Lý luận về vốn đầu t nớc ngoài qua thị trờng chứng
khoán
I.Lý luận chung về vốn nớc ngoài
1.Khái niệm về vốn nớc ngoài
Trong lịch sử giao lu kinh tế giữa các vùng kinh tế khác nhau đã diễn ra
nhiều hình thức trao đổi và di chuyển các nguồn lực. Ban đầu hình thức tơng đối
đơn giản - đơn giản cả về đối tợng và hình thức di chuyển. Trong thời kỳ nô lệ,
hình thức di chuyển sức lao động của nông lô là điển hình. Do nhu cầu về sức lao
động rất lớn ở các vùng có nền nông nghiệp phát triển nên nô tì đợc mua về từ các
vùng khác nhau để làm việc tại các vùng này.
Trong thời kỳ phong kiến, hiện tợng di chuyển các nguồn lực vẫn diễn ra.
Thời kỳ này đối tợng di chuyển không chỉ còn là sức lao động mà còn kèm theo
sự di chuyển về nguyên vật liệu cho sản xuất.
Khi chủ nghĩa t bản ra đời, các hình thức di chuyển và trao đổi các nguồn lực
đợc thực hiện một cách đa dạng và phong phú hơn. Thời kỳ đầu, xu hớng di
chuyển các nguồn lực đợc thực hiện một chiều từ các nớc bị đô hộ tới các nớc đi
đô hộ. Các nớc đi đô hộ vơ vét, tận dụng nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú
của các nớc bị đô hộ để thực hiện công cuộc phát triển của chính mình. Trong thời
kỳ này, đối tợng di chuyển chủ yếu là tài nguyên, nhiên liệu phục vụ cho sản xuất
và đời sống, hình thức di chuyển hầu hết mang tính bóc lột.
Khi chủ nghĩa đế quốc sụp đổ, sự đô hộ của các nớc đế quốc đối với các nớc
thuộc địa không còn nữa, hình thức và đối tợng di chuyển của các nguồn lực cũng
có sự thay đổi. Nguồn lực di chuyển ở đây cũng phong phú hơn, nó không chỉ
dừng lại ở sức lao động và nguyên nhiên vật liệu mà còn có công cụ sản xuất và
kĩ thuật sản xuất. Hình thức di chuyển các nguồn lực chủ yếu dới dạng đầu t nớc
ngoài - đầu t giữa các quốc gia, khu vực với nhau. Xu hớng di chuyển các nguồn
lực cũng không còn theo một chiều từ các nớc bị đô hộ sang các nớc đô hộ nữa
mà đã xuất hiện chiều ngợc lại từ các nớc t bản phát triển sang các nớc trớc đây là
thuộc địa, giữa các nớc t bản phát triển với nhau.
Sự di chuyển nguồn lực phục vụ cho sản xuất kinh doanh nói riêng và phát
triển nền kinh tế nói chung diễn ra ngày càng sâu sắc; đa dạng về hình thức di
chuyển, phong phú về đối tợng di chuyển và đa phơng về xu hớng di chuyển. Các
hình thức di chuyển đợc thực hiện thông qua đầu t quốc tế, viện trợ và hỗ trợ quốc
tế, liên kết kinh doanh. Đối tợng di chuyển là sức lao động, nguồn lực tài chính và
đặc biệt là kĩ thuật, công nghệ sản xuất, quản lý kinh doanh. Xu hớng di chuyển
đợc thực hiện giữa các nớc phát triển với các nớc đang phát triển và ngợc lại, giữa
các nớc phát triển và phát triển, giữa các nớc đang phát triển với nhau.
Nh vậy, trong suốt quá trình lịch sử phát triển kinh tế của loài ngời luôn diễn
ra hiện tợng di chuyển nguồn lực giữa các quốc gia, các khu vực trên thế giới. Xét
trên phơng diện một quốc gia, thì sự di chuyển các nguồn lực từ bên ngoài vào
quốc gia đó gọi là nguồn lực bên ngoài hay nguồn vốn nớc ngoài. Nh vậy, chúng
ta có thể hiểu nguồn lực bên ngoài hay nguồn vốn nớc ngoài là tất cả những
nguồn lực nằm bên ngoài phạm vi địa lý của một quốc gia đợc huy động vào
quốc gia đó.
