MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU:
Lí do chọn đề tài:
Nghệ thuật, đặc biệt là văn học nghệ thuật chưa bao giờ ngừng đòi hỏi sự
sáng tạo, cả ở khâu sáng tác lẫn khâu tiếp nhận. Dòng chảy và sức sống lâu bền
của văn học cho đến ngày hơm nay vẫn cịn được nối tiếp chính là do sức mạnh
của q trình sáng tạo- đồng sáng tạo của nhà văn cố nhiên có cả độc giả.
Chúng như ngọn lửa chưa bao giờ lụi tàn, là nguồn nhiệt sưởi ấm giúp cho văn
học nhân loại bập bùng cháy sáng mãi từ thuở mới xuất hiện cho đến tận mai
hậu. Trong tác phẩm Bay đêm, nhà văn Antoine de Saint-Exupéry viết: “Chúng
ta không cần đến sự vĩnh cửu’, ông nghĩ. ‘Điều mà chúng ta cần là không để
những hành động và sự việc đột nhiên mất đi ý nghĩa thực sự của chúng. Nhờ
đó, thế giới xung quanh chúng ta sẽ mở toang ra từ mọi phía”. Có lẽ chính cảm
thức về sự “mở toang ra từ mọi phía” đã chắp cho các tác phẩm của ông những
đôi cánh luôn ẩn dấu sức mạnh sải bay, để mãi đến sau này, độc giả vẫn không
ngừng kiếm tìm, khai phá ý nghĩa thực sự của chúng. Hoàng tử bé là minh
chứng sáng rõ nhất cho hành trình đầy hứa hẹn này.
Gần một thế kỉ kể từ khi được chấp bút cho ra đời, câu chuyện này vẫn chưa
bao giờ mất đi sức cuốn hút kỳ lạ của mình. Dẫu cho buổi đầu chập chững bước
vào thế giới văn học đã nhiều kì tích và dấu ấn riêng, Hồng tử bé chưa nhận
được nhiều lời cơng nhận nhưng qua năm tháng, khi từng lớp ngụ ngơn được
bóc tách, tác phẩm đã khẳng định được vị thế và giá trị vượt thời gian của mình.
Cho đến ngày nay, hành trình khám phá Hồng tử bé vẫn chưa bao giờ dừng lại,
1.
khi cuộc sống và thế giới càng hiện đại và đổi thay, “những điều cốt tử” càng
cần được nhìn thấu suốt hơn. Hành trình tiếp nhận Hồng tử bé, qua đó là hành
trình tri nhận của chúng ta về cuộc sống, cũng chính là hành trình mà qua mỗi
lần trải nghiệm, bạn đọc đồng sáng tạo và làm cho tác phẩm sống lại một lần
nữa. Đó là cách văn chương chân chính ở lại mãi mãi với nhân loại.
Tìm hiểu Hoàng tử bé một lần nữa với tư cách là một đối tượng nghiên cứu
khoa học, người viết muốn khẳng định lại giá trị và chiều kích suy ngẫm của tác
phẩm, đồng thời đưa ra một trong những cách tiếp nhận mới mẻ về ý nghĩa của
câu chuyện. Hoàng tử bé (như nhiều người từng nhận định) không chỉ là cuốn
sách viết cho trẻ em mà cịn là ngụ ngơn cho người lớn. Tác phẩm cũng nhiều
lần đề cập đến vấn đề cái nhìn của người lớn- trẻ con, hay những điều không
phải người lớn mà chỉ trẻ con mới hiểu được,…; điều này gợi ra băn khoăn:
Phải chăng càng lớn lên, càng trưởng thành, con người càng đánh mất dần đi
bản tính sơ khai, tự nhiên của mình, để rồi khơng thể cảm nhận thế giới bằng
chính trái tim thuần khiết ban sơ? Hành trình của hồng tử bé có lẽ cũng khơng
đơn giản là hành trình khám phá thế giới mà cịn là hành trình tìm lại chính
mình, tìm lại những điều mất mát để nhận ra đâu là “điều cốt tử”, nhận ra lí do
vì sao bơng hồng của cậu lại khác với năm nghìn bơng hồng kia và quay về
hành tinh của mình (như cách con người tìm về bản tính sơ khai của mình). Như
vậy, hệ thống các sự kiện, nhân vật, chi tiết của tác phẩm đều gợi nên ý niệm về
sự đánh mất hoặc tìm lại. Hình như thế giới trẻ thơ trong ngần đó có khi lại ẩn
chứa nguy cơ của bi kịch mất mát khi con người lớn dần lên? Và liệu chăng, khi
nhìn thế giới đó với tâm thế trầm tư hơn, chúng ta cũng có cơ hội nhìn lại hành
trình sống của chính mình để đồng ngộ cùng nhân vật, nhìn lại thế giới một lần
nữa. Hi vọng rằng hướng đi này sẽ mở ra một cách tiếp cận mới cho vùng ý
nghĩa trải dài rộng của câu chuyện, góp thêm vào sức sống vẫn tiềm tàng khả
năng nảy nở của một tác phẩm có giá trị.
Nói đến văn học như một hình thái ý thức xã hội thẩm mỹ, càng không thể
không nhắc tới đối tượng trung tâm mà nó phản ánh, đó là con người. Với một
tác phẩm nhiều tầng ý nghĩa và các hình ảnh biểu tượng như Hoàng tử bé, hệ
thống chi tiết, nhân vật, sự kiện tuy đơn giản nhưng được sắp xếp trong kết cấu
gợi nhiều liên tưởng và suy tư, tạo nên những ẩn dụ sâu xa, những hình tượng
con người phong phú trong tác phẩm. Tiếp cận Hoàng tử bé mà bỏ qua những
biểu tượng về con người trong tác phẩm thì đó quả là điều thiếu sót lớn, bởi lẽ
nếu khơng tìm ra và giải mã những ý nghĩa nhân văn, nhân bản mà hình tượng
biểu đạt thì câu chuyện kia có gì hơn một câu chuyện tưởng tượng phi thực tế và
xa rời với giá trị sống của con người. Đó cũng là quy luật chung của q trình
tiếp nhận tác phẩm văn học. Dù đi theo hướng tiếp nhận nào, văn học cũng chưa
bao giờ xa rời với đời sống con người, số phận con người, đặc biệt là khả năng
dự báo những nguy cơ con người hiện phải đối mặt, mà nguy cơ mất mát là một
trong số đó.
