng, mâu thuẫn về quyền lợi và nghĩa vụ phát sinh giữa các bên liên
quan. Những bất đồng, mâu thuẫn này có thể phát sinh từ những quan hệ xã hội do
nhiều ngành luật điều chỉnh nên chúng được gọi theo ngành luật đó.
Tại Việt Nam, khái niệm tranh chấp thương mại lần đầu tiên được quy định
trong Luật Thương mại năm1997. Theo quy định Điều 238 Luật Thương mại 2005
quy định: Tranh chấp thương mại là tranh chấp phát sinh do việc không thực hiện
hoặc thực hiện không đúng hợp đồng trong hoạt động thương mại. Theo đó, nội
hàm hoạt động thương mại theo quy định của Luật Thương mại năm 1997 rất hẹp
so với quan niệm quốc tế về thương mại. Hoạt động thương mại chỉ bao gồm ba
1
/>
5
nhóm: Hoạt động mua bán hàng hóa; cung ứng dịch vụ thương mại và các hoạt
động xúc tiến thương mại. Tranh chấp thương mại và hoạt động thương mại theo
quy định của Luật Thương mại năm 1997 đã loại bỏ rất nhiều tranh chấp mà xét về
bản chất thì các tranh chấp đó có thể được coi là các tranh chấp thương mại. Vì vậy
đã dẫn đến các xung đột pháp luật trong hệ thống pháp luật, giữa pháp luật quốc gia
và pháp luật quốc tế, trong đó có cả những Công ước quốc tế quan trọng mà Việt
Nam đã là thành viên (Công ước New York năm 1958) gây khơng ít những trở ngại,
rắc rối trong thực tiễn áp dụng và chính sách hội nhập. 2
Luật Trọng tài thương mại cũng xác định thẩm quyền giải quyết các tranh
chấp của Trọng tài thương mại, bao gồm: Tranh chấp giữa các bên phát sinh từ hoạt
động thương mại; Tranh chấp phát sinh giữa các bên trong đó ít nhất một bên có
hoạt động thương mại; Tranh chấp khác giữa các bên mà pháp luật quy định được
giải quyết bằng Trọng tài. 3
Theo Điều 29 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2004, sửa đổi bổ sung năm 2011
cũng đã liệt kê các tranh chấp về kinh doanh, thương mại thuộc thẩm quyền giải
quyết của Tòa án. Bộ Luật Tố tụng dân sự không sử dụng thuật ngữ “tranh chấp
thương mại” hay “tranh chấp trong kinh doanh” mà sử dụng thuật ngữ “tranh chấp
về kinh doanh, thương mại” nhưng các nội dụng nêu trên thực chất là các tranh chấp
thương mại theo hướng tiếp cận của Luật Thương mại năm 2005 và Luật Trọng tài
thương mại 2010. Tuy có sự khác nhau về cách biểu đạt và ngôn ngữ sử dụng,
nhưng nhìn chung quan niệm về hoạt động kinh doanh hay hoạt động thương mại
và tranh chấp trong kinh doanh hay tranh chấp thương mại được thể hiển qua các
quy định trong các văn bản pháp luật của Việt Nam hiện hành cũng khá nhất quán. 4
Tóm lại, có thể hiểu: Tranh chấp trong kinh doanh, thương mại là những
mâu thuẫn (bất đồng hay xung đột) về quyền và nghĩa vụ giữa các bên trong quá
trình thực hiện các hoạt động kinh doanh hoặc có liên quan đến hoạt động kinh
doanh.
Đặc điểm của tranh chấp kinh doanh, thương mại:
Tranh chấp thương mại là một hiện tượng xã hội. Ra đời, tồn tại và biến đổi
cùng quá trình hình thành và phát triển của nền kinh tế. Chính vì thế, mức độ, quy
Lê Hồng Hạnh, Khái niệm thương mại trong pháp luật Việt Nam và những bất cập dưới góc độ thực tiễn áp
dụng và chính sách hội nhập, Tạp chí Luật học số 2/2000.
3
Điều 2 Luật TTTM 2010.
4
/>2
6
mơ, hình thức nội dung tranh chấp phụ thuộc vào tính chất quy mơ của quan hệ
thương mại. Tranh chấp thương mại là một loại tranh chấp pháp lý có những đặc
điểm sau đây:
Thứ nhất, về chủ thể chủ yếu của tranh chấp thương mại phải là thương
nhân: quan hệ thương mại được thiết lập giữa các thương nhân với nhau hoặc giữa
thương nhân với bên không phải là thương nhân. Một tranh chấp được coi là tranh
chấp thương mại khi có ít nhất một bên là thương nhân. Ngồi ra, còn các trường
hợp cá nhân tổ chức khác cũng có thể là chủ thể của tranh chấp thương mại như:
tranh chấp giữa công ty – thành viên công ty; tranh chấp giữa các thành viên công
ty với nhau liên quan đến việc thành lập, hoạt động, hợp nhất, giải thể, chia, tách
công ty.
