THỰC TRẠNG CÔNG TÁC CHI TRẢ BHXH BẮT BUỘC TẠI
BHXH TỈNH CAO BẰNG
2.1 Công tác quản lý đối tuợng huởng tại tỉnh
Công tác quản lý đối tượng thụ hưởng các chế độ đóng vai trò rất quan
trọng đối với công tác chi trả. Nếu quản lý các đối tượng thụ hưởng, nắm chắc
số lượng và thành phần của các đối tượng này thì việc chi trả sẽ được thực hiện,
đảm bảo an toàn kịp thời mà không vướng phải sai sót nào. Đồng thời tránh
được thất thoát do lạm dụng quỹ.
Nhận thức được vai trò quan trọng của công tác quản lý đối tượng thụ
hưởng và hướng tới thực hiện mục tiêu phấn đấu của toàn ngành là chi trả an
toàn, đủ số, kịp thời đến tận tay đối tượng, BHXH tỉnh đã thường xuyên quan
tâm chỉ đạo công tác chi trả các chế độ. Yêu cầu các đơn vị phải nắm rõ số lao
động thuộc đơn vi mình quản lý, thực hiện báo tăng, báo giảm kịp thời để
BHXH tỉnh có sự điều chỉnh phù hợp. Việc thực hiện chi trả BHXH cũng thông
qua phương thức chi trả gián tiếp thông qua đại diện chi trả ở các xã. Cho nên,
BHXH tỉnh cũng yêu cầu, các đại diện chi trả cũng cần phải có trách nhệm
trong việc thông báo những sai lệch về đối tượng hưởng.
Hiện nay đơn vị đang quản lý 5 nhóm đối tượng hưởng, bao gồm:
- NLĐ hưởng các chế độ ốm đau, thai sản, TNLĐ- BNN
- NLĐ hưởng chế độ dưỡng sức phục hồi sức khoẻ sau khi hết thời hạn
nghỉ ốm đau, thai sản, TNLĐ- BNN mà sức khoẻ còn yếu
- NLĐ hưởng lương hưu, BHXH một lần;
- NLĐ hưởng chế độ tử tuất và thân nhân của NLĐ hưởng chế độ tuất
tháng;
- NLĐ hưởng trợ cấp thất nghiệp và chính thức thực hiện chi trả bắt đầu từ
năm 2010
Đồng thời, BHXH tỉnh quản lý trực tiếp những đơn vị SDLĐ có NLĐ đủ
điều kiện hưởng các chế độ BHXH theo quy định của Luật BHXH.
Tổng hợp số đối tượng thụ hưởng các chế độ BHXH trong những năm qua
được thể hiện qua bảng số liệu sau:
Bảng 1: Số đối tượng hưởng cơ quan BHXH quản lý qua các năm
Đơn vị : lượt người
STT Chế độ 2008 2009 2010
1 Hưu trí 16.970 17.537 18.647
2 Ốm đau 6.269 5.832 5.209
3 Thai sản 1.142 1.294 1.373
4 TNLĐ - BNN 91 94 100
5 Dưỡng sức PHSK 769 767 676
6 Tử tuất 1.941 1.917 2.033
7 Mai táng phí 455 463 545
8 Trợ cấp 1 lần 897 904 932
Tổng 28.534 28.808 29.515
( Nguồn BHXH tỉnh Cao Bằng)
Qua bảng số liệu ta thấy, chế độ hưu trí luôn chiếm tỷ trọng cao nhất trong
các công tác chi trả của tính, chiếm tới 63,2% (năm 2010), còn chế độ TNLĐ –
BNN chiếm tỷ trọng ít nhất. Nhìn chung tổng số đối tượng hưởng và đối tượng
hưởng ở mỗi chế độ là thay đổi qua các năm, nhưng đều có xu hướng tăng, tốc
độ tăng cũng khá chậm. Nguyên nhân của sự gia tăng về sự gia tăng về số đối
tượng hưởng các chế độ là do, đối tượng tham gia BHXH ngày càng tăng, nên
kéo theo đó số đối tượng hưởng cũng tăng lên tương ứng. Ngoài ra chế độ hưu
trí vẫn luôn chiếm tỷ trọng cao nhất trong công tác chi trả bới số lượng người về
hưu đang gia tăng, nghỉ theo Nghị định số 132/ NĐ-CP về tinh giản biên chế,
nhất là đối với khu vực hành chính sự nghiệp.