Trong tác phẩm nhiều triển vọng về phổ đọc và mở rộng với mọi tầm đón
nhận này, việc tìm hiểu hình tượng con người mất mát cũng tạo ra những cơ hội,
2
tiền đề và ý tưởng mới cho việc giảng dạy môn Ngữ văn trong nhà trường hiện
nay. Đặc biệt trong giai đoạn đổi mới chương trình dạy và học mơn Ngữ văn
theo định hướng phát triển năng lực cho học sinh, việc tìm hiểu tác phẩm mới
với những vấn đề mới là điều vô cùng cần thiết, hứa hẹn những hiệu quả đáng
mong chờ. Hoàng tử bé nếu được lựa chọn đưa vào giảng dạy chắc chắc sẽ là
miền đất hứa giúp phát triển năng lực tiếp cận, thâm nhập vào thế giới nghệ
thuật và đồng sáng tạo của bạn đọc học sinh, dưới sự hướng dẫn và định hướng
có cơ sở của giáo viên môn Ngữ văn.
Lịch sử nghiên cứu vấn đề:
Nghiên cứu- phê bình Hồng tử bé cho đến nay vẫn là một hành trình cịn
nhiều dang dở, chưa hoàn tất bởi những chiều sâu ý nghĩa mà tác phẩm lạ kỳ
này gợi ra. Thật khó để tìm một cơng trình nghiên cứu của một học giả lớn về
tác phẩm này, nhất là ở Việt Nam, khi chỉ gần đây, cuốn sách mới được xếp vào
danh mục Kinh điển của cơng ty sách Nhã Nam, thay vì danh mục Sách Thiếu
nhi như trước đó. Những quan niệm và cách tiếp cận phong phú về tác phẩm
không phải không có, nhưng chỉ dừng lại ở những bài viết trên tạp chí, blog cá
nhân hay bài review sách… Với việc tìm hiểu và khai thác tác phẩm này như
một đối tượng nghiên cứu khoa học, trong một cơng trình mang tính học thuật
thuộc phạm vi học phần Văn học Tây Âu- Mỹ, đây là thách thức lớn khi nguồn
tư liệu tham khảo có phần khan hiếm, cũng là cơ hội, động lực cho người viết
đầu tư vào cơng trình, hi vọng mang đến những đóng góp có giá trị khoa học
cho việc nghiên cứu vấn đề mới mẻ này.
2.
Đối tượng, phạm vi nghiên cứu:
Nghiên cứu hình tượng con người mất mát trong tác phẩm Hoàng tử bé,
người viết lấy đối tượng chính là tác phẩm này với sự tham khảo có chọn lọc
bản dịch của hai dịch giả đã có uy tín trên văn đàn Việt Nam là Trác Phong và
Bùi Giáng. Trong khuôn khổ một bài niên luận, phạm vi nghiên cứu cũng không
vượt xa bản thân nội dung- hình thức và những yếu tố liên quan về lịch sử phát
sinh của tác phẩm. Cụ thể hơn, dựa vào hoàn cảnh sáng tác và tiểu sử cùng với
sự nghiệp của tác giả Antoine de Saint-Exupéry, theo đó là mọi chi tiết, hình ảnh
biểu tượng, nhân vật và cốt truyện, tuyến sự kiện của tác phẩm, đó là những tiền
đề để người viết tìm hiểu một cách có định hướng, có cơ sở đề tài đã nêu.
3.
Phương pháp nghiên cứu:
Để tìm hiểu hình tượng con người mất mát trong Hồng tử bé, bài niên luận
sử dụng kết hợp các phương pháp nghiên cứu sau:
Một là phương pháp thống kê, hệ thống hóa. Với phương pháp này, người
nghiên cứu đã đọc tác phẩm và thống kê từ đó hệ thống hóa các hình ảnh mang
tính biểu tượng cho ý niệm về con người, đặc biệt là chắt lọc những ý niệm liên
quan đến sự mát mát.
4.
3
Hai là phương pháp phân tích, tổng hợp, cắt nghĩa mang đến cái nhìn vừa
khái qt, tồn diện vừa chi tiết, sâu sắc về vị trí và ý nghĩa của hình tượng con
người mất mát trong tác phẩm, từ đó tìm ra mối liên hệ giữa chúng trong kết cấu
bề sâu, giải mã được kết cấu và tìm ra ý nghĩa của hình tượng.
Ba là phương pháp liên ngành giúp tìm ra mối liên hệ của hình tượng con
người mất mát với cuộc đời, sự nghiệp của tác giả Antoine; trong diện mạo văn
học thế kỷ XX. Đồng thời, việc sử dụng phương pháp này cũng là một cách vận
dụng vai trị của tích hợp trong nghiên cứu khoa học hiện nay.
Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu:
Bài niên luận được thực hiện với mục đích tìm ra và giải mã một cách sâu
sắc ý nghĩa của hình tượng con người mất mát trong tác phẩm Hoàng tử bé của
nhà văn Antoine de Saint-Exupéry, từ đó mở ra một cách tiếp cận ý nghĩa mới
chưa từng có cho tác phẩm, tạo điều kiện cho nghiên cứu- phê bình tác phẩm
nói riêng, và nghiên cứu hình tượng con người trong văn học nói chung.
Để thực hiện được mục đích đã đề ra, bài niên luận thực hiện các nhiệm vụ
làm rõ những điểm nổi bật về cuộc đời, sự nghiệp của tác giả cũng với những
cảm thức về cuộc đời có ảnh hưởng đến tư tưởng của tác phẩm; sau đó tìm hiểu
cụ thể tác phẩm từ hồn cảnh sáng tác đến các biểu tượng về con người, đặc biệt
là con người mất mát với cách tìm hiểu chia theo những phương diện có mối
liên hệ chặt chẽ với nhau, dựa vào diễn biến cốt truyện; cuối cùng, bài niên luận
chắt lọc và đánh giá một số đặc sắc nghệ thuật góp phần xây dựng thành cơng
hình tượng con người mất mát của tác phẩm.
Các nhiệm vụ này sẽ lần lượt được triển khai và giải quyết, theo cấu trúc
Phần Nội dung của bài niên luận, gồm có ba chương:
- Chương 1: Những vấn đề chung
- Chương 2: Mất mát và hành trình tìm lại những điều mất mát của con
người trong Hoàng tử bé
- Chương 3: Nghệ thuật xây dựng hình tượng con người mất mát trong
Hồng tử bé.
