Tải bản đầy đủ (.docx) (47 trang)

PHÂN TÍCH ĐỒ THỊ BIẾN ĐỘNG THỊ TRƯỜNG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (508.62 KB, 47 trang )

PHÂN TÍCH ĐỒ THỊ BIẾN ĐỘNG THỊ TRƯỜNG
Phần này sẽ trình bày về ứng dụng cụ thể đồ thị và chỉ số trong Phân tích kỹ thuật
1 Phương pháp chung ứng dụng chỉ số vào phân tích đồ thị.
Tất cả các loại chỉ số được dùng trong phần mềm METASTOCK của hãng Equis
đều được xây dựng hết sức công phu và đều đã được thực tế chứng minh về tính thích
dụng của nó trong việc Phân tích kỹ thuật trên Thị trường chứng khoán. Do đó để sử
dụng các chỉ số này nhà phân tích nên chọn cho mình bộ chỉ số mà thấy dùng nó để
phân tích một cách có hiệu quả nhất. Nhưng trên từng thị trường khác nhau người ta
dùng cùng một loại chỉ số để phân tích thì lại cho kết quả không hoàn toàn giống nhau
trong cùng một trường hợp biến động giá chứng khoán. Điều này đã được các chuyên
viên của Equis cảnh báo trong bản hướng dẫn sử dụng phần mềm này, khi sử dụng phần
mềm METASTOCK nhà đầu tư nên chọn cho mình các công cụ thích hợp và kết hợp
với sự lựa chọn loại đồ thị update liên tục, hàng giờ, hàng ngày, hàng tuần, hàng
tháng,...
Tuy nhiên METASTOCK chỉ là công cụ hỗ trợ cho nhà đầu tư trong việc phân
tích sự biến động của giá chứng khoán trên thị trường để nhà đầu tư đầu tư một cách
hiệu quả hơn trên thị trường mà thôi. đồng thời tất cả các chỉ số không phải lúc nào
cũng mang lại cho chúng ta thông tin chính xác nhất về tình hình biến động của giá
chứng khoán trên thị trường, cho nên các chuyên viên của Equis cũng đã đưa ra lời
khuyên chân thành đến tất cả mọi người nên dùng nhiều chỉ số khác nhau để phân tích
mang lại kết quả chính xác nhất, nhưng điều này không có nghĩa là khuyên nhà đầu tư
nên dùng tất cả các chỉ số được xây dựng trong METASTOCK.
2 Các loại chỉ số
2.1 Đường trung bình trượt: MA (Moving average)
Đường trung bình trượt (Nguyên gốc tiếng Anh là Moving Average, viết tắt là
MA), là giá trị trung bình tại từng thời điểm, khi phân tích chúng ta phải chọn cho mình
một khoảng thời gian thích hợp để phân tích có hiệu quả nhất. Đường trung bình trượt
là chỉ báo hữu ích dùng để theo dõi khuynh hướng biến động giá chứng khoán và sự
đảo chiều của những khuynh hướng này.
2.1.1 Tổng quan về Đường trung bình trượt:
+ Trước hết Đường trung bình trượt là một chỉ dẫn kỹ thuật (Technical