2.2 Công tác kế hoạch tài chính và chi trả chế độ BHXH
Hàng năm cơ quan BHXH chủ động nguồn kinh phí chi trả các chế độ
BHXH thường xuyên và đáp ứng được nhu cầu chi của các đơn vị trong ngành,
với lượng kinh phí lớn nhưng toàn ngành quản lý chặt chẽ, không để mất, không
để thiếu, không để thất thoát tiền của Nhà nước, chi trả đúng mục đích, tổ chức
xét duyệt quyết toán hàng quý theo đúng chế độ kế toán hiện hành. Trong các
hoạt động chi thường xuyên cơ quan BHXH luôn thực hiện tiết kiệm chi đúng
mực để trích lập quỹ khen thưởng, phúc lợi. Toàn ngành đã thực hiện tốt công
tác quản lý tài chính, đảm bảo mức chi chung theo quy định chi các khoản phát
sinh đột xuất khác nếu có. Mức chi cho các chế độ BHXH trong 3 năm qua của
BHXH tỉnh Cao Bằng được thể hiện qua bảng số liệu sau
Bảng 2 : Bảng tổng hợp số tiền chi trả chế độ BHXH trong 3 năm
Đơn vị : đồng
Năm
Tổng tiền
(đồng)
NSNN
(đồng)
Quỹ BHXH
(đồng)
Tỷ lệ (%)
NSNN
Quỹ
BHXH
2008 338.533.829.083 250.544.242.200 87.989.586.883 74,01 25,99
2009 412.138.651.089 283.853.614.290 128.285.036.799 68,87 31,13
2010 463.435.268.254 297.800.204.450 165.635.063.804 64,26 35,74
(Nguồn BHXH tỉnh Cao Bằng)
Theo quy định, những người hưởng BHXH từ ngày 31/12/1994 trở về
trước do NSNN đảm bảo. Hàng năm, Nhà nước chuyển kinh phí từ NSNN vào
Quỹ BHXH để chi trả lương hưu và trợ cấp BHXH cho những đối tượng này, cơ
quan BHXH có trách nhiệm chi trả các chế độ BHXH cho đối tượng này theo
quy định của Nhà nước. Những người hưởng BHXH từ ngày 01/01/1995 trở đi
thì sẽ do Quỹ BHXH đảm bảo.
Nhìn vào bảng số liệu ta thấy tỷ lệ nguồn chi trả từ NSNN vẫn chiếm một
tỷ trọng lớn. So với thời gian trước đây thì tỷ trọng chi từ NSNN giảm dần,
nhưng tốc độ giảm còn chậm, điều này đồng nghĩa với việc giảm gánh nặng cho
ngân sách. Xét trên tổng tỷ lệ chi thì số tiền chi trả của năm sau luôn cao hơn
năm trước, một phần là do số đối tượng tham gia ngày càng tăng cộng thêm mức
hưởng của các đối tượng cũng ngày một tăng theo.
Năm 2008 đến 2010 là giai đoạn mà Luật BHXH đi vào thực tế sau một
năm thực hiện ở nước ta. Luật BHXH ra đời có nhiều thay đổi về chế độ BHXH
đối với NLĐ, theo đó quy trình, hồ sơ thủ tục, giải quyết chế độ BHXH cũng có
nhiều thay đổi, công tác quản lý chi trả chế độ BHXH cũng thay đổi nhiều hơn
so với trước và được thực hiện theo Quyết định số 845/QĐ-BHXH của Tổng
giám đốc BHXH Việt Nam. Ban đầu thực hiện theo những thay đổi đó cũng
không tránh khỏi những thiếu xót và vướng mắc. Mặc dù vậy, BHXH tỉnh Cao
Bằng vẫn luôn cố gắng trong công tác nhiệm vụ, đảm bảo công tác chi trả đúng,
đủ, an toàn và không để xảy ra trường hợp khiếu nại vì chi trả sai.
Cụ thể, trong năm 2008 BHXH tỉnh Cao Bằng đã thực hiện chi trả lương
hưu trợ cấp BHXH cho các đối tượng trên địa bàn tỉnh với tổng số tiền lên đến
hơn 338 tỷ, trong đó số tiền chi từ NSNN chiếm hơn 74% và từ quỹ BHXH
chiếm gần 30%. Sang năm 2009, tỷ trọng số tiền chi trả từ NSNN và từ quỹ
BHXH có sự thay đổi, quỹ từ NSNN giảm xuống còn 68,87% và quỹ BHXH
chiếm 31,13%. Và năm 2010, tỷ trọng chi từ hai nguồn này tiếp tục thay đổi, tỷ
trọng tiền chi từ NSNN giảm xuống còn 64,26% còn quỹ BHXH tăng lên, chiếm
35,74%. Điều này dễ lý giải là do sự biến động về các đối tượng hưởng, Đối
tượng hưởng chế độ được NSNN đảm bảo là những đối tượng được hưởng trước
ngày 01 tháng 01 năm 1995, trở về sau là do Quỹ BHXH đảm bảo, như vậy các
đối tượng hưởng từ nguồn NSNN ngày càng giảm, còn các đối tượng hưởng chế
độ do quỹ BHXH ngày càng tăng lên, do đó làm cho tỷ trọng chi từ hai nguồn
này có sự thay đổi, dù tổng số tiền chi trả vẫn tăng do sự gia tăng về
số lượng đối tượng hưởng, mức tiền lương tối thiểu tăng, mức trợ cấp cũng tăng
lên
2.3 Công tác chi trả BHXH ngắn hạn ( Ốm đau, thai sản, dưỡng sức
PHSK )