5.
PHẦN NỘI DUNG:
CHƯƠNG 1: Những vấn đề chung
1.1. Tác giả Antoine de Saint-Exupéry và Hoàng tử bé
1.1.1. Antoine
de Saint-Exupéry – một nhà văn kỳ lạ
Antoine de Saint-Exupéry sinh ngày 29 tháng 6 năm 1900
tại thành phố Lyon nước Pháp. Ông sống những ngày tháng thơ
ấu trong một trong một gia đình q tộc địa phương lâu đời với
người cha làm chuyên viên công ty bảo hiểm và mẹ là người
luôn kể chuyện thánh cho ơng nghe trước khi đi ngủ. Có lẽ đó
4
chính là một trong những dịng mạch đầu tiên khơi nguồn cho
tâm hồn văn chương của ông sau này. Năm Saint-Exupéry lên 4
tuổi, cha ơng mất vì bệnh đột quỵ, bà Marie de Exupéry mẹ ông
đưa các con đến Le Mans vào năm 1909, tại lâu đài SaintMaurice-de-Rémens của người dì. Từ đây, ơng đã trải qua những
năm tháng tuổi thơ yên bình với những người thân trong gia
đình. Năm ông lên 6 tuổi, mẹ ông tặng một cuốn sách về những
khu rừng nguyên sinh với bức vẽ con trăn đang nuốt một con ác
thú. Chính chi tiết này trong những ngày thơ ấu đã được ông
đưa vào tác phẩm lừng danh Hồng tử bé sau này của mình.
Nhờ sự dạy bảo và truyền cảm hứng của mẹ, cậu bé Antoine
lên 13 tuổi đã rất giỏi tiếng Latin, cịn bí mật dịch sách Julius
Caesar để tìm hiểu các thức hoạt động của cỗ máy chiến tranh
La Mã. Ông theo học các trường dòng Jesuit ở Montgré và Le
Mans, và cả trường Công giáo ở Thụy Sĩ (1915-1917). Sau khi
thi rớt trường dự bị đại học, ông đăng ký học môn kiến trúc ở
trường cao đẳng Beaux-Arts.
Có thể khẳng định rằng, Antoine de Saint-Exupéry là một
nhà văn kỳ lạ. Điều đó hồn tồn có cơ sở bởi lẽ, ơng đâu chỉ là
một nhà văn bình thường với sách bút, bàn giấy, ông còn là một
phi công với những chuyến bay ngàn dặm. Những dòng văn
nảy nở cùng những cuộc vượt mây trên không trung đã đồng
hành, chắp cánh cho sự nghiệp văn chương của ông vượt qua
mọi giới hạn biên giới, dân tộc và cả thời đại.
Bước ngoặt của cuộc đời xảy ra vào năm 1921, khi ông
nhập ngũ và được gởi đến Strasbourgh để dự khóa huấn luyện
phi cơng. Ơng bay chuyến đầu tiên một mình với máy bay
Sopwith F-CTEE vào ngày 9 tháng 7 năm 1921. Năm 1922, ông
lấy bằng phi cơng, sau đó định cư ở Paris, đây cũng là nơi ông
khởi sự viết văn.
Sau những chấp chới, chông chênh, kém may mắn trong
cả sự nghiệp viết lách, kinh doanh và đời sống hôn nhân, cuối
5
cùng ông cũng cho ra đời truyện ngắn đầu tay Người lái máy
bay (L’Aviateur- 1926) trên tạp chí văn học Le Navire d’argent.
Sau đó, ơng làm chun chở thư tín cho Aéropostale – một công
ty thương mại hàng không ở Bắc Phi trong 3 năm như một công
việc thực sự. Cơng việc khó khăn, hiểm nguy này làm ơng phải
trải qua nhiều lần chết hụt. Ơng tìm về sâu trong sa mạc
Sahara, làm giám độc vùng bay Cap Juby ở Rio de Oro năm
1928. Sự cô độc và vẻ đẹp hoang dã, bí hiểm của sa mạc đã
làm mê đắm ông, để rồi ông đưa những đắm say này vào văn
chương, trong các tác phẩm Hoàng tử bé và Thành trì (1948).
Trong suốt 3 năm rịng sau đó, Saint-Exupéry tập trung hoàn
thành tiểu thuyết Tàu thư phương nam (1929). Tác phẩm mang
dấu ấn nghề rất rõ khi nhiệt tình ca ngợi lịng dũng cảm của
những phi cơng đầu tiên- những con người bất chấp hiểm nguy
trong cuộc đua tranh tốc độ để chiến thắng các đồng nghiệp
đưa thư của họ theo đường tàu hỏa và đường thủy. Mạch truyện
khác song hành với mạch chính trong tiểu thuyết này mơ tả
cuộc tình bất thành của tác giả với nữ văn sĩ Louise de Vilmorin.
Tám năm sau, tác phẩm này đã được đạo diễn Robert Bresseo
dựng thành phim.
Cũng trong năm 1929, Saint-Exupéry đến Nam Mỹ làm
cơng việc chun chở thư tín qua dãy Andes. Những trải
nghiệm mới này góp phần tạo nên cốt truyện của Bay đêm, tiểu
thuyết thứ 2 của ông. Tác phẩm đã trở thành cuốn sách
bestseller trên bình diện quốc tế, đoạt giải Femina danh giá và
được được đưa lên màn ảnh vào năm 1933, với sự góp mặt của
nhiều ngôi sao điện ảnh nổi tiếng như: Clark Gable và Lionel
Barrymore. Câu chuyện kể về Rivière, người phụ trách sân bay
kiên nghị, đầy nhiệt huyết từ bỏ tất cả ý định về hưu và xem
mục đích đời mình là cơng việc chun chở thư tín.