Indicators) có độ trễ so với thị trường, hoặc gọi là dạng thức khuynh hướng trễ, nó có
tác dụng làm trơn những biến động nhỏ của giá chứng khoán trên thị trường.
+ Đường trung bình trượt dùng để theo dõi khuynh hướng (Trend) và để báo hiệu
một khuynh hướng đã chấm dứt hoặc đảo ngược.
+ Có 4 kiểu Đường trung bình trượt chung đó là: Đường trung bình trượt đơn
giản (Simple Moving Averages - SMA), Đường trung bình trượt tuyến tính có trọng số
(Learly Weighted Moving Averages), Đường trung bình trượt tính theo hệ số mũ
(Exponential Moving Averages - EMA) và Đường trung bình trượt biến đổi (Variable
Moving Averages - VMA).
Trong tất cả các chỉ tiêu được dùng trong Phân tích kỹ thuật (hay còn gọi là các
chỉ dẫn kỹ thuật - Technical Indicators) thì Đường trung bình trượt là chỉ tiêu đơn giản
nhất, tuy nhiên không phải chính vì thế mà nó ít được các chuyên viên Phân tích kỹ
thuật sử dụng trong phân tích và đầu tư chứng khoán. Đường trung bình trượt có tác
dụng làm trơn sự biến động giá của chứng khoán trên thị trường, nhằm loại bỏ những
biến động nhỏ trên thị trường để từ đó cho chúng ta những biến động chính của giá
chứng khoán trên thị trường. Đường trung bình trượt giúp chúng ta theo dõi diễn tiến
của khuynh hướng chính trong sự biến đông phức tạp của giá chứng khoán, và cho
chúng ta thấy rõ được sự đảo chiều của khuynh hướng biến động giá chứng khoán.
Chúng ta có thể coi Đường trung bình trượt như là đường thẳng xu thế bị bẻ cong theo
sự biến động của giá chứng khoán.
Một ví dụ về Đường trung bình trượt của giá chứng khoán AGF:
Hình 2.1: Đồ thị biến động giá cổ phiếu AGF
(Lastupdate: 05/05/2005)
2.1.2 Giải thích về đường trung bình trượt (Moving average - MA):
Những dấu hiệu mua bán chứng khoán xuất hiện khi Đường trung bình trượt cắt
đường biểu diễn sự biến động giá chứng khoán hoặc khi hai đường trung bình trượt cắt
nhau khi chúng ta dùng nhiều Đường trung bình trượt một lúc để phân tích. Một cách
tương tự như đường thẳng xu thế Đường trung bình trượt cung cấp cho chúng ta một
vùng của sự hỗ trợ và kháng cự, Đối với Đường trung bình trượt được tính với thời gian
càng dài thì ý nghĩa của sự giao nhau giữa đường Đường trung bình trượt và đường

biểu diễn sự biến động giá chứng khoán, hoặc sự giao nhau giữa các Đường trung bình
trượt với nhau càng có ý nghĩa trong phân tích.
Đường trung bình trượt là một chỉ báo kỹ thuật muộn, một sự giao nhau với
đường Đường trung bình trượt thông thường báo hiệu một khuynh hướng đảo chiều,
điều này thường được sử dụng để xác nhận một khuynh hướng mới đã bắt đầu. Nói
chung đường MA được tính càng dài thì giá trị mang lại của sự giao nhau mà nó mang
lại càng có ý nghĩa lớn. Ví dụ, sự giao nhau của đường MA 100 hoặc 200 ngày thường
mang lại ý nghĩa quan trọng hơn một cách đáng kể so với sự giao nhau của đường MA
20 ngày.
Đường trung bình trượt tuyến tính có trọng số gắn liền với những diễn biến gần
đây nhất trong sự biến động của giá chứng khoán trên thị trường. Lý do chính là theo
cách tính của Đường trung bình trượt tuyến tính có trọng số thì dữ liệu càng gần thời
điểm hiện tại thì càng được nhân với trọng số càng lớn. Cụ thể công thức tính của
Đường trung bình trượt tuyến tính có trọng số: (công thức bổ xung sau). Đường trung
bình trượt đơn giản (Simple Moving Averages - SMA) được tính toán theo cách tính
trung bình một cách giản đơn đối với giá chứng khoán theo cách trung bình đúng theo
nghĩa giản đơn của nó, Đường trung bình trượt giản đơn tính trung bình giá của chứng
khoán một cách giản đơn không trọng số nghĩa là nó được xây dựng bằng cách lấy
trung bình cộng giản đơn của giá chứng khoán (n) phiên (hoặc thời điểm). Còn Đường
trung bình trượt tuyến tính có trọng số và Đường trung bình trượt tính theo hệ số mũ thì
áp dụng cách tính có trọng số đối với giá biến động của chứng khoán, có nghĩa là đối
với những giá chứng khoán càng gần thời điểm tính toán thì được nhân với trọng số
càng lớn. Điều đó được thể hiện rõ ràng nhất trong công thức tính của chúng (công thức
bổ xung sau). Đương Đường trung bình trượt biến đổi (Variable Moving Averages -
VMA) được xây dựng dựa vào tính bất ổn của giá chứng khoán (The volatility of
prices).
Khi giá chứng khoán dao động lên xuống trong một khung giao dịch trong một
thời kỳ rộng (Trading-range market), trong một thời kỳ lâu dài thì đường trung bình
trượt bị chậm để phản ứng lại với sự đảo chiều của thị trường, và khi giá chứng khoán
chuyển động trong một khung giao dịch ngắn hạn thì Đường trung bình trượt thường