Thứ hai, căn cứ phát sinh tranh chấp kinh doanh thương mại là hành vi vi
phạm hợp đồng hoặc vi phạm pháp luật. Hầu như, tranh chấp kinh doanh thương
mại phát sinh do các bên có vi phạm hợp đồng và xâm hại lợi ích của nhau, tuy
nhiên cũng có thể có những vi phạm xâm hại lợi ích của các bên nhưng khơng làm
phát sinh tranh chấp. Nội dung của tranh chấp kinh doanh thương mại là những
xung đột về quyền, nghĩa vụ và lợi ích của các bên trong hoạt động thương mại. Các
quan hệ thương mại có bản chất là các quan hệ tài sản nên nội dung tranh chấp
thương liên quan trực tiếp tới lợi ích kinh tế của các bên. Ngồi ra, tranh chấp
thương mại còn chịu chi phối của các yếu tố cơ bản của hoạt động này như: mục
đích sinh lợi, các yêu cầu về thời cơ kinh doanh và u cầu giữ bí mật thơng tin liên
quan đến hoạt động kinh doanh.
Thứ ba, về các phương thức giải quyết tranh chấp thương mại: Tranh chấp
thương mại được giải quyết một cách thỏa đáng để bảo vệ quyền lợi của các bên,
giáo dục ý thức tôn trọng pháp luật của cơng dân, góp phần ngăn ngừa sự vi phạm
pháp luật trong hoạt động thương mại, bảo đảm trật tự và kỷ cương xã hội. Hiện
nay, tranh chấp kinh doanh thương mại được giải quyết bằng các phương thức:
thương lượng, hòa giải, Trọng tài thương mại và Tòa án. Mỗi phương thức giải
quyết tranh chấp thương mại có sự khác nhau về tính chất pháp lý, nội dung, thủ tục
và trình tự tiến hành. Các bên có quyền tự do lựa chọn phương thức phù hợp với nội
dung tính chất của tranh chấp và thiện chí của các bên.
Khái niệm giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại
7
Giải quyết tranh chấp trong kinh doanh, thương mại theo nghĩa chung nhất
có thể hiểu là cách thức, phương pháp hay các hoạt động để điều chỉnh các bất
đồng, các xung đột nhằm khắc phục và loại trừ các tranh chấp đã phát sinh khác,
bảo vệ trật tự kỷ cương xã hội. Nói một cách khác, giải quyết tranh chấp kinh doanh
thương mại chính là việc lựa chọn các hình thức, biện pháp thích hợp để giải tỏa các
mâu thuẫn, bất đồng, xung đột lợi ích giữa các bên, tạo được sự cân bằng về mặt lợi
ích mà các bên chấp nhận được. Trong nền kinh tế thị trường đạo đức kinh doanh
không phải lúc nào cũng được các bên tơn trọng, đặc biệt là giữ chữ tín với bạn
hàng. Vì lợi nhuận họ sẵn sàng có những hành động cố tình vi phạm hợp đồng hoặc
lừa đảo khách hàng v.v… làm thiệt hại cho đối tác, khách hàng. Bản thân mục tiêu
lợi nhuận khơng mang tính đạo đức nhưng cách thức để đạt được lợi nhuận thì có và
tranh chấp phát sinh, trong trường hợp này thuộc về lý do chủ quan. Rõ ràng trong
nền kinh tế thị trường quan hệ kinh tế trở nên sống động, đa dạng và phức tạp. Mục
đích nhằm tối đa hóa lợi nhuận trở thành động lực trực tiếp của các bên tham gia
quan hệ kinh tế thương mại. Trong điều kiện đó, tranh chấp là một vấn đề tất yếu,
không thể tránh khỏi, địi hỏi phải có sự quan tâm giải quyết một cách thỏa đáng.
Điều này vừa là một yêu cầu nghiêm ngặt của nguyên tắc pháp chế vừa là một địi
hỏi bức xúc của quan hệ kinh tế nói chung và quan hệ thương mại nói riêng. 5
Khi giải quyết tranh chấp trong kinh doanh, thương mại phải tuân thủ các
u cầu có tính chất ngun tắc sau đây:
- Phải giải quyết một cách nhanh chóng và dứt khốt hạn chế tối đa sự gián
đoạn của quá trình hoạt động kinh doanh của các bên.
- Phải đảm bảo tính dân chủ của các bên trong tồn bộ q trình giải quyết
tranh chấp kinh doanh thương mại.
- Hỗ trợ các bên khơi phục và duy trì các mối quan hệ hợp tác trong kinh
doanh.
- Phải bảo vệ uy tín của các bên trên thương trường. Đảm bảo các yếu tố bí
mật trong kinh doanh.
- Đạt hiệu quả thi hành cao nhằm bảo vệ một cách có hiệu quả lợi ích hợp
pháp của các bên.
5
Lê Học Lâm - Lê Ngọc Đức, Luật kinh doanh, Nxb. Lao động – xã hội, năm 2011, tr.337.
8
- Phải tạo điều kiện cho vấn đề về chi phí ít tốn kém nhất.
Một tranh chấp kinh doanh thương mại được giải quyết bằng Trọng tài
thương mại thì cần phải đáp ứng các điều kiện sau: tranh chấp xảy ra phải thuộc
phạm vi thẩm quyền giải quyết tranh châp của Trọng tài thương mại, các bên phải
có thỏa thuận Trọng tài dưới dạng hợp đồng hoặn hình thức thỏa thuận riêng nhưng
bắt buộc phải xác lập thành văn bản.