Những tưởng nghề viết và nghề bay cứ thế yên ổn chắp
nối cho sự nghiệp của vị nhà văn- phi cơng này, thì những tai
nạn liên tiếp cứ đổ ập đến cuộc đời ông. Năm 1931, sau khi lập
gia đình với người tình tên Consuelo Gomez Castillo và khởi sự
làm phi công thử nghiệm cho Air France và nhiều cơng ty hàng
khơng khác, ơng cịn viết cho tờ Paris-Soir mô tả sự cố khẩn cấp
ở Moscow năm 1936, và cho ra đời hàng loạt bài viết về Cuộc
nội chiến ở Tây Ban Nha. Đến đây, cuộc đời phiêu bạt, rày đây
mai đó của Saint-Exupéry dường như mới thực sự bắt đầu. Bằng
tất cả số tiền từng tích góp được, ơng mua một chiếc máy bay
hiệu Caudron Simoun cho riêng mình, để thỏa ước mơ tự do bay
khắp đây đó. Nhưng khơng may, ơng gặp tai nạn máy bay đến
hai lần. Lần thứ nhất, máy bay Caudron Simoun rơi ở Libya. Lần
6
thứ hai, vào năm 1937, ông cùng một chiếc máy bay khác cũng
gặp nạn và chấn thương nghiêm trọng ở Guatemala. Những
biến động, trắc trở của nghề không làm nhà văn ngi khao
khát viết về chính nghề bay. Với sự động viên của người bạn
André Gide, Xứ con người - một quyển sách về nghề lái máy
bay được Saint-Exupéry cho ra đời năm 1939, đoạt giải Grand
Prix du Roman của Viện Hàn Lâm Pháp 1939 và giải National
Book Award ở Mỹ. Cuốn sách đáng lẽ có thể đã được chuyển
thể thành phim vì gây được sự hứng thú cho đạo diễn Jean
Renoir. Ngài thảo luận với tác giả không chỉ về nội dung về
nghề lái máy bay mà còn về các chủ đề văn học mà cuốn sách
của ông đề cập đến. Tiếc thay, lúc bấy giờ là khi Hollywood chỉ
dựng phim trong phim trường. Do đó, các ý tưởng mà Renoir
đưa ra về việc dựng phim ngay tại chính các địa điểm được mô
tả trong truyện là điều bất khả thi, thế nên chẳng nhà sản xuất
nào đồng ý làm bộ phim này.
Chiến tranh Thế giới lần II xảy ra, sau khi nước Pháp bị
thất thủ, Saint-Exupéry gia nhập quân đội và thực hiện rất
nhiều nhiệm vụ của người phi công, mặc dù ông bị đánh giá là
không đủ khả năng lái máy bay chiến đấu do mắc phải hàng
loạt chấn thương trong các tai nạn trước đây. Tuy vậy, SaintExupéry vẫn được phong tặng huân chương Croix de Guerrehuân chương được nhà nước Pháp trao tặng cho các cá nhân
hoặc đơn vị có thành tích trong Chiến tranh Thế giới lần II. Ông
rời Mỹ năm 1942, bị phê phán bởi những người đồng hương vì
đã khơng ủng hộ lực lượng Nước Pháp Tự Do của de Gaulle ở
London. Chính những tác động và cảm thức về chiến tranh đã
tạo nên những ẩn ức cho tâm hồn của một nghệ sĩ, trong hình
hài của một phi cơng. Tác phẩm Phi công chiến tranh (1942) mô
tả chuyến bay tuyệt vọng của ông trên giới tuyến quân địch, khi
nước Pháp đã thực sự bị đánh bại. Năm 1943 ông sống lưu vong
khi nước Pháp bị chiếm đóng. Chính thời gian này, khi ông
không được bay theo đúng nghĩa, mọi ẩn ức kia dồn vào trang
viết, và Hoàng tử bé –tác phẩm nổi tiếng nhất của ông ra đời.
Ngày 31 tháng Bảy năm 1944, trong một lần thực hiện
nhiệm vụ, máy bay của ơng mất tích trên khơng phận Địa Trung
Hải. Saint- Exupéry được cơng nhận là “hi sinh vì nước Pháp”.
Sự nghiệp phi công- nhà văn của ông khép lại nhưng dư vang
của chúng vẫn chưa bao giờ thôi ngân nga đến tận ngày nay.
Một cuộc đời lạ kỳ, sự kết hợp, song đơi lại kì của những chuyến
bay- những trang viết đã làm nên một nhà văn, một người nghệ
sĩ chưa-bao-giờ-ngừng-bay.
7
1.1.2. Hoàng
tử bé – một tác phẩm kỳ lạ
Như mọi tác phẩm khác của vị văn sĩ- phi cơng, Hồng tử
bé cũng gắn liền với đời bay của ông. Nhưng điều kỳ lạ đầu
tiên, cơ duyên khơi gợi cảm hứng giúp ơng viết nên kiệt tác này
chính là từ một vận rủi, một tai nạn máy bay.
Vào lúc 14 giờ 45 phút, ngày 30 tháng 12 năm 1935, sau
chuyến bay 19 tiếng 38 phút trên lộ trình tới Sài Gịn với người
bạn hoa tiêu André Prévot, máy bay của Antoine de SaintExupéry bị rơi ở sa mạc Sahara. Để giành giải thưởng 150.000
franc, họ đã cố gắng bay từ Paris tới Sài Gòn nhanh hơn những
người đã từng bay trước đó bằng chiếc máy bay Caudron C-630
Simoun n°7042 (seri F-ANRY). Wadi Natrum được cho là địa
điểm rơi máy bay. May mắn rằng cả hai người đều sống sót qua
vụ tai nạn, nhưng họ phải đối mặt với nỗi lo lắng mất nước,
thiếu nước ở sa mạc Sahara. Chiếc bản đồ họ có thì đã q cũ
và rất mờ mịt, do đó khơng có ích gì. Nho, táo và rượu tích trữ
sẵn chỉ giúp họ trụ vững được một ngày, nhưng đó đã là tất cả
những gì họ có. Khơng có cách gì để giải quyết tình trạng này,
cả hai người bắt đầu bị ảo giác. Từ ngày thứ hai sang ngày thứ
ba kể từ khi gặp nạn, cơ thể họ đã bị mất nước rõ rệt và thậm
chí khơng thể đổ mồ hôi được nữa. Điềm may lại đến khi vào
ngày thứ tư, một người Ả Rập du cư cưỡi trên một con lạc đà đã
phát hiện ra họ và cấp cứu cho tình trang mất nước, cứu sống
được hai người. Kí ức và kinh nghiệm thực tế này được lấy làm
cảnh mở đầu cho cuộc gặp gỡ của các nhân vật trong Hoàng Tử
Bé, khi Saint-Exupéry viết về việc bị bỏ lại trên sa mạc trong
một cái máy bay bị hỏng.