Do có sự phát triển của sản xuất, nguồn vốn nớc ngoài cũng phong phú dần
lên. Ban đầu, do nền sản xuất chủ yếu là chăn nuôi và trồng chọt do vậy chỉ xuất
hiện nhu cầu về sức lao động, hơn nữa, do có sự thiếu hụt và d thừa sức lao động ở
các vùng khác nhau nên nguồn vốn nớc ngoài đợc di chuyển chỉ đơn thuần là sức
lao động.
Khi nền sản xuất phát triển hơn, nhu cầu không chỉ dừng lại ở sức lao động
mà còn có thêm nhu cầu về nguyên nhiên liệu, mặt khác, do sự phân bố tài
nguyên ở các vùng khác nhau là khác nhau dẫn đến sự thiếu hụt và d thừa nguyên
nhiên vật liệu sản xuất, do vậy nguồn vốn nớc ngoài lúc này bao gồm sức lao
động và nguyên, nhiên vật liệu.
Khi chủ nghĩa t bản phát triển, kèm theo nó là sự phát triển rất nhanh của
khoa học kĩ thuật làm cho nền sản xuất phát triển đạt đến trình độ cao hơn. Khoa
học kĩ thuật đợc áp dụng nhiều hơn vào sản xuất. Nhiều công nghệ sản xuất, quản
lý mới ra đời và nó trở thành yếu tố không thể thiếu trong sản xuất kinh doanh.
Lúc này, nguồn lực bên ngoài không chỉ gồm sức lao động và nguyên nhiên vật
liệu mà còn có thêm cả yếu tố kĩ thuật, công nghệ, nguồn lực tài chính phục vụ
cho sản xuất kinh doanh.
Sản xuất càng phát triển, nguồn vốn nớc ngoài di chuyển giữa các nớc, các
khu vực khác nhau ngày càng phong phú và đa dạng hơn. Hầu hết các yếu tố phục
vụ cho sản xuất đều có thể trở thành yếu tố đợc di chuyển trên thế giới. Và nó trở
thành nguồn vốn nớc ngoài cho quốc gia tiếp nhận nó.
Nh vậy, nguồn vốn nớc ngoài không chỉ bao gồm các yếu tố hữu hình nh
vốn, máy móc thiết bị, nguyên nhiên liệu,... mà còn bao gồm cả yếu tố vô hình
nh công nghệ; kĩ thuật; bí quyết; danh tiếng, tác phong kinh doanh... .
Nguồn vốn nớc ngoài tồn tại ở rất nhiều dạng khác nhau. Do vậy, để có
những phân tích sâu hơn về đặc điểm và vai trò của nó chúng ta sẽ phân chia
nguồn vốn nớc ngoài ra thành từng loại khác nhau.
2.Phân loại vốn nớc ngoài
2.1 Phân loại dựa trên hình thức tồn tại của từng loại vốn
Theo hình thức tồn tại nguồn vốn nớc ngoài bao gồm hai loại chính: hữu
hình và vô hình.
a) Vốn nớc ngoài tồn tại hữu hình
Vốn nớc ngoài tồn tại hữu hình là tất cả các nguồn lực hữu hình bên ngoài đ-
ợc huy động vào một quốc gia. Bao gồm:
- Vốn nớc ngoài là các nguồn lực tài chính tồn tại dới dạng các loại tín dụng
( bao gồm tín dụng bằng tiền, hoặc tín dụng thơng mại, lại vốn này có thể là tiền
mặt hoặc có thể là hàng hoá).
- Vốn nớc ngoài là máy móc thiết bị và các công cụ phục vụ cho sản xuất
kinh doanh.
- Vốn nớc ngoài là nguyên, nhiên liệu phụ cho sản xuất:
b) Nguồn vốn nớc ngoài tồn tại vô hình
Nguồn vốn nớc ngoài tồn tại vô hình là tất cả các nguồn lực vô hình bên
ngoài huy động vào một quốc gia. Bao gồm:
- Vốn nớc ngoài là công nghệ sản xuất, quản lý, khoa học kĩ thuật, bí quyết
sản xuất kinh doanh.
- Danh tiếng, nhãn mác thơng mại, uy tín kinh doanh ... : là các yếu tố đẩy
mạnh việc tiêu thụ hàng hoá của mình thông qua đó thúc đẩy sản xuất phát triển.