1.1.2 Các phương thức giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại
Hiện nay tranh chấp kinh doanh, thương mại được giải quyết bằng các
phương thức như: thương lượng, hòa giải, Trọng tài thương mại và tịa án. Mỗi
phương thức có sự khác nhau về tính chất pháp lý, nội dung của thủ tục, trình tự
tiến hành. Các bên có quyền tự do lựa chọn phương thức phù hợp, phụ thuộc vào lợi
thế mà mỗi phương thức có thể mang lại, mức độ phù hợp của phương thức so với
nội dung tính chất của tranh chấp và thiện chí của các bên.
• Thương lượng:
Thương lượng là phương thức giải quyết tranh chấp thông qua việc các bên
tranh chấp cùng nhau bàn bạc, dàn xếp để tự giải quyết những bất đồng phát sinh
nhằm loại bỏ tranh chấp giữa các bên.
Theo Giáo trình “Pháp luật cạnh tranh và giải quyết tranh chấp thương
mại” của Trường đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh, năm 2010 thì thương lượng
có những đặc điểm như sau:
Thứ nhất, các bên tranh chấp sẽ tự thỏa thuận để tìm kiếm hướng giải quyết
trên tinh thần tự nguyện, thiện chí, hợp tác với nhau. Khi tiến hành thương lượng,
các bên có thể trình bày quan niệm của mình, tìm hiểu nguyên nhân dẫn đến tranh
chấp và tìm kiếm giải pháp để chấm dứt xung đột. Tuy nhiên, cũng có trường hợp
các bên không đạt được thỏa thuận nào để giải quyết tranh chấp đã phát sinh mà có
thể làm cho tranh chấp trở nên trầm trọng hơn hoặc làm phát sinh nhiều tranh chấp
khác. Trong những trường hợp thương lượng khơng thành cơng như vậy, các bên có
thể tiếp tục lựa chọn hình thức giải quyết tranh chấp khác phù hợp để giải quyết
tranh chấp phát sinh.
Thứ hai, trong q trình thương lượng các bên khơng bị ràng buộc bởi
nguyên tắc pháp lý hay khuôn mẫu nào. Đây là ưu điểm và cùng là nhược điểm của
phương thức giải quyết tranh chấp này. Ưu điểm là ở chỗ do các bên tự nguyện và
9
tự mình đạt được thoả thuận về phương án giải giải quyết tranh chấp nên cũng dễ
dàng tự mình thực hiện phương án đó. Tuy nhiên, kết quả thương lượng hoàn toàn
phụ thuộc vào sự tự nguyện, hợp tác và thiện chí của các bên trong q trình thương
lượng. Nếu một bên khơng tự nguyện thi hành thỏa thuận đó thì khơng có bất cứ
ngun tắc pháp lý hay khn khổ nào bắt buộc thỏa thuận đó phải được thi hành.
Khi đó tính tự nguyện thi hành của phương án mà khơng có sự hỗ trợ của bên thứ
ba có mang quyền lực nhà nước sẽ trở thành nhược điểm của phương thức giải
quyết tranh chấp này.
Thứ ba, pháp luật của hầu hết các nước đều khơng có quy phạm điều chỉnh
trình tự, thủ tục của phương thức giải quyết này. Đặc điểm này xuất phát từ bản chất
của việc thương lượng là phương thức giải quyết tranh chấp mang tính hồn tồn tự
nguyện giữa các bên, từ cách thức giải quyết, nội dung phương án giải quyết tranh
chấp đến việc thi hành phương án đã thoả thuận được.
• Hịa giải:
Hòa giải là phương thức giải quyết tranh chấp với sự tham gia của bên thứ
ba độc lập do hai bên cùng chấp nhận hay chỉ định làm vai trò trung gian để hỗ trợ,
thuyết phục các bên tranh chấp tìm kiếm các giải pháp nhằm loại trừ tranh chấp đã
phát sinh. Kết quả hòa giải phụ thuộc vào thiện chí của các bên tranh chấp và uy tín,
kinh nghiệm, kỹ năng của trung gian hòa giải, quyết định cuối cùng của việc giải
quyết tranh chấp không phải trung gian mà hoàn toàn phụ thuộc vào các bên tranh
chấp. Bên thứ ba làm trung gian hòa giải phải tuyệt đối công bằng và vô tư với tất
cả các bên tranh chấp.
Hình thức giải quyết tranh chấp này có đặc điểm sau:
Thứ nhất, hòa giải là một biện pháp giải quyết tranh chấp kinh doanh
thương mại có sự tham gia của bên thứ ba do các bên lựa chọn. Hòa giải viên không
phải là người đưa ra phán quyết cuối cùng.
Thứ hai, hòa giải là bên trung gian giúp cho các bên tranh chấp thỏa thuận
với nhau về hướng giải quyết tranh chấp. Người trung gian có thể là cá nhân, tổ
chức luật sư, tư vấn, hoặc các tổ chức khác do các bên thỏa thuận lựa chọn. Người
này phải có vị trí độc lập với các bên và hồn tồn khơng có lợi ích liên quan đến
tranh chấp. Bên thứ ba làm trung gian không đại diện cho quyền lợi của bất cứ bên
nào và khơng có quyền đưa ra phán quyết.
10
Thứ ba, sự điều chỉnh, thỏa thuận về cách thức giải quyết các tranh chấp
phải do chính các bên tranh chấp quyết định. Các thỏa thuận, cam kết từ kết quả của
q trình hịa giải khơng có giá trị bắt buộc cưỡng chế thi hành mà phụ thuộc vào
thiện chí, sự tự nguyện của các bên.