8
Hoàng tử bé (tên tiếng Pháp: Le Petit Prince), được
xuất bản năm 1943, được đánh giá là tiểu thuyết nổi tiếng nhất
của nhà văn- phi công Pháp Antoine de Saint-Exupéry. Trong
thời kì nhà văn sống lưu vong khi nước Pháp bị chiếm đóng, tại
ngơi biệt thự The Bevin House ở Asharoken, New York, Long
Island, Saint-Exupéry đã vừa viết vừa vẽ tranh minh họa cho
cuốn sách của mình suốt nhiều ngày đêm. Quãng thời gian này,
chỉ có bánh kẹp trứng trộn, gin và tonic, Coca Cola và thuốc lá
làm bạn với ông trong ngôi nhà rộng lớn. Nỗi cô độc trầm tư,
những cảm thức và ẩn ức về cuộc đời, về chiến tranh, về đất
nước mình đã ngấm vào tác phẩm của ơng một các tự nhiên,
đầy kín đáo và tinh tế.
Khi tác phẩm được nhà Reynal & Hitchcock in tại Mỹ năm
1943 với 260 bản tiếng Pháp và 525 bản tiếng Anh do
Katherine Woods chỉ mới được vài tuần, tác giả của nó lại lên
đường sải cánh cùng
những chuyến bay cho
Lực lượng Không quân
Pháp mà chưa nhận
một đồng nhuận bút.
Sau này, ông cũng
không bao giờ kịp trở
về để nhận nhuận bút
cho tác phẩm tuyệt vời
nhất, cũng là tác phẩm
cuối cùng của mình.
Hồng tử bé đã
được dịch sang hơn 250 ngơn ngữ (bao gồm cả tiếng địa
phương) và cho đến nay đã bán được hơn 200 triệu bản khắp
thế giới, trở thành một trong những sách bán chạy nhất của mọi
thời đại và được phát triển trở thành một seri truyện tranh 39
chương. Thậm chí, năm 2015, tác phẩm đã được chuyển thể
thành phim hoạt hình và gây được tiếng vang lớn ở nhiều quốc
gia trên thế giới. Tuy tác giả kết thúc sự nghiệp từ quá sớm,
nhưng có lẽ đứa con tinh thần mà ông để lại sẽ không bao giờ
ngừng tỏa sáng, dẫu cho bao nhiêu thời gian trôi qua đi nữa.
Sau hơn 75 năm kể từ khi ra đời, Hoàng tử bé vẫn là cuốn
sách được cho là kỳ lạ vào loại bậc nhất bởi những ngụ ngôn
đầy ý nghĩa của nó. Một cuốn sách được xếp vào danh mục
sách thiếu nhi, với thứ ngôn ngữ giản dị, giàu chất thơ, trong
sáng và dí dỏm, lại mở ra những triết lí, những suy ngẫm vơ
cùng sâu sắc cho bất kì người lớn nào. Như dịch giả Trác Phong
từng bình luận: “Tuổi trẻ đọc nó để ni mộng bình sinh, còn
9
tuổi già đọc nó để ngấm nỗi nhân sinh”. Tác phẩm mang đến
những hình ảnh gần gũi với trẻ thơ: bơng hồng, hồng tử, con
cáo, con cừu,… nhưng lại gửi gắm nhiều ngụ ngơn triết lí dưới
tầng ngơn từ, bằng việc kết cấu những hình ảnh đó tạo thành
những biểu tượng. Cả câu chuyện là thế giới nhiều màu sắc hồn
nhiên nhưng không hề là bức tranh tô vẽ quá tay. Thế giới trẻ
thơ của Hồng tử bé vẫn có những gam màu u uẩn mà quá đỗi
nên thơ. Ai nói trẻ thơ khơng biết buồn? Ai bảo trẻ thơ khơng
thể chiêm nghiệm, suy ngẫm? Đó là thế giới nơi con mắt sáng
trong của trẻ thơ nhận ra mối quan hệ giữa các đối cực trong
đời sống vô cùng phức tạp: trẻ con- người lớn, tình yêu- sự vị
kỷ, điều cảm thấy- điều nhìn thấy, con người- cơng cụ… để rồi
hồn nhiên mà chân thành nhận ra rằng: “Người ta chỉ ln nhìn
rõ được bằng trái tim. Con mắt thường ln mù lịa trước những
điều cốt tử”. Triết lí đó đâu phải người lớn nào cũng hiểu một
cách thông tuệ? Trở về hành trình khám phá của trẻ con, những
biểu tượng, ngụ ngôn mới thật sự phát huy tác dụng, chúng đi
vào cảm tính rồi mới tác động đến lí tính, làm những thơng điệp
cứ thế tự nhiên nảy nở rồi lưu lại dấu ấn thật sâu trong tâm trí
mọi thế hệ độc giả.
Thật hiếm có tác phẩm văn chương nào mở rộng phổ đọc
cả từ tuổi trẻ đến cả tuổi trưởng thành như Hồng tử bé. Cũng
thật hiếm có tác phẩm kỳ lạ nào sau hơn bảy thập kỉ xuất hiện,
người ta vẫn còn chưa giải mã hết những tầng sâu ý nghĩa mà
nó bao chứa. Mỗi lần đọc Hồng tử bé là một lần chúng ta nhìn
lại, nghĩ lại về cuộc đời, và lần nào cũng khám phá phá ra
những giá trị, thông điệp mới mẻ ẩn sau chất thơ đầy mộng ảo
của những hình tượng. Chính sự sâu xa, mở ra mọi biên độ ý
nghĩa đã không ngừng khơi gợi những chiều kích suy tưởng cho
các thế hệ bạn đọc để thêm mỗi lần đọc, chúng ta như có thêm
một hành trình đến với vơ số hành tinh đầy bí ẩn của ngân hà.
1.2. Giới thuyết về hình tượng con người
Một trong những chiều kích đầy hứa hẹn mà tác phẩm gợi
ra chính là ngụ ngơn về số phận và giá trị của con người, được
tạo ra từ các hình ảnh mang ý nghĩa biểu tượng lớn, tạo thành
hình tượng con người. Đọc, tìm hiểu và nghiên cứu Hồng tử bé
mà bỏ qua những hình tượng về con người trong tác phẩm là
đang nhắm mắt làm ngơ trước những giá trị cốt lõi mà thế giới
đầy suy tưởng này bày ra trước mắt chúng ta. Bởi vì suy cho
cùng, văn học sẽ là gì nếu khơng nói ra và chất vấn con người
về chính con người trong mọi trạng thái tồn tại của chính mình?