2.3.1. Tổ chức chi trả.
Đối với các chế độ ngắn hạn: hàng tháng, BHXH tỉnh tiếp nhận hồ sơ của
các đơn vị SDLĐ do BHXH tỉnh trực tiếp quản lý, trong đó các đơn vị đã giữ lại
2% tổng quỹ lương đóng BHXH vào quỹ ốm đau thai sản để kịp thời chi cho
người tham gia BHXH khi bị ốm đau, thai sản theo quy định. Sau khi xét duyệt
và giải quyết những hồ sơ này thì lập danh sách chuyển sang phòng Kế hoạch
tài chính.
Hàng quý, các đơn vị SDLĐ phải quyết toán với cơ quan BHXH tỉnh số
tiền đã chi. Nếu thừa sẽ phải trả quỹ. Nếu số chi vượt quá phần trăm giữ lại thì
BHXH tỉnh sẽ thực hiện cấp bù vào tháng đầu quý sau cho đơn vị SDLĐ. Kinh
phí sẽ được chuyển khoản về tài khoản của đơn vị để đơn vị có thể trực tiếp chi
trả kịp thời cho đối tượng hưởng các chế độ này.
Đồng thời, BHXH tỉnh cũng nhận báo cáo của BHXH huyện gửi lên để đối
chiếu, kiểm tra về mức đóng, thời gian đóng BHXH với từng NLĐ. Sau khi
kiểm tra, phòng chế độ chính sách sẽ lập danh sách chuyển sang phòng Kế
hoạch tài chính để thực hiện quyết toán. Các đơn vị BHXH các huyện, thị, sau
khi nhận được thông báo của BHXH tỉnh thì thực hiện chi trả và báo cáo về
BHXH tỉnh
Các chế độ ngắn hạn này được chi trả trực tiếp qua BHXH các huyện, thị
hay các đơn vị SDLĐ chứ không thông qua đại lý chi trả. Và được quyết toán
theo quý. Mỗi quý, BHXH tỉnh phải lập báo cáo gửi về BHXH Việt Nam.
Chi trả dưỡng sức PHSK, hiện nay kinh phí được đưa vào thanh quyết toán
với chế độ ốm đau, thai sản, BHXH tỉnh chỉ đạo BHXH các huyện, thị trực tiếp
tạm ứng kinh phí và thanh quyết toán kinh phí chi dưỡng sức PHSK cho NLĐ
tại các cơ quan đơn vị SDLĐ do BHXH huyện,thị trực tiếp quản lý
2.3.2. Kết quả thực hiện
Hiện nay, đã có luật BHXH và các văn bản hướng dẫn thực hiện luật được
ban hành nhằm phục vụ tốt cho công tác thực hiện BHXH. Tuy vậy, vẫn còn
nhiều khó khăn trong việc thực hiện chế độ ốm dài ngày đối với một số bệnh.
Còn đối với chế độ thai sản do thực hiện theo quy trình phân cấp và tổ chức chi
trả, cơ quan BHXH tỉnh, huyện, mà cụ thể là các cán bộ phụ trách vấn đề thai
sản không trực tiếp gặp đối tượng hay tổ chức những đợt tiếp cận với NLĐ để
nắm bắt tâm tư nguyện vọng, nghe ngóng những phản hồi từ các đối tượng về
giải quyết chế độ chính sách nhằm thực hiện công tác chi trả được tốt hơn. Điều
đó đã có những hạn chế, dễ bị các đơn vị SDLĐ lợi dụng để trục lợi.
Tại BHXH tỉnh, số đối tượng hưởng chế độ ngắn hạn này ngày càng có xu
hướng tăng cao, với mức hưởng trợ cấp cũng tăng. Tuy nhiên tốc độ tăng không
đều giữa các đơn vị trong hệ thống BHXH tỉnh. Kết quả thực hiện công tác chi
trả các chế độ này được thể hiện qua bảng sau:
BẢNG 3. Chi trả ốm đau, thai sản (2008- 2010)
Đơn vị : lượt, ngày, đồng
Chế độ Tiêu chí 2008 2009 2010
Ốm đau
Lượt người 6.269 5.832 5.209
Ngày 41.116 40.703 35.25
Tiền 1.591.670.334 1.784.163.169 1.795.322.514
Thai sản
Lượt người 1.142 1.294 1.373
Ngày 131.979 146.199 161.64
Tiền 6.558.305.024 7.942.022.038 9.732.045.976
Dưỡng
sức
PHSK
Lượt người 769 767 676
Ngày 4.227 4.339 3.848
Tiền 549.045.000 654.452.500 624.115.000
(Nguồn báo cáo tổng kết năm của BHXH tỉnh Cao Bằng)
Từ bảng số liệu trên cho thấy sự biến động của đối tượng và số tiền hưởng
các chế độ trợ cấp như sau:
Đối với chế độ ốm đau, số lượt người hưởng qua từng năm giảm đi, nhưng
số tiền được hưởng lại tăng lên, đó là do tiền lương của người lao động tăng, số
lượt người hưởng chế độ ốm đau cho các bệnh dài ngày cũng tăng lên, nên số
tiền chi trả cũng tăng, dù số lượt người hưởng lại giảm.