mang lại cho chúng ta những nhận dịnh sai về sự biến động giá của chứng khoán trên
thị trường. Một đường trung bình trượt bằng phẳng và tương phản nói chung chỉ cho
biết một khung giao dịch của thị trường và dấu hiệu cần được nhình nhận hết sức cẩn
thận, trừ khi đó là một hình cung hướng xuống (pronounced rounding) có thể gợi lên
một khuynh hướng mới.
Đường Đường trung bình trượt biến đổi (Variabla Moving average) có thể bù lại
điểm yếu cho khung giao dịch của khuynh hướng thị trường. Đường trung bình trượt
này tự điều chỉnh làm nhẵn các hằng số để điều chỉnh tính nhạy cảm của nó, thông
thường cho phép nó khắc phuc được nhiều hạn chế so với Đường trung bình trượt khác
trong một thị trường khó phản ánh.
Đường trung bình trượt luôn cần phải được sử dụng phối hợp với các chỉ tiêu
khác bởi vì bản thân nó chứa đựng nhiều tiềm năng mang lại những dấu hiệu sai. Đặc
biệt trong thời gian giá chứng khoán dao đông trong một kênh giao dịch.
Đường trung bình trượt có thể được tính toán trên mọi chỉ tiêu khác dựa trên giá
trị mở cửa, giá trị cao nhất, giá trị thấp nhất, giá trị đóng cửa của chỉ tiêu đó đối với một
chứng khoán nào đó. Những chỉ tiêu thỏa mãn tất cả những điều để có thể sử dụng
Đường trung bình trượt bao gồm: đường MACD, đường ROC, chỉ số động lượng,
đường Stochatics... Một Đường trung bình trượt của một đường trung bình trượt khác
thì cũng tương tự.
Đường trung bình trượt rất hữu ích trong việc phân tích đầu tư trên Thị trường
chứng khoán, nó cho biết được những xu thế biến động chính của giá chứng khoán và
cung cấp cho chúng ta những dấu hiệu mua sau những đáy của thị trường và những dấu
hiệu bán sớm sau những đỉnh của thị trường. Hơn là sự dự đoán chính xác đỉnh hoặc
đáy của thị trường để giao dịch.
Sự xuyên chéo của đường Đường trung bình trượt bởi đường biểu diễn giá chứng
khoán khi giá chứng khoán đang có xu hướng lên nói chung là một tín hiệu để mua
chứng khoán, ngược lại sự xuyên chéo của đường Đường trung bình trượt bởi giá
chứng khoán khi giá chứng khoán đang trong giai đoạn hướng xuống là một tín hiệu để
bán chứng khoán. Như chúng ta đã biết thì thời gian để tính cho đường Đường trung
bình trượt càng dài thì ý nghĩa của sự xuyên chéo đường Đường trung bình trượt mang

lại càng lớn.
Nếu Đường trung bình trượt mà càng phẳng (ít có đột biến) hoặc đã thay đổi
khuynh hướng chính thì khi giá chứng khoán biến động xuyên chéo Đường trung bình
trượt thì đó là tín hiệu tốt nhất cuối cùng minh chứng cho một khuynh hướng biến động
giá đảo ngược so với khuynh hướng biến động trước đây (thị trường đảo chiều- hay
xuất hiện sự đột biến trong giá chứng khoán, nguyên bản tiếng anh là Breakout). Ví dụ
minh họa rõ ràng minh chứng cho điều này là diễn biến của Thị trường chứng khoán
Việt Nam trong thời kỳ cuối năm 2003 đầu năm 2004:

Hình 2.2: Đồ thị biến động chỉ số VNINDEX
(Lastupdate: 05/05/2005)
Những chỉ báo sai của đường Đường trung bình trượt có thể tránh được bằng
cách sử dụng một cơ chế lọc. Ví dụ như nhiều chuyên viên phân tích trên Thị trường
chứng khoán khuyến cáo nên dùng dữ liệu hàng ngày, hàng tuần, hoặc hàng giờ để đưa
vào mô hình phân tích.
Bất cứ khi nào chúng ta cũng nên cố gắng sử dụng kết hợp nhiều dấu hiệu mua
bán của nhiều công cụ khác nhau trong phân tích, đầu tư trên thị trường nhằm hạn chế
những khuyết điểm của từng công cụ phân tích. Tuy nhiên sự xuyên chéo Đường trung
bình trượt bởi đường biểu diễn giá chứng khoán xảy ra đồng thời cùng lúc với thời
điểm đường thẳng xu thế (Trendline) cũng bị cắt bởi đường biểu diễn giá chứng khoán,
hoặc dấu hiệu mạnh của một hình mẫu kỹ thuật của giá chứng khoán thì đó là một dấu
hiệu mạnh đáng tin cậy để giao dịch.
2.1.3 Sử dụng nhiều đường Đường trung bình trượt trong phân tích:
Để có được những dấu hiệu có tính chính xác cao các chuyên viên phân tích
thường sử dụng nhiều Đường trung bình trượt một lúc để phân tích. Trong khi phân tích
sự biến động của giá chứng khoán dùng một lúc nhiều Đường trung bình trượt thường
mang lại những tín hiệu hữu ích hơn là việc đơn thuần chỉ dùng một Đường trung bình
trượt trong phân tích.
Với hai Đường trung bình trượt ta sử dụng điểm cắt nhau giữa hai đường này để
làm tín hiệu mua bán chứng khoán trên thị trường. Dấu hiệu mua chứng khoán xuất

hiện khi Đường trung bình trượt ngắn hơn cắt Đường trung bình trượt dài hơn ở phía
trên hay MA(n) cắt đưòng MA(m) với điều kiện: n < m và MA(m) đang ở phía trên
đường MA(n) hay đường MA(n) có xu hướng vượt qua đường MA(m) và ngược lại dấu
hiệu quan trọng để bán chứng khoán khi Đường trung bình trượt dài hơn cắt Đường
trung bình trượt ngắn hơn ở bên trên hay MA(n) cắt MA(m) điều kiện: n<m và đường
MA(n) ở trên đường MA(m) . Ví dụ minh họa cho thời điểm mua chứng khoán GIL
tháng 10/2003:
Hình 2.3: Đồ thị biến động giá cổ phiếu GIL
(Data for 04/2004)
Hai cặp đường Đường trung bình trượt thường được sử dụng là cặp: MA(20) &
MA(5) và cặp MA(20) & MA(100), nhưng tùy thuộc vào đặc điểm riêng từng thị
trường mà các chuyên viên phân tích lựa chọn cặp Đường trung bình trượt cho mình để
phân tích có hiệu quả nhất, ở ví dụ trên tôi chọn cặp Đường trung bình trượt 50 và 20
ngày để phân tích do đặc điểm riêng có của Thị trường chứng khoán Việt Nam. Kỹ
thuật sử dụng đồng thời hai Đường trung bình trượt một lúc để phân tích thường mang
lại những chỉ báo theo kịp với thị trường hơn là dùng một Đường trung bình trượt tuy
nhiên lại sản sinh ra ít Whipsaws hơn (Whipsaws: Là những báo hiệu sai khi giá chứng
khoán giao động trong những kênh hay thay đổi vì sử dụng kết cấu đồ thị để phân tích
trong một thời gian ngắn).
Phương pháp sử dụng đồng thời ba Đường trung bình trượt cùng một lúc và giao
điểm giữa ba đường này cũng được các chuyên viên phân tích thường sử dụng trong
phân tích. Bộ ba Đường trung bình trượt được sử dụng rộng rãi nhất là Đường trung
bình trượt của 4 - 9 - 18 ngày. Dấu hiệu mua chứng khoán xuất hiện khi Đường trung
bình trượt ngắn nhất MA(4) cắt đường MA(9) và sau đó cắt đưòng MA(14). Mỗi điểm
cắt nhau giữa các Đường trung bình trượt đều xác nhận sự thay đổi trong khuynh hướng
biến động giá chứng khoán.
Việc sử dụng nhiều đường MA cùng một lúc sẽ mang lại hiệu quả phân tích đầu
tư theo hướng dài hạn, và đỉnh cao của nó là việc sử dụng hàng loạt đường MA cùng
một lúc, việc phân tích căn cứ vào hàng loạt đường MA dựa vào khoản cách giữa các
giải đường MA, Dải đường giao nhau của dãy MA, Sự hội tụ và phân kỳ của dải MA