- Vốn nớc ngoài dới dạng sức lao động, chất xám đợc huy động từ bên ngoài
vào công cuộc phát triển của một quốc gia: Kèm theo các dự án sản xuất kinh
doanh, kèm theo các chơng trình phát triển của nớc cung cấp vốn nớc ngoài là một
đội ngũ chuyên gia, công nhân kĩ thuật cao ... sang làm việc trực tiếp tại nớc nhận,
nớc tiếp nhận nó có thể sử dụng nguồn lực này cho công cuộc phát triển của mình.
2.2 Phân loại vốn theo hình thức di chuyển
Nguồn vốn nớc ngoài có thể chảy vào một quốc gia dới nhiều hình thức khác
nhau và có xu hớng tạo ra những ảnh hởng khác nhau tới nền kinh tế.
Căn cứ theo hình thức di chuyển và tác động đến nền kinh tế của từng loại,
hiện nay có nhiều cách phân loại vốn nớc ngoài khác nhau. Ví dụ nh theo IMF, họ
sử dụng khái niệm các nguồn tài chính bên ngoài đối với các nớc đang phát
triển (external financial resources to developing countries) và chia thành hai loại:
- Các khoản viện trợ, giúp đỡ : bao gồm các khoản viện trợ song phơng, các
khoản viện trợ đa phơng (bao gồm cả các tổ chức tình nguyện t nhân) và các
khoản hỗ trợ phát triển chính thức khác..
- Dòng vốn đầu t t nhân: bao gồm đầu t trực tiếp, đầu t chứng khoán, tín
dụng xuất khẩu t nhân, vay ngân hàng.
Căn cứ theo cách phân chia của các nhà kinh tế Việt Nam và để phục vụ cho
mục đích nghiên cứu, trong phạm vi khoá luận này xin phân chia nguồn vốn nớc
ngoài thành các loại chính sau :
- Vốn đầu t nớc ngoài trực tiếp (FDI)
Vốn nớc ngoài dới dạng đầu t trực tiếp là tất cả các nguồn lực đợc đầu t vào
một quốc gia và chịu sự chi phối và quản lý trực tiếp từ các chủ đầu t nớc ngoài.
Đây là loại vốn nớc ngoài đợc đầu t trực tiếp từ bên ngoài vào nớc nhận vốn. Nó
thờng tồn tại dới dạng đầu t trực tiếp của các công ty xuyên quốc gia vào nớc tiếp
nhận. Các nguồn vốn nớc ngoài đợc sử dụng trực tiếp tại nớc tiếp nhận dới sự
quản lý của chủ đầu t. Đây là bộ phận quan trọng trong các luồng vốn vào, nó có
tính chất dài hạn, không rằng buộc về chính trị, không để lại gánh nặng nợ nần
cho nớc tiếp nhận, thờng đi kèm với chuyển giao công nghệ và kỹ năng quản lý,
- Tín dụng thơng mại:
Đây là hình thức bên nớc ngoài cho vay vốn và thu lợi nhuận qua lãi suất tiền
vay, bên nớc ngoài chủ yếu các ngân hàng nớc ngoài nên nguồn vốn này còn đợc
gọi là vốn vay ngân hàng. Ngoài ra còn có một phần nhỏ khác là tín dụng xuất
khẩu t nhân (bên nớc ngoài khi xuất khẩu cho chịu tiền hàng một thời gian). Đối
với loại vốn này, bên nớc ngoài không tham gia vào hoạt động của bên đi vay và
bên vay vốn có toàn quyền sử dụng khoản vốn này, bên chủ đầu t nớc ngoài chỉ
thu lợi nhuận qua lãi suất ngân hàng cố định theo khế ớc vay độc lập với kết quả
kinh doanh.