10
1.2.1. Về
hình tượng văn học và hình tượng con người
trong văn học
Theo sách “150 thuật ngữ văn học” do Lại Nguyên Ân biên soạn, hình
tượng nghệ thuật là phương thức chiếm lĩnh và tái tạo hiện thực riêng biệt, vốn
có và chỉ có trong lĩnh vực nghệ thuật. “Bất cứ hiện tượng nào được xây dựng
lại một cách sáng tạo trong tác phẩm nghệ thuật đều là hình tượng nghệ thuật;
thơng thường và quan trọng nhất là hình tượng con người (hình tượng nhân
vật)”. Như vậy, hình tượng nghệ thuật có thể hiểu là bức tranh hiện thực đời
sống khách quan được khúc xạ qua quá trình tư duy chủ quan, và bằng tài năng,
sự sáng tạo của người nghệ sĩ, được thể hiện, cô đúc trong một cấu trúc mang
hàm nghĩa. Với văn học- bộ môn nghệ thuật lấy chất liệu là ngơn từ, hình tượng
khơng cụ thể một cách hữu hình, có thể “trơng thấy được”, “sờ mó được” như
các bộ mơn nghệ thuật tạo hình khác. Hình tượng văn học có sự khúc xạ của
một yếu tố này trong yếu tố khác, có sự xuyên thấm nhau về nét nghĩa, giữa cái
biểu đạt và cái được biểu đạt. Hình tượng ngơn từ mang chức năng quan trọng
là truyền cho các từ một “tải trọng đời sống” bằng “tính ẩn dụ và tính cốt
truyện, khả năng tập hợp các sự vật trong không gian và khai triển chúng trong
thời gian”. Do đó, hình tượng văn học mang tính khái quát và ước lệ nhiều hơn
so với hình tượng trong các bộ mơn nghệ thuật khác.
Do tính khái qt, ẩn dụ và giàu tính ước lệ của mình, hình tượng văn học
luôn mang sức nén những quan niệm của tác giả về con người hay đời sống của
con người. Hình tượng con người trong văn học là loại hình tượng phổ biến và
quan trọng bậc nhất, vì nó hướng đến đối tượng trung tâm mà văn học quan tâm
phản ánh, phân tích và lí giải. Qua hình tượng về con người, nhà văn thể hiện
quan niệm, tư tưởng của mình để đánh giá con người trong đời sống, hay bộc lộ
những dự cảm về số phận con người. Hình tượng không chỉ là dụng công nghệ
thuật của nhà văn, nó cịn là phương tiện để văn học thực hiện những chức năng
thẩm mỹ của mình trong việc tác động đến tâm hồn và nhận thức của người đọc,
thực hiện khả năng dự báo và không ngừng gây ra những trăn trở, băn khoăn
cho chính con người.
1.2.2. Về
hình tượng con người trong Hoàng tử bé
Hoàng tử bé (như đã khẳng định) là tác phẩm bao chứa
những tầng ý nghĩa sâu xa, rộng lớn, với lớp hình ảnh biểu
tượng rất gần gũi mà vơ cùng giàu có về mặt triết lí. Hình tượng
con người trong tác phẩm cũng được xây dựng và bồi đắp bởi
nhiều chi tiết đặc sắc. Những bức tranh vẽ biểu tượng cho mối
liên hệ giữa trí tưởng tượng và sự thật cuộc sống, là mối tương
quan giữa cái bên ngoài sự vật và cái ẩn sâu bên trong, là quan
niệm về cái nhìn “thơng suốt” về cuộc đời; Những mầm xấu và
tốt hiện thân cho những cái hại và cái tốt của xã hội và của
cuộc sống; đồng thời là biểu tượng cho cái ác, cái thiện bên
trong mỗi con người. Bơng hoa đặc biệt của hồng tử bé hiện
11
thân cho những thứ đáng quý trong cuộc sống- là niềm vui, là
cuộc sống đẹp. Qua một số chi tiết, bơng hoa cịn là biểu hiện
cho lẽ vơ thường, sự phù du trong cuộc sống. Những thân phận
người mà hoàng tử gặp có thể xem là hình ảnh của những con
người trong xã hội, hoặc cũng có thể là từng giai đoạn trong đời
của con người ngày nay, là hiện thực phũ phàng mà nhiều
người trên đường đời đang biến mình trở thành. Nguồn nước
giữa sa mạc trong cơn khát là những thứ con người theo đuổi, là
“cơn khát vật lý và tinh thần” của con người trong đời, họ khao
khát tình yêu, tình bạn, cảm giác được “ở nhà”… Những ngơi
sao là bí ẩn tuyệt vời, đẹp đẽ, vơ tận và tự nhiên nhất của cuộc
sống, của vũ trụ; là hình ảnh tượng trưng cho cõi thiên đườngnơi con người được hưởng một cuộc sống an nhàn, giải thoát
khỏi những bộn bề trần tục. Mỗi nhân vật trong truyện là biểu
tượng cho một kiểu người, mang những đặc điểm khác nhau
trong cuộc sống, nơi đầy rẫy những bí ẩn cần tìm hiểu, nơi
chính bản thân con người có khi cũng chưa từng nhìn rõ bản
thân mình: hồng tử bé là hình tượng con người trong hành
trình băn khoăn đi tìm giá trị cuộc sống; con cáo là sự tinh
khơn, thấu suốt, cái nhìn bằng trái tim để thấy những điều cốt
tử; bông hồng lại là biểu tượng cho thứ tình yêu đầy vị tha của
con người; những “người lớn” dần trở thành công cụ, luôn sống
và nhận thức bằng những con số là ý niệm về chính họ trong
cuộc sống qua cái nhìn của nhà văn…
Bên cạnh tuyến hình tượng gợi các trường nghĩa đối lập:
trẻ con- người lớn, con người cảm tính- con người lí tính, tình
u- sự vị kỷ, sự tồn tại- cái chết, điều nhìn thấy- điều cảm
thấy,…, sự sắp xếp các trường nghĩa này đặt trong kết cấu cốt
truyện phát triển theo hành trình khám phá của hoàng tử bé đã
gợi nên ý niệm về một hình tượng ẩn sâu dưới các lớp nghĩa:
hình tượng con người mất mát. Nếu cảm nhận kĩ, có thể thấy
các trường nghĩa đối lập đã được nhắc đến đều thống nhất
trong ý niệm: con người đã đánh mất đi những giá trị cốt lõi,
con người cần tìm lại những điều cốt tử ấy.