• Tịa án:
Tịa án là phương thức giải quyết tranh chấp tại cơ quan xét xử nhân danh
quyền lực nhà nước, được tiến hành theo trình tự, thủ tục nghiêm ngặt, chặt chẽ và
bản án hay quyết định của tòa án về vụ tranh chấp nếu khơng có sự tự nguyện tn
thủ sẽ được đảm bảo thi hành bằng sức mạnh cưỡng chế của nhà nước.
Hình thức giải quyết tranh chấp bằng tịa án có đặc điểm sau:
Thứ nhất, giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại bằng Tòa án là
phương thức giải quyết tranh chấp trên cơ sở đơn khởi kiện của một bên bên tranh
chấp u cầu Tịa án có thẩm quyền giải quyết vụ án theo Bộ luật tố tụng dân sự
2015.
Thứ hai, Tòa án là cơ quan tài phán nhân danh quyền lực nhà nước để giải
quyết tranh chấp. Do đó, phán quyết của Tòa án (bản án hay quyết định) có giá trị
bắt buộc thi hành bằng sức mạnh cưỡng chế của nhà nước.
Thứ ba, việc giải quyết tranh chấp tại Tịa án phải tn thủ triệt để trình tự,
thủ tục tố tụng theo quy định của pháp luật.
Thứ tư, Tòa án giải quyết theo nguyên tắc xét xử tập thể và quyết định theo
đa số; xét xử theo nguyên tắc cơng khai trừ trường hợp giữ bí mật nghề nghiệp bí
mật kinh doanh theo yêu cầu chính đáng của các bên thì Tịa sẽ xét xử kín nhưng
tun án công khai.
Thứ năm, thủ tục giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại tại tòa
án.Thủ tục giải quyết kinh doanh, thương mại tại tòa án cũng như thủ tục giải quyết
tranh chấp về dân sự, hơn nhân và gia đình, lao động gồm có:
Thứ sáu, thủ tục giải quyết vụ án tại tịa án cấp sơ thẩm, gồm có: Khởi kiện
và thụ lý vụ án, hòa giải và chuẩn bị xét xử, phiên tòa sơ thẩm; thủ tục giải quyết tại
tịa án có cấp phúc thẩm.
11
Thứ tám, thủ tục xét lại bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật, bao
gồm: thủ tục giám đốc thẩm và thủ tục tái thẩm.
• Trọng tài thương mại:
Trọng tài là một phương pháp pháp lý để giải quyết tranh chấp ngồi tịa án,
theo đó các bên tranh chấp thỏa thuận đưa tranh chấp của mình đến một Trọng tài
viên hay một hội đồng Trọng tài để giải quyết theo quy định của Luật Trọng tài
thương mại và chấp nhận chịu sự ràng buộc về mặt pháp lý, tuân thủ phán quyết của
Trọng tài viên hay của hội đồng Trọng tài. Trọng tài thường được sử dụng để giải
quyết các bất đồng trong hoạt động thương mại, thường là thương mại quốc tế.
Theo Nguyễn Thị Hoài Thương “Pháp luật giải quyết tranh chấp kinh
doanh thương mại bằng tài phán ở Việt Nam” năm 2010 thì hình thức Trọng tài có
các dấu hiệu pháp lý cơ bản như sau:
Thứ nhất, Trọng tài là hình thức tài phán phi chính phủ, hoạt động theo
pháp luật và quy chế. Thẩm quyền giải quyết của Trọng tài giải quyết trong từng vụ
việc do các bên tranh chấp tự thỏa thuận quyết định và lựa chọn khơng phụ thuộc
vào địa giới hành chính.
Thứ hai, thời điểm lựa chọn là bất kỳ lúc nào và khơng phụ thuộc vào tính
chất pháp lý của hợp đồng.
Thứ ba, các bên có thể lựa chọn bất kỳ tổ chức Trọng tài nào trên thế giới
để giải quyết tranh chấp trong luật tư.
Thứ tư, các bên tranh chấp toàn quyền quyết định trong việc lựa chọn Trọng
tài viên giải quyết tranh chấp,
Thứ năm, có thể thỏa thuận luật áp dụng khi tranh chấp có yếu tố nước
ngồi, nếu khơng thỏa thuận, thì Trọng tài nước nào giải quyết thì áp dụng luật
nước đó.
Thứ sáu, phán quyết của Trọng tài được cơ quan thi hành án hoặc tòa án ra
quyết định thi hành tùy thuộc vào quy định của mỗi nước.
Thứ bảy, quy tắc Trọng tài ở các nước hầu như tuân thủ theo Bản quy tắc
mẫu Uncitral. Nguyên tắc xét xử không công khai, xét xử một lần, có giá trị chung
thẩm. Các phán quyết của Trọng tài có thể bị khiếu nại trước Tịa án.
12
Cuối cùng, tất cả các tổ chức Trọng tài đều có biểu phí Trọng tài dựa vào
tính chất vụ việc, giá trị tài sản tranh chấp, trình độ của Trọng tài viên. Trọng tài
phải tự hạch toán.