Ví dụ về phân tích VNindex dựa trên hàng loạt đường MA:
Hình 2.4: Đồ thị biến động chỉ số VNINDEX
(Lastupdate: 05/05/2005)
2.1.4 Những điểm bổ xung về Đường trung bình trượt:
Đường trung bình trượt của 200 ngày - MA(200) hay Đường trung bình trượt của
40 tuần được nhìn nhận như là một chỉ báo mang tính then chốt để xác định đường
kháng cự và hỗ trợ cho khuynh hướng biến động giá của chứng khoán trong thời gian
dài. Các chuyên viên phân tích thường quan sát hết sức cẩn thận khi Đường trung bình
trượt 200 ngày bị tiếp cận bởi đường biểu diễn sự biến động của giá chứng khoán. Mối
quan hệ giữa đường biểu diễn sự biến động giá chứng khoán va Đường trung bình trượt
200 ngày có thể cung cấp những tín hiệu mua bán hết sức tuyệt vời.
Đường trung bình trượt 200 ngày đặc biệt quan trọng cho nhiều chỉ số như
DOWJONES hoặc NASDAQ. Sự xuyên chéo Đường trung bình trượt 200 ngày bởi
đường biểu diễn sự biến động của chỉ số thường báo hiệu một thời kỳ sửa chữa hoặc
củng cố.
Đường trung bình trượt không phải là chỉ tiêu chỉ tính cho giá chứng khoán mà
nó còn được tính toán và phác hoạ cho nhiều chỉ tiêu khác. Sự chuyển động hướng lên
không ngừng của chỉ tiêu được biểu hiện bởi hình ảnh chỉ tiêu vượt lên Đường trung
bình trượt của nó. Sự chuyển động hướng xuống dưới không ngừng của chỉ tiêu được
biểu hiện bởi hình ảnh chỉ tiêu rơi xuống dưới Đường trung bình trượt của nó.
2. 2 Đường chuẩn MACD
Là một chỉ báo hữu ích để phân tích những thay đổi bất thường trong khuynh
hướng biến động của giá chứng khoán.
2.2.1 Tổng quan về đường MACD
MACD là chỉ tiêu biểu diễn sự quy tụ và phân kỳ của trung bình chuyển động.
MACD là một chỉ báo động lượng dùng để báo hiệu sự thay đổi của khuynh
hướng biến động giá chứng khoán và để dự báo phương hướng mới của khuynh hướng.
Những chỉ báo được phát sinh bởi sự xuyên chéo và sự phân kỳ từ giá chứng khoán.
Phương pháp MACD được phát triển bởi Gerald Appel, là một chỉ tiêu báo hiệu