CHƯƠNG 2:
Mất mát và hành trình tìm lại những điều
mất mát
của con người trong Hoàng tử bé
12
2.1. Con người và những điều mất mát
2.1.1.
Con người trưởng thành mất mát
“Tặng Léon Werth khi anh còn là một cậu bé”. Ngay từ lời đề tặng cho
cuốn sách, Antoine de Saint-Exupéry đã phân định rõ ranh giới người lớn- trẻ
con và xin được các em nhỏ thứ lỗi khi ban đầu lại đề tặng cuốn sách cho một
người lớn. Dường như từ chính lời đề tặng này, tác giả đã manh nha mang đến
cho độc giả ý niệm về khoảng cách cũng như mối quan hệ giữa người lớn và trẻ
con: “Người lớn nào thì thoạt tiên cũng là trẻ con. (Nhưng ít người trong bọn
họ nhớ được điều đó)”.
Tác giả cũng mở đầu cuốn sách của mình bằng câu chuyện về bức vẽ con
voi ở trong bụng con trăn. Người kể chuyện đã hỏi nhiều người lớn xem họ thấy
gì ở bức vẽ, và ai cũng trả lời rằng đó chỉ là cái mũ. Khi cậu bé vẽ thêm một bức
tranh trăn hở bụng, có con voi ở bên trong, đó cũng là lúc người lớn khuyên cậu
dẹp các bức tranh đi và chú tâm vào học các mơn địa lý, lịch sử, làm tính và ngữ
pháp,… Kể từ đó, cậu bé khơng cịn tin vào sự thơng hiểu của người lớn. Đến
khi trở thành một phi công, cậu vẫn “thử nghiệm” người ta bằng các bức vẽ, rồi
tự hạ mình xuống “cho vừa tầm với anh ta” để cùng nói về những chuyện tầm
thường của người lớn khi người kia bảo đó là chiếc mũ. Rõ ràng, dưới cái nhìn
của trẻ thơ, người lớn đã chỉ nhìn sự vật hiện tượng như vẻ bề ngồi của nó mà
không hề thấy bản chất căn cốt, thấy những điều sống động bên trong. Người
lớn nhìn sự vật trong chiều tĩnh tại của chúng chứ không phải là một quá trình.
Người lớn khơng hề biết rằng, chiếc mũ mà họ khẳng định chính là sản phẩm
của q trình săn mồi của một con trăn- một quá trình chỉ trẻ con mới nắm bắt
được và đã thể hiện lại chúng trên trang vẽ của mình. Và thế là có một rào cản
rộng vô cùng giữa trẻ con và người lớn, khi họ đánh mất cái nhìn hồn nhiên mà
thấu suốt của mình trong hành trình trở nên trưởng thành. Như vậy, trưởng
thành có nghĩa lí gì khi dường như con người cứ mất dần đi khả năng cảm nhận
tất cả mọi biến chuyển sinh động của cuộc đời, cảm nhận điều cốt lõi của mỗi
sự việc? Dường như con mắt trong trẻo của trẻ thơ lại chính là cái nhìn tinh tế
và thông thái nhất.
Người kể chuyện đã liên tục khẳng định và chứng minh cho quan điểm
này bằng những câu chuyện về sự khác biệt giữa trẻ con và người lớn từ trải
nghiệm của chính bản thân mình, mà một trong những điều khác biệt lớn nhất
chính là sự đề cao những con số máy móc và khơ cứng: “Người lớn rất thích
các con số. Khi bạn kể với họ về một người bạn mới, họ sẽ không bao giờ hỏi
bạn điều cốt yếu. […] Mà họ sẽ hỏi ‘Anh ta bao nhiêu tuổi? Anh ta có mấy chị
em? Anh ta nặng bao nhiêu cân? Bố anh ta thu nhập bao nhiêu?’ Chỉ thế thôi
họ nghĩ là đã đủ hiểu người ta rồi. Nếu bạn kể với những người lớn: ‘Tơi nhìn
thấy một ngơi nhà đẹp lắm xây bằng gạch đỏ, có hoa phong lữ đặt trên bậu cửa
sổ và chim bồ câu đậu trên mái nhá…’ thì họ sẽ khơng tài nào hình dung được
ngơi nhà đó. Cần phải bảo họ: ‘Tơi nhìn thấy một ngơi nhà mười vạn phơ
răng.’ Thế là họ sẽ thốt lên: ‘Ôi đẹp thế!’” Đến với câu chuyện của hồng tử bé
trong hành trình của mình, hình tượng người lớn với những con số một lần nữa
13
được gợi nên qua nhân vật vật nhà buôn ở tiểu hành tinh thứ tư. Ơng là người
ln bận bịu với các con số và phép tính tốn, ơng nghĩ rằng mình giàu có, mình
sở hữu các vì sao khi tính tốn và đếm được chính xác số lượng của chúng.
Nhưng kì thực, việc làm của ơng chẳng đem lại lợi ích gì cho các vì sao, mà với
hồng tử bé, ta có thể tuyên bố rằng ta sở hữu điều gì đó chỉ khi ta mang đến lợi
ích nào đó cho vật sở hữu ấy trong q trình ta sở hữu nó: “tơi sở hữu một bơng
hoa mà ngày nào tôi cũng tưới. Tôi sở hữu ba ngọn núi lửa ma ngày nào tôi
cũng nạo vét…Mấy ngọn núi lửa của tôi được lợi và bông hoa của tôi được lợi,
chính là nhờ có tơi sở hữu chúng. Nhưng ơng thì chẳng có lợi gì cho các vì
sao…”. Đó là cái nhìn trong sáng, hồn nhiên nhưng cũng vơ cùng tinh tế và sâu
sắc về mối quan hệ giữa sự sở hữu và trách nhiệm của người sở hữu. Nhìn
những sự vật hiện hữu trên cuộc đời bằng chính trái tim thuần khiết, hoàng tử bé
cho ta thấy được sự hiện hữu của mọi thứ trên cuộc đời với chính bản chất- giá
trị của chúng, đó mới là ý nghĩa thực sự của sự sở hữu.
Trong cái nhìn của trẻ con, “những người lớn đúng là cực kì khác
thường” cịn bởi lẽ, chỉ trẻ con mới nhìn mọi vật bằng cảm nhận của chúng.