1.2 Khái quát về Trọng tài thương mại
1.2.1 Khái niệm, đặc điểm của Trọng tài thương mại.
Khái niệm Trọng tài thương mại
Theo Nguyễn Thị Hoài Phương, “Pháp luật giải quyết tranh chấp kinh
doanh thương mại bằng tài phán ở Việt Nam”, năm 2010 thì Trọng tài được hiểu
một phương thức giải quyết tranh chấp trong đó các bên giải quyết tranh chấp đồng
ý rằng một bên thứ ba trung lập (Trọng tài viên hay Hội đồng Trọng tài) sẽ ban
hành một quyết định có căn cứ pháp lý sau khi các bên đã có cơ hội trình bày vụ
tranh chấp của mình. Hoạt động của Trọng tài được xem như một cơ quan tài phán.
“Tài phán” được hiểu là sự phán quyết, quyết định trong hoạt động xét xử, giải
quyết tranh chấp. “Tài phán” là sự ghép nối của hai từ Hán “tài và phán”, “Tài”
nghĩa là “phân xử”, “Phán” nghĩa là “xét định”. “Tài phán” có nghĩa là xem xét,
phân xử, xét xử, quyết định đúng sai cho một tranh chấp trong xã hội.
Theo “Từ điển kinh tế thị trường từ A đến Z”: “Trọng tài là một cách giải
quyết bất đồng trong quan hệ công nghiệp mà không cần đưa ra pháp luật hay đình
cơng”.
Theo Hội đồng Trọng tài Mỹ (AAA): “Trọng tài là cách thức giải quyết
tranh chấp bằng cách đệ trình vụ án tranh chấp cho một số người khách quan xem
xét giải quyết và họ sẽ đưa ra quyết định cuối cùng, có giá trị bắt buộc các bên tanh
chấp phải thi hành”.
Theo quy định khoản 1 Điều 2 Pháp lệnh Trọng tài thương mại 2003:
“Trọng tài thương mại là phương thức giải quyết tranh chấp phát sinh trong hoạt
động thương mại được các bên thỏa thuận và được tiến hành theo trình tự, thủ tục
do Pháp lệnh này quy định”.
Theo quy định khoản 1 Điều 3 Luật TTTM 2010: “Trọng tài thương mại là
phương thức giải quyết tranh chấp do các bên thỏa thuận và được tiến hành theo
quy định của Luật này”.
13
Theo Trung tâm Trọng tài (VIAC) Trọng tài và cụ thể hơn là Trọng tài
thương mại là phương thức giải quyết tranh chấp do các bên thỏa thuận, có thể được
sử dụng thay thế cho phương thức giải quyết tranh chấp truyền thống bằng Tòa án,
mà các tranh chấp ở đây phải là các tranh chấp kinh doanh, thương mại thuộc thẩm
quyền giải quyết bằng Trọng tài theo quy định tại Điều 2 Luật TTTM 2010.
Trọng tài là phương thức giải quyết tranh chấp rất đơn giản. Các bên trong
tranh chấp thỏa thuận đưa tranh chấp của họ tới một chủ thể để giải quyết mà các
bên tin tưởng sự phán xét của chủ thể đó. Mỗi bên trình bày vụ việc của mình cho
người ra quyết định, một chủ thể tư - còn được gọi là "Trọng tài viên". Trọng tài
viên lắng nghe các bên, xem xét các tình tiết và lập luận của các bên và đưa ra quyết
định. Quyết định đó là chung thẩm và ràng buộc các bên. Sở dĩ quyết định mang
tính chung thẩm và ràng buộc bởi vì các bên đã tự thỏa thuận như vậy chứ không bị
cưỡng chế bởi bất kỳ nhà nước nào. Trọng tài thương mại có nhiều ưu điểm như thủ
tục đơn giản, linh hoạt theo thỏa thuận của các bên giúp giải quyết tranh chấp nhanh
chóng. Giải quyết tranh chấp bằng Trọng tài không công khai giúp doanh nghiệp
giữ bí mật được các thơng tin tranh chấp có thể gây ảnh hưởng tới hoạt động sản
xuất kinh doanh của mình. Nói ngắn gọn, Trọng tài là phương thức hiệu quả để đi
đến một quyết định có giá trị chung thẩm và ràng buộc các bên tranh chấp mà
không cần đưa ra Tịa án (bởi vì pháp luật Trọng tài quốc gia và các điều ước quốc
tế như Công ước New York đã thừa nhận các PQTT sẽ được Tòa án cho thi hành
một cách rộng rãi nếu bên thua kiện không tự nguyện thi hành). 6
Đặc điểm của Trọng tài thương mại
Trọng tài là một phương thức giải quyết tranh chấp thay thế cho tố tụng tại
Tòa án và tách khỏi hệ thống công quyền truyền thống. Giải quyết tranh chấp bằng
phương thức Trọng tài có những đặc điểm sau:
Thứ nhất, Trọng tài chỉ có thẩm quyền giải quyết một tranh chấp khi tranh
chấp đó thuộc phạm vi thẩm quyền của Trọng tài theo luật định và các bên tranh
chấp tự nguyện thỏa thuận lựa chọn Trọng tài để giải quyết. Tuy nhiên, khi các bên
đã có một thỏa thuận Trọng tài hợp pháp theo quy định của pháp luật áp dụng thì
việc giải quyết tranh chấp bằng Trọng tài trở thành một yêu cầu bắt buộc. Khi đó
Tịa án sẽ từ chối hoặc được coi là khơng có thẩm quyền giải quyết tranh chấp đó.