- Hỗ trợ phát triển chính thức (ODA)
Là tất cả các khoản viện trợ không hoàn lại và khoản tài trợ có hoàn lại (cho
vay dài hạn với một số số thời gian ân hạn và lãi suất thấp) của chính phủ, các hệ
thống của tổ chức Liên hợp quốc, các tổ chức phi chính phủ, các tổ chức tài chính
quốc tế (nh Ngân hàng thế giới WB, Ngân hàng phát triển châu á ADB, Quỹ
tiền tệ quốc tế IMF) dành cho chính phủ và nhân dân nớc nhận viện trợ. Các
cơ quan và tổ chức hỗ trợ phát triển nêu trên đợc gọi chung là đối tác viện trợ nớc
ngoài. Hình thức này luôn đợc các chính phủ quan tâm vì tính chất của nó: cho
không, cho vay u đãi, thời gian ân hạn và đáo hạn dài, có cả chuyển giao công
nghệ và kỹ năng quản lý. Hạn chế của hình thức này là các điều kiện áp đặt của
các nhà tài trợ, tính hiệu quả và bền vững của khoản vốn, có thể gây gánh nặng nợ
nần cho tơng lai nếu không sử dụng có hiệu quả, có thể kèm các yếu tố chính trị,
hối lộ
Các hình thức chủ yếu của nguồn vốn ODA gồm hỗ trợ dự án, hỗ trợ phi dự
án, hỗ trợ cán cân thanh toán và tín dụng thơng mại (là những khoản tín dụng
dành cho chính phủ các nớc sở tại với các điều khoản mềm về lãi suất, thời gian
ấn hạn, thời hạn trả dài nhng có những rằng buộc nhất định).
- Vốn nớc ngoài dới dạng đầu t danh mục chứng khoán (FPI)
Đây là dạng đầu t gián tiếp thông qua thị trờng chứng khoán, các nhà đầu t n-
ớc ngoài bỏ tiền ra mua chứng khoán (gồm cổ phiếu, trái phiếu, và các chứng từ
phái sinh) để thu lợi nhuận thông qua cổ tức, trái tức hoặc chênh lệch giá nhờ đầu
cơ chứng khoán. Nguồn vốn này đã và đang ngày càng đóng một vai trò quan
trọng trong hầu khắp các nền kinh tế, trên thực tế nhiều các quốc gia đã sử dụng
kênh này để huy động nguồn tài trợ từ bên ngoài một cách có hiệu quả.
Ngoài ra vốn nớc ngoài còn có các nguồn vốn khác nh kiều hối, các khoản
quà tặng, quà biếu, thừa kế, chuyển tiền từ nớc ngoài cũng đáng lu tâm, đặc biệt
là các quốc gia có số lợng công dân sống và làm việc ở nớc ngoài lớn. Tuy nhiên
nếu xét về tổng thể thì các nguồn này thờng là nhỏ và không có ảnh hởng lớn đến
nền kinh tế vĩ mô. Ta có thể bỏ qua các khoản này.
Để phục vụ mục đích nghiên cứu của khoá luận, ta có thể khái quát cơ cấu
nguồn vốn vào một quốc gia thành 4 nguồn vốn nớc ngoài chính:
- Vốn đầu t nớc ngoài trực tiếp (FDI)
- Hỗ trợ phát triển chính thức (ODA)
- Tín dụng thơng mại
- Đầu t danh mục chứng khoán (FPI)
II. Lý luận về nguồn vốn đầu t nớc ngoài qua thị trờng
chứng khoán (FPI)
1. Khái niệm
Nh đã nói ở trên, đầu t nớc ngoài qua thị trờng chứng khoán là một trong
những nguồn vốn nớc ngoài chính và nó ngày càng trở nên quan trọng, chiếm tỷ lệ
lớn trong cơ cấu vốn nớc ngoài.
Thị trờng chứng khoán đã ra đời từ rất sớm, bản thân nó là một kênh huy
động vốn trực tiếp trong nền kinh tế quốc dân. Đó là nơi mà các nhà đầu t tìm
kiếm, thay đổi cơ hội và lĩnh vực đầu t của mình. Nếu khung pháp lý cho hoạt
động này chỉ bó hẹp đối với các nhà đầu t trong nớc thì thị trờng chứng khoán chỉ
đơn thuần là một kênh huy động vốn trong nớc. Nhng nếu khung pháp lý mở rộng
ra cho các nhà đầu t nớc ngoài thì đây lại là một kênh huy động vốn nớc ngoài
cho nền kinh tế. Trên thực tế, do những u điểm nổi bật của thị trờng chứng khoán,
do xu hớng tự do hoá tài chính, hầu hết các quốc gia có thị trờng chứng khoán đều
cho phép các nhà đầu t nớc ngoài đợc phép tham gia vào thị trờng chứng khoán.