khuynh hướng biến động chính của thị trường, nó cho chúng ta biết rằng khi nào thì giá
chứng khoán đang có khuynh hướng tăng giá, chứng khoán nào đang có khuynh hướng
giảm giá. Phương hướng của xu thế dài hạn là trước tiên bạn phải định giá ở trên bất kỳ
một thị trường nào đó. Nếu có khuynh hướng đi lên thì kỳ vọng của nó tăng trong một
thời gian dài (hay có khuynh hướng mua chứng khoán nhiều hơn). Nếu giá chứng
khoán có khuynh hướng giảm thì chúng ta luôn kỳ vọng nó sẽ giảm trong một thời gian
ngắn (hoặc có khuynh hướng bán chứng khoán nhiều hơn).
Phiên bản đơn giản nhất của chỉ tiêu này bao gồm hai đường: đường MACD (là
sự chênh lệch giữa hai đường EMA 12 và 26) và một đường tín hiệu (chính là đường
EMA(9) của chính đường MACD). Đường tín hiệu được xây dựng giữa trên đường
MACD nhằm làm rõ ràng hơn những cơ hội mua bán chứng khoán. Phương pháp tính
đường MACD của Gerald Appel sử dụng hai đường EMA 12 ngày và EMA 26 ngày,
dựa vào những số liệu hàng ngày, và đường tín hiệu là đường EMA 9 ngày.
2.2.2 Giải thích về đường MACD (Sự hội tụ/phân kỳ của những đường
trung bình trượt).
- Đường MACD tỏ ra có hiệu quả trên những thị trường chứng khoán mang tính
ổn định cao (hay tính xã hội hóa của việc đầu tư chứng khoán trên thị trường đã được
xác lập) hơn là những thị trường mang tính bất ổn (thường là những thị trường mới
thành lập, tính xã hội hóa trong đầu tư chứng khoán chưa cao). Có 2 tập hợp chính của
những tín hiệu phát sinh bởi đường MACD đó là: Sự xuyên chéo và phân kỳ
* Sự xuyên chéo:
Có 2 tín hiệu xuyên chéo chính của đường MACD đó là:
- Sự xuyên chéo với đường tín hiệu thị trường (EMA hoặc đường MA của đường
MACD 9 ngày). Đường MACD xuyên chéo lên phía trên hoặc xuống phía dưới của
đường tín hiệu.
- Sự xuyên chéo với đường số không (Zero line) đường MACD xuyên chéo lên
phía trên hoặc xuống phía dưới đường số không.
Dấu hiệu bán chứng khoán khi đường MACD xuyên chéo xuống phía dưới
đường tín hiệu thị trường (MACD từ phía trên giảm xuống xuyên chéo đường tín hiệu
thị trường và đi xuống phía dưới đường tín hiệu) và được xác nhận khi đường MACD

xuyên chéo xuống phía dưới đường số không.
Dấu hiệu mua chứng khoán khi đường MACD xuyên chéo lên phía trên đường
tín hiệu và được xác nhận khi đường MACD xuyên chéo lên phía lên trên đường số
không.
Hình 2.5: Ví dụ về sự xuyên chéo đường MACD:
(Nguồn: )
* Sự phân kỳ
Đường MACD có thể báo cho chúng ta biết trước những biến chuyển quan trọng
thông qua sự phân kỳ.
Hình 2.6: Ví dụ về sự phân kỳ:
(Nguồn: )
2.3 Đường MACD_Histogram
Đường MACD_H thường được dùng để dự báo trước sự thay đổi trong khuynh
hướng biến động giá chứng khoán.
2.3.1 Tổng quan về đường MACD_H
- Đường MACD_H bao gồm những đường kẻ sọc thẳng đứng trong vùng giữa
đường MACD_H và đường số không (Zeroline) của nó để dễ dàng phân biệt với đường
MACD và đường tín hiệu của nó.
- Sự thay đổi của đường MACD_H thông thường sẽ xảy ra trước bất kỳ một sự
thay đổi nào của đường MACD (tức là nó báo hiệu sớm hơn đường MACD hay nó có
tính nhạy cảm với thị trường hơn đường MACD).
- Những tín hiệu mà đường MACD_H mang lại thường thể hiện qua chiều hướng
biến động của nó, còn đường MACD thì mang lại những tín hiệu thông qua sự xuyên
chéo đường số không và sự phân kỳ của nó.
- Như là một chỉ dẫn kỹ thuật của một chỉ dẫn kỹ thuật, MACD_H cần phải được
so sánh với đường MACD để phân tích có hiệu quả hơn và so sánh với sự biến động
của giá chứng khoán trên thị trường. Đường MACD_H được sử dụng chung với đường
MACD trong phân tích như là một chỉ dẫn kỹ thuật bổ sung.
Thomas Aspray đã phát hiện ra những dấu hiệu của đường MACD, thông thường
có độ trễ so với sự biến động của thị trường khá lớn. Đặc biệt là khi dùng để phân tích