6
/>
14
Thứ hai, Trọng tài cũng là hình thức giải quyết tranh chấp với sự tham gia
của bên thứ ba khách quan. Tuy nhiên, khác với bên thứ ba trong hòa giải, bên thứ
ba này: có quyền đưa ra quyết định giải quyết tranh chấp, quyết định của Trọng tài
viên hoặc hội đồng Trọng tài là chung thực và có tính chất ràng buộc pháp lý đối
với các bên tranh chấp tương tự như một bản án của Tòa án.
Thứ ba, Trọng tài là một phương thức giải quyết tư (phi chính phủ) nên
Trọng tài khơng mang trong mình quyền lực nhà nước như Tòa án. Do phán quyết
của Trọng tài là chung thẩm và ràng buộc các bên như một bản án của Tòa án nên
giải quyết tranh chấp bằng Trọng tài được điều chỉnh bởi các quy định pháp luật cụ
thể. Nhiều quốc gia đã ban hành những quy định pháp luật về tổ chức và hoạt động
của Trọng tài. Đặc biệt, Ủy ban Luật Thương mại quốc tế của Liên hiệp quốc
(UCITRAL) cũng ban hành Luật mẫu về Trọng tài thương mại được rất nhiều quốc
gia trên thế giới dựa vào để ban hành để ban hành luật về Trọng tài của quốc gia
mình.
Thứ tư, tố tụng Trọng tài linh hoạt, mềm dẻo hơn Tòa án. Các bên tranh
chấp được quyền lựa chọn Trọng tài viên, quyết định ngôn ngữ, địa điểm và thời
gian xét xử.
Thứ năm, Trọng tài nhận được sự hỗ trợ của cơ quan có quyền lực nhà nước
trong quá trình hoạt động của mình như các hỗ trợ của Tòa án trong việc ra quyết
định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời, hỗ trợ cho Trọng tài viên đối với hình
thức Trọng tài vụ việc hay sự hỗ trợ của cơ quan Thi hành án đối với việc thi hành
quyết định của Trọng tài.
1.2.2 Các hình thức Trọng tài thương mại tại Việt Nam
Ngày nay, Trọng tài là một hình thức giải quyết tranh chấp không thể thiếu
trong nền kinh tế thị trường và ngày càng được các thương nhân ưa chuộng. Nhà
nước thường khuyến khích việc giải quyết tranh chấp bằng Trọng tài để giảm tải
cho Tịa án. Ở Việt Nam, hình thức Trọng tài cịn có sự phân biệt giữa Trọng tài giải
quyết tranh chấp có yếu tố nước ngồi (thường gọi là Trọng tài quốc tế) và Trọng
tài giải quyết tranh chấp khơng có yếu tố nước ngồi (thường gọi là Trọng tài trong
nước). Vì vậy, hình thức giải quyết tranh chấp bằng phương thức Trọng tài khá đa
dạng.
* Trọng tài quy chế:
15
Loại hình Trọng tài hoạt động thường xuyên, thường được gọi là Trọng tài
thường trực hay Trọng tài quy chế. Theo khoản 6 Điều 3 Luật TTTM 2010 định
nghĩa như sau: “Trọng tài quy chế là hình thức giải quyết tranh chấp tại một trung
tâm Trọng tài theo quy định của Luật này và quy tắc tố tụng của trung tâm Trọng
tài đó.”
Ở Việt Nam, hiện có Trung tâm Trọng tài quốc tế bên cạnh Phịng Thương
mại và Cơng nghiệp Việt Nam (VIAC), Trung tâm Trọng tài thương mại Hà Nội,
Trung tâm Trọng tài thương mại thành phố Hồ Chí Minh, Trung tâm Trọng tài
thương mại Á Châu, v.v.. Đây là một số trung tâm Trọng tài mang loại hình Trọng
tài quy chế.
Đối với Trọng tài thường trực thì có ưu điểm lớn nhất là các tổ chức này
thường có những quy tắc tố tụng riêng, trong đó, quy định cụ thể, chi tiết các bước
tố tụng. Bên cạnh cũng có hạn chế như chi phí cao hơn so vớ Trọng tài vụ việc vì
phải duy trì bộ máy thường trực, văn phịng. Ngồi ra, các tổ chức Trọng tài này
cịn thu thêm chi phí hành chính.
* Trọng tài Ad-hoc (hay Trọng tài vụ việc):
Theo khoản 7 Điều 3 của Luật TTTM 2010 thì loại hình Trọng tài này được
nhìn nhận như sau: “Trọng tài vụ việc là hình thức giải quyết trang chấp theo quy
định của Luật này và trình tự, thủ tục do các bên thỏa thuận”.
Theo Đỗ Văn Đại – Trần Hoàng Hải, “Pháp luật Việt Nam về Trọng tài
thương mại”, năm 2011 thì loại hình Trọng tài này khơng có cơ quan thường trực,
do các bên tranh chấp lập ra để giải quyết tranh chấp mà họ u cầu. Trọng tài Adhoc khơng có quy chế riêng và khi giải quyết xong thì giải tán. Trong loại hình này,
các bên phải tự thỏa thuận và lập ra quy tắc tố tụng, Trọng tài viên và địa điểm xét
xử. Giải quyết tranh chấp bằng Trọng tài Ad-hoc đơn giản, nhanh chóng và tiết
kiệm được chi phí do khơng phải trả chi phí cho bộ máy hành chính. Đây là biện
pháp giải quyết mềm dẻo, linh hoạt, phán quyết của Trọng tài Ad-hoc vẫn được
công nhận. Tuy nhiên, Trọng tài Ad-hoc có nhược điểm là hiệu quả của nó phụ
thuộc vào tinh thần hợp tác của các bên và cần có sự giúp đỡ của một hệ thống pháp
luật hồn chỉnh. Trình tự xét xử dễ bị trì hỗn nếu một bên khơng thống nhất được
thủ tục giải quyết tranh chấp hoặc trở ngại trong việc lựa chọn Trọng tài viên. Tại
Việt Nam, loại hình này trong thực tế không thật sự phát triển.