Chế độ thai sản, qua 3 năm từ 2008 đến 2010, số lượt người hưởng chế độ
tăng lên qua từng năm, kéo theo đó số ngày hưởng và số tiền được hưởng cũng
tăng lên, điều đó dễ lý giải là do nghỉ hưởng chế độ thai sản, người lao động
được hưởng 100% lương, mà tiền lương của NLĐ ngày càng tăng kèm theo số
năm công tác và sự gia tăng của tiền lương tối thiểu.
Sự biến động của việc tăng giảm như trên là do sự biến động của từng đơn
vị BHXH trong toàn tỉnh. Số chi cho chế độ này tập trung chủ yếu ở văn phòng
BHXH tỉnh. Các huyện vùng sâu vùng xa như Bảo Lạc, Bảo Lâm thì chiếm tỷ
lệ rất ít, ví như năm 2010 trong tổng số 5.209 số lượt người hưởng chế độ ốm
đau thì ở văn phòng BHXH tỉnh quản lý đã chiếm tới 4.769 lượt người, còn ở
huyện Bảo Lạc chỉ có 28 trường hợp và huyện Bảo Lâm là 13 trường hợp. Sự
thay đổi này một phần là do dân số các đơn vị khác nhau, tỷ lệ người tham gia
BHXH, số đơn vị SDLĐ do BHXH các huyện, thị quản lý. Và một phần là do
sự chăm sóc sức khoẻ cho NLĐ được tốt hơn. Vì vậy mà đối tượng hưởng chế
độ trợ cấp ốm đau 2009 đã giảm ở hầu hết các đơn vị.
Về chi trả dưỡng sức PHSK, từ bảng số liệu cho thấy đối tượng hưởng trợ
cấp dưỡng sức PHSK có xu hướng giảm dần qua các năm, đây là một kết quả
đáng mừng bởi có sự giảm về đối tượng hưởng trợ cấp là do các đơn vị trong
toàn ngành đã thực hịên tốt công tác chăm sóc sức khoẻ cho người tham gia.
Nhưng trên thực tế, tại một số doanh nghiệp sản xuất kinh doanh, NLĐ sau
khi nghỉ ốm đau, thai sản hết thời gian quy định thì tiếp tục đi làm dù sức khoẻ
còn yếu. Điều đó đã khiến cho việc chi trả chế độ dưỡng sức chiếm tỷ lệ nhỏ, và
tập trung chủ yếu tại các cơ quan hành chính sự nghiệp.
2.4 Chi trả chế độ TNLĐ – BNN
2.4.1. Tổ chức chi trả
Trong công việc bất cứ sự bất cẩn hay tác động nào cũng có thể gây ra tai
nạn lao động, và sự ảnh hưởng không tốt đối với cơ thể cũng có thể dẫn tới mắc
các bệnh nghề nghiệp. Ngày nay điều kiện lao động và công tác an toàn vệ sinh
lao động trong các doanh nghiệp đã có sự cải thiện đáng kể nhưng vẫn không
thể xóa bỏ được hoàn toàn ti nạn lao động và bệnh nghề nghiệp
Mức trợ cấp của các đối tượng hưởng chế độ này được xác định rõ ràng
dựa trên tỷ lệ suy giảm khả năng lao động, nên quản lý chế độ này cũng khá rõ
rang và đơn giản. Khi NLĐ bị TNLĐ- BNN phải điều trị thì doanh nghiệp sẽ
phải ứng trước các chi phí. NLĐ sẽ phải nộp lại giấy ra viện hoặc giấy khám
bệnh cho doanh nghiệp. Sau đó, doanh nghệp mới lập hồ sơ và văn bản đề nghị
hưởng chế độ cho cơ quan BHXH.
Lúc này, BHXH tỉnh mới tiếp nhận và giải quyết, lập hồ sơ giới thiệu ra
hội đồng giám định y khoa giám định suy giảm khả năng lao động. Do đặc thù
của chế độ này tập trung chủ yếu tại các đơn vị sản xuất kinh doanh nên về