cho biểu đồ biến động giá chứng khoán hàng tuần. Trước tiên ông ta đã thử nghiệm
bằng cách thay đổi cách tính đường MA và ông đã phát hiện ra rằng những đường MA
được tính với thời gian càng ngắn thì mang lại những tín hiệu có độ trễ so với sự biến
động của giá chứng khoán trên thị trường càng giảm. Tuy nhiên, ông đã cố gắng tìm
kiếm một biện pháp mới để báo trước những sự xuyên chéo của đường MACD và ông
đã đưa ra phương pháp tính đường MACD_H.
2.3.2 Giải thích về đường MACD_H
Đường MACD_H là đường phản ánh độ lệch giữa hai đường MACD và đường
tín hiệu của nó (đường EMA của đường MACD 9 ngày - hay EMA(MACD)(9). Bất cứ
khi nào đường MACD xuyên chéo qua đường tín hiệu của nó thì đường MACD_H
xuyên chéo qua đường số không (Zero line).
+ Nếu đường MACD ở phía trên đường tín hiệu, thì đường MACD_H mang tính
dương hay đường MACD_H nằm phía trên đường số không (Zeroline) và những đường
sọc thẳng đứng được vẽ ở phía trên đường số không.
+ Nếu đường MACD ở phía dưới đường tín hiệu, thì đường MACD_H mang tính
âm hay đường MACD_H nằm phía dưới đường số không (Zeroline) và những đường kẻ
sọc thẳng đứng được vẽ ở phía dưới đường số không (Xem hình vẽ minh hoạ).
Sự tăng đột biến của đường MACD_H biểu thị đường MACD tăng nhanh hơn
đường EMA(MACD)(9) và đã hướng lên của đường MACD ngày càng mạnh. Sự suy
sụp của đường MACD_H biểu thị đường MACD đang giảm nhanh chóng hơn đường
EMA của chính nó và sự đi xuống của đường MACD ngày càng mạnh.
Sự phân kỳ giữa đường MACD và đường MACD_H chính là công cụ để dự báo
những sự xuyên chéo. Sự phân kỳ mang tính dương biểu thị rằng đường MACD đang
trở nên mạnh hơn và tiến gần đến điểm xuyên chéo với đường EMA(9) của chính nó
hướng lên phía trên. Sự phân kỳ mang tính âm biểu thị rằng MACD trở nên yếu đi và
báo trước một sự xuyên chéo xuống phía dưới đường EMA của nó.
2.3.3 Tín hiệu của đường MACD_H
Tín hiệu chính phát sinh bởi đường MACD_H là một sự phân kỳ kèm theo là sự
xuyên chéo đường số không (Zeroline) bởi đường MACD.
- Một tín hiệu tăng giá (Bulish Signal) được phát sinh khi hình thành một phân

kỳ dương và có sự xuyên chéo ở đường MACD hướng lên trên đường số không
(Zeroline).
- Một tín hiệu giảm giá (Bearish Signal) được phát sinh khi hình thành một phân
kỳ âm và có sự xuyên chéo của đường MACD hướng xuống dưới đường số không
(Zeroline).
Trong cuốn "Technical Analsis of the Financial Market", John Murphy cho rằng
giá trị thực của đường MACD_H có thể dễ dàng nhận thấy khi bề rộng giữa hai đường
MACD và EMA(MACD)(9), nới rộng ra hoặc thu hẹp lại. Khi đường MACD_H vẫn
còn nằm trên đường số không (Zeroline) hay phân kỳ dương, giá trị khoán bắt đầu giảm
sút, xu thế tăng giá chở nên yếu đi. Ngược lại khi đường MACD_H ở trên đường số
không (Zeroline) hay phân kỳ âm, giá chứng khoán bắt đầu tăng dần, xu thế giảm giá
trở nên yếu đi. Những thời điểm đảo chiều này của đường MACD_H cung cấp chỉ báo
sớm có ý nghĩa rằng khuynh hướng hiện thời đang mất động lực và dấu hiệu mua bán
xuất hiện khi đường MACD_H xuyên chéo qua đường số không (Zeroline).
Murphy cũng chủ trương tiếp cận nghiên cứu cùng một lúc cả hai đường MACD
và đường MACD_H nhằm tránh sự ảnh hưởng của những biến động nhỏ đến khuynh
hướng biến động chính. Đường MACD_H được tính với số liệu hàng tuần có thể sử
dụng làm công cụ để dự báo những dấu hiệu phát sinh mang tính dài hạn. Sau đó chúng
ta chỉ nên sử dụng những tín hiệu mang tính ngắn hạn có khuynh hướng trùng với
khuynh hướng dài hạn.
- Nếu khuynh hướng biến động chính dài hạn có xu hướng tăng lên, thì sự phân
kỳ dương kết hợp với sự xuyên chéo hướng lên trên đường số không (Zeroline) được
xem là hợp lệ với đường MACD_H (hay đường MACD_H phản ánh đúng với thực tế
của thị trường).
- Nếu khuynh hướng biến động chính dài hạn có xu hướng giảm thì sự phân kỳ
âm kết hợp với sự xuyên chéo hướng xuống dưới đường số không (Zeroline) được xem
là hợp lệ với đường MACD_H (hay đường MACD_H phản ánh đúng với thực tế của thị
trường).
Bằng cách này, những tín hiệu hàng tuần trở thành những khuynh hướng có chọn
lọc của những tín hiệu hàng ngày. Dựa vào phương pháp này có thể ngăn ngừa được