16
* Trọng tài trong nước:
Đây là Trọng tài Việt Nam giải quyết tranh chấp khơng có yếu tố nước
ngồi. Đối với Trọng tài trong nước, “ngôn ngữ sử dụng tố tụng Trọng tài là tiếng
Việt, trừ trường hợp tranh chấp có ít nhất một bên là doanh nghiệp có vốn đầu tư
nước ngồi. Trường hợp bên tranh chấp khơng sử dụng được tiếng Việt thì được
chọn người phiên dịch ra tiếng Việt (khoản 1 Điều 10 Luật TTTM 2010). Pháp luật
điều chỉnh để giải quyết tranh chấp của Trọng tài này là pháp luật Trọng tài Việt
Nam được quy định tại khoản 1 Điều 14 Luật TTTM 2010.
* Trọng tài quốc tế:
Đây là một trong những Trọng tài phổ biến nhất Việt Nam hiện nay và đây
cũng là thuật ngữ đươc dùng nhiều trong nhiều tài liệu nhưng không được ghi nhận
chính thức trong pháp luật Trọng tài thương mại. Thực chất, Trọng tài quốc tế ở
Việt Nam là Trọng tài có thẩm quyền giải quyết tranh chấp có yếu tố nước ngoài.
Điểm khác biệt giữa Trọng tài quốc tế và Trọng tài trong nước: Về nguyên tắc,
trong tranh chấp khơng có yếu tố nước ngồi thì ngơn ngữ sử dụng là Tiếng Việt.
Đối với Trọng tài quốc tế, có yếu tố nước ngồi thì ngơn ngữ sử dụng trong tố tụng
là do các bên thỏa thuận, nếu các bên khơng có thỏa thuận thì do hội đồng trọng
quyết định được quy định tại khoản 2 Điều 10 Luật TTTM 2010; Về pháp luật điều
chỉnh, tranh chấp khơng có yếu tố nước ngồi thì do Pháp luật Việt Nam điều chỉnh.
Đối với tranh chấp có yếu tố nước ngồi thì do các bên tự thỏa thuận lựa chọn, nếu
không thỏa thuận được thì hội đồng Trọng tài sẽ áp dụng pháp luật mà hội đồng
Trọng tài coi là phù hợp nhất (khoản 2 Điều 14 Luật TTTM 2010). 7
Để thực sự áp dụng chính xác được các quy định trên, trước hết chúng ta
nên xem xét tranh chấp thật kỹ càng xem tranh chấp đó có yếu tố nước ngồi hay
khơng và xem xét theo các có yếu tố được quy định trong Bộ Luật Dân sự (khoản 4
Điều 3 Luật TTTM 2010).
* Trọng tài nước ngoài:
Theo khoản 11 Điều 3 Luật TTTM 2010 quy định thì: “Trọng tài nước
ngồi là Trọng tài được thành lập theo quy định của pháp luật Trọng tài nước
ngoài do các bên tranh chấp thỏa thuận lựa chọn để giải quyết tranh chấp bên
Đỗ Văn Đại – Trần Hoàng Hải, Pháp luật Việt Nam về Trọng tài thương mại, Nxb. Chính trị Quốc gia, năm
2011, tr.25-26
7
17
ngoài lãnh thổ Việt Nam hoặc trong lãnh thổ Việt Nam”. Còn Trọng tài Việt Nam
được là Trọng tài được thành lập theo pháp luật Việt Nam.
Việc phân biệt Trọng tài Việt Nam và Trọng tài nước ngồi có ý nghĩa vô
cùng quan trọng trong việc giải quyết những vấn đề sau khi PQTT được ban hành.
Nếu là phán quyết của Trọng tài Việt Nam thì được thi hành khơng cần phải thông
qua thủ tục công nhận và cho thi hành, phán quyết này chỉ có thể bị Tịa án xem xét
thông qua chế định hủy PQTT được quy định trong Luật TTTM 2010. Nếu là phán
quyết của Trọng tài nước ngồi thì để được cơng nhận, cho thi hành ở Việt Nam,
cần phải áp dụng chế định công nhận và cho thi hành quyết định của Trọng tài nước
ngoài được quy định trong Công ước New York hay Bộ luật Tố tụng dân sự. 8
Theo Điều I (1) của Cơng ước New York, phán quyết của Trọng tài nước
ngồi là các “PQTT được ban hành trên lãnh thổ của quốc gia không phải là quốc
gia được yêu cầu công nhận và cho thi hành” và các PQTT “không được coi là
PQTT trong nước tại quốc gia được yêu cầu công nhận và thi hành”. Như vậy, theo
khoản 3 Điều 424 Bộ Luật tố tụng dân sự, khoản 11 Điều 3 và khoản 12 Điều 3
Luật TTTM 2010, một vụ tranh chấp tại Trọng tài được coi là Trọng tài “nước
ngoài” theo luật Việt Nam và phán quyết do Hội đồng Trọng tài ban hành được coi
là “phán quyết nước ngoài” theo pháp luật Việt Nam trong những trường hợp sau,
bất kể địa điểm giải quyết tranh chấp bằng Trọng tài là bên trong hay ngoài lãnh thổ