việc sử dụng những tín hiệu hàng ngày chống lại khuynh hướng dài hạn để giao dịch
(hay còn gọi là hiện tượng giao dịch theo khuynh hướng biến động phụ chỉ mang tính
bổ sung).
Hình 2.7: Dùng đường MACD_H để phân tích:
(Nguồn: )
2. 4 Chỉ số kênh hàng hóa - Commodity Channel Index (CCI)
Commodity Channel Index (CCI) là một chỉ báo kỹ thuật trong Phân tích kỹ
thuật trên thị trường chứng khoán tạm dịch là chỉ số kênh hàng hóa, là một chỉ số động
lượng cung cấp cho chúng ta những chỉ báo kỹ thuật về các điểm Overbought và
OverSould (điểm mua và bán quá mức) của chứng khoán trên thị trường.
2.4.1 Tổng quan về đường CCI
- Đường CCI thường được sử dụng như một chỉ bảo kỹ thuật về các điểm
Overbought và OverSould (điểm mua và bán quá mức).
- Đường CCI cũng được sử dụng để tính toán và xác định thời điểm để mua bán
chứng khoán.
Công thức toán học của đường CCI
H L C
P
3
+ +
=
1 2 3 n
n
P P P ...P
MA
n
+ + +
=
n
n

i 1
MA
MD
n
=

=

n
P MA
CCI
0,015x MD

=
P: Giá chứng khoán trung bình hàng ngày
H: Giá chứng khoán cao nhất trong ngày
L: Giá chứng khoán thấp nhất trong ngày
C: Giá chứng khoán đóng cửa trong ngày
MA: Trung bình trượt giá chứng khoán
MD: Median deviation (Độ lệch chuẩn bình quân)
2.4.2 Giải thích về đường CCI
ý nghĩa của đường CCI là đường so sánh giá chứng khoán tại thời điểm hiện tại
với trung bình giá của chứng khoán đó trong một khoảng thời gian xác định (thông
thường là 20 phiên).
Đường CCI càng tiến tới mức 100 có nghĩa là giá chứng khoán ngày càng tăng so
với trung bình giá của nó và ngược lại.
2.4.3 Dấu hiệu mua bán của đường CCI:
- Các chuyên viên phân tích cho rằng đường CCI cung cấp những dấu hiện xuất
hiện các điểm Overbought và OverSould (điểm mua và bán quá mức) khi nó xuyên
chéo qua mức +100 hoặc -100.

Sự xuyên chéo ngang qua đường số không (Zeroline) cũng có thể được coi là
những dấu hiệu mua bán hoặc là những dấu hiệu báo trước cho sự đảo chiều trong
khuynh hướng biến động giá chứng khoán.
Sự phân kỳ của giá thường là một chỉ báo của sự sửa chữa trong khuynh hướng
biến động giá chứng khoán hoặc là sự đảo chiều trong khuynh hướng biến động giá
chứng khoán.
Hình 2.8: Dùng đường CCI để phân tích
(Nguồn: )
2.5 Đường RSI (Relative Strength index - chỉ số sức mạnh tương đối).

×