Việt Nam (khoản 11 Điều 3 Luật TTTM 2010): Khi thủ tục tố tụng Trọng tài được
điều chỉnh bởi pháp luật Trọng tài nước ngoài hoặc vụ tranh chấp được giải quyết
tại một tổ chức Trọng tài thương mại nước ngoài được thành lập theo pháp luật
Trọng tài nước ngồi. 9
1.2.3 Q trình hình thành và phát triển của Trọng tài thương mại Việt Nam.
Tòa Trọng tài là một trong những phương thức cổ xưa nhất để giải quyết
bất hòa giữa người với người, giữa quốc gia với quốc gia. Người Hy Lạp và La Mã
cổ đại đã biết sử dụng phương thức này để giải quyết tranh chấp. Quy định sơ khai
về Trọng tài trong luật mua bán hàng hóa cho phép các lái bn được tự phân xử
bất hịa của mình khơng cần có sự can thiệp của Nhà nước. Về sau Luật La Mã cho
phép mở rộng phạm vi tranh chấp, khơng chỉ trong biên giới lãnh thổ, mà cịn ở
Đỗ Văn Đại – Trần Hoàng Hải, Pháp luật Việt Nam về Trọng tài thương mại, Nxb. Chính trị Quốc gia, năm
2011, tr.27-28.
9
Tòa án nhân dân tối cao -World bank group, Sổ tay pháp luật về Trọng tài và hòa giải, Nxb. Thanh niên,
năm 2017, tr. 23.
8
18
những nước La Mã có trao đổi hàng hóa, có nghĩa là trải rộng trên hầu khắp lục địa
Châu Âu.
Phương thức giải quyết tranh chấp bằng Trọng tài được ghi nhận lần đầu
tiên trong Sắc lệnh số 29 ngày 12/3/1947 của Chủ tịch nước. Sau đó, do tác động
của yếu tố lịch sử nên mãi đến 14/11/1960, Thủ tướng Chính phủ mới ban hành
Nghị định 20/TTg về Tổ chức Trọng tài Kinh tế Nhà nước. Từ năm 1960 đến trước
1/7/1994, Trọng tài Kinh tế (Hội đồng Trọng tài kinh tế được gọi tên là Trọng tài
kinh tế theo NĐ 24/HĐBT ngày 10/8/1981) từ chỗ là cơ quan Nhà nước có chức
năng chủ yếu là xử lý các vi phạm hợp đồng kinh tế (Nghị định số 20/TTg ngày
14/01/1960), đã phát triển thành một cơ quan Nhà nước có chức năng chủ yếu là
quản lý công tác hợp đồng kinh tế hoạt động theo các quy định của Nghị định số
75/CP ngày 14/04/1975, Nghị định số 24/HĐBT ngày 10/08/1981, Nghị định số
62/HĐBT ngày 17/04/1984 và Pháp lệnh Trọng tài kinh tế ngày 12/01/1990. Theo
các văn bản pháp luật này, Trọng tài kinh tế nhà nước là cơ quan nhà nước thuộc hệ
thống hành pháp được tổ chức từ Trung ương đến địa phương có mối quan hệ tổ
chức và tố tụng với nhau. Về bản chất, chúng vừa có chức năng của cơ quan tư pháp
(giải quyết tranh chấp hợp đồng kinh tế) vừa có chức năng của cơ quan hành pháp
(đăng ký kinh doanh) và tham gia trực tiếp vào việc quản lý và tổ chức các hoạt
động kinh tế. 10
Khi đất nước chuyển sang cơ chế kinh tế mới phương thức giải quyết tranh
chấp kinh tế cũng đòi hỏi phải đổi mới. Chính vì vậy, từ ngày 28/12/1993, theo luật
sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Tổ chức Tòa án nhân dân, Tòa kinh tế
chuyên trách được hình thành trong hệ thống Tịa án nhân dân với chức năng giải
quyết các tranh chấp kinh tế. Đồng thời, hệ thống Trọng tài được giải thể.
Trước những đòi hỏi khách quan về đa dạng hố các hình thức và phương
thức giải quyết tranh chấp trong kinh doanh phù hợp với đặc điểm của cơ chế thị
trường, cũng như góp phần đẩy nhanh quá trình hội nhập quốc tế, ngày 05/09/1994,
Chính phủ đã ban hành Nghị định số 116/CP về tổ chức và hoạt động của các Trung
tâm Trọng tài kinh tế. Theo các quy định của Nghị định này, Trọng tài kinh tế phi
Chính phủ được xác định là một tổ chức xã hội – nghề nghiệp, tức là tổ chức phi
chính phủ có thẩm quyền giải quyết một số tranh chấp theo quy định, hoàn toàn
tách rời với chức năng quản lý Nhà nước như trước đây.
Đến năm 1995, Việt Nam gia nhập Công ước New York, đánh dấu sự cải
thiện đáng kể môi trường pháp lý trong nước nhằm tạo thuận lợi trong việc thu hút
Võ Trung Tín, Cơng nhận và thi hành các phán quyết của Trọng tài thương mại Việt Nam, Nxb. Tư pháp,
năm 2005, tr.68
10
19