Hình ảnh bức vẽ chiếc hộp đựng con cừu là minh chứng rất rõ cho điều này. Với
trẻ con, với trí tưởng tượng sinh động và phong phú, chỉ cần một dấu hiệu ban
đầu rất mơ hồ, chúng có thể vẽ ra thế giới mà chúng hằng ao ước. Chỉ cần là
hình vẽ chiếc hộp, hồng tử bé sẽ tưởng tượng ra chú cừu con bên trong đó.
Điều này khác hồn tồn với cách nhìn của người lớn, khi họ muốn mọi điều
phải cụ thể, chính xác như đếm. Chính cách nhìn này làm người lớn trở nên khơ
cằn, lí tính hơn rất nhiều, cũng đồng nghĩa với việc họ dần đánh mất cảm tính
ngây thơ và tinh tế của mình. Rõ ràng, mọi người lớn đều đã từng là trẻ con,
nhưng rất ít người trong số họ cịn nhớ đều đó, rất ít người cịn giữ được những
cảm xúc và cái nhìn thưở ban sơ. Đó chính là điều mất mát lớn lao của người
lớn, của sự trưởng thành.
Sự cảm nhận của con mắt trẻ thơ về người lớn dường như làm mỗi chúng
ta phải giật mình khi nhận ra, người ta cứ mong được lớn lên, sớm trưởng thành,
cố gắng để lí trí và thơng minh hơn để đếm được nhiều số hơn, sở hữu nhiều tài
sản hơn, nhưng giá trị ta thật sự nhận được khi lớn lên sẽ là gì khi đó chỉ là
những con số hữu hạn, những con số đếm được và cằn cỗi vô hồn? Cái giá của
trưởng thành là khơn ngoan, là thay cảm tính bằng lí tính, điều đó đồng nghĩa
với việc con người mất dần khả năng đồng cảm, khả năng mở rộng lịng mình
để chân thành cảm nhận thế giới. Đó có lẽ là điều vơ cùng đáng sợ, là cái giá vô
cùng đắt mà con người phải trả sau quá trình lớn lên. Điều mất mát đó được tác
giả thấm thía vơ cùng sâu sắc, cũng chính là nguồn cơn sâu xa của nỗi cơ độc
mà khơng ít người phải chịu đựng giữa thế giới “chẳng có một ai để chuyện trị
thực sự”. Phải chăng hành trình sống và trưởng thành của của con người là hành
trình cứ ngày một mất mát dần đi, vậy thì cịn nỗi đồng cảm, cịn tiếng nói
chung nào để những tâm hồn trong trẻo như hoàng tử bé nương náu và kiếm tìm
sự sẻ chia?
14
2.1.2.
Con người cơng cụ mất mát
Hành trình của hồng tử bé vào thế giới của người lớn thực
sự bắt đầu khi cậu “nhân chuyến di trú của đàn chim trời để
làm cuộc trốn chạy”. Nỗi mất mát của con người đến đây khơng
chỉ được ẩn giấu qua cái nhìn, quan điểm của người kể chuyện
mà hiển hiện rõ qua các hình tượng nhân vật ở mỗi tiểu hành
tinh mà hồng tử bé ghé thăm. Mỗi nhân vật trên sáu tiểu hành
tinh là biểu tượng cho một kiểu người trong đời sống, mang tên
gọi chung là “người lớn”.“Người lớn thật kỳ cục!”, hồng tử bé
đã thốt lên như thế nhưng nói như vậy không nhằm cho rằng
người lớn thật kỳ quặc, khác người, xấu xí,… Đó là câu nói
mang giá trị như lời tuyên ngôn về mối quan hệ mâu thuẫn,
xung đột giữa cái thuần khiết, đầy mộng mơ của trẻ con và cái
thực dụng, quá đỗi khô khan của người lớn. Đối lập với con
người cảm tính và tâm hồn trong ngần của trẻ thơ là hình tượng
những người lớn- con người cơng cụ. Họ một mình, đơn độc,
khơng nối kết với bất kì ai trong vũ trụ rộng lớn, họ sống nơi
hành tinh của riêng mình với nhiệm vụ bất biến suốt cả cuộc
đời. Tên gọi của họ không phải những tên riêng mà là tên nghề
nghiệp, nhiệm vụ, những cái tên như của một loại máy móc,
cơng cụ chứ không phải con người.
Hành tinh của nhà vua oai vệ là hành tinh đầu tiên mà
hoàng tử bé đến thăm. Chỉ có mỗi một nhà vua “vận đồ lơng
chồn màu đỏ tía”, ngồi trên một cái ngai vàng hết sức giản dị
mà vẫn rất đỗi uy nghi mà thôi. Điều lạ kỳ là nhà vua này chỉ có
một mình trên hành tinh của mình, khơng có bất kì thần dân
nào cả. Thế mà khi hoàng tử bé xuất hiện, người đã reo lên: “Ồ!
Kia là một thần dân!” còn hồng tử bé tự hỏi: “Làm sao ơng
ấy có thể nhận ra mình được trong khi trước đây ơng ấy chưa
từng gặp mình?”. Điều quá đỗi ngạc nhiên ấy được lí giải một
cách thật hiển nhiên: “đối với các ơng vua, thế giới rất đỗi đơn
giản. Mọi người ai cũng là thần dân”. Khơng cần biết trên hành
tinh đó chỉ có mỗi một mình vị vua, khơng cần biết sẽ chẳng có
ai khác để trị vì, nhà vua chỉ cần biết đến vị thế quyền uy của
mình và sống với nó một cách máy móc. Hành tinh của nhà vua
rất nhỏ (vì nó đã bị cái áo chồng lộng lẫy của ngài choán hết
chỗ); ngài là một nhà vua chuyên quyền, rất muốn được “ra
lệnh” mọi người phục tùng mình, hoặc “có vẻ” phục tùng mình
(ngài liên tục ra lệnh cho hoàng tử bé ngay cả những chuyện
nhỏ nhặt nhất, cốt sao thể hiện được rằng “thần dân” của ngài
15
đang làm theo lời ngài nhất nhất: “trẫm hạ lệnh cho ngươi
ngáp”, “trẫm cấm ngươi làm điều đó”, “trẫm hạ lệnh cho ngươi
khi thì ngáp khi thì…”). Ngài biết rằng, “quyền lực trước tiên
dựa vào lẽ phải”, ngài cố gắng ban ra những mệnh lệnh hợp lí
nhưng dường như tồn những việc làm hiển nhiên. Hóa ra, sự
“hạ lệnh” của nhà vua chỉ như thứ hình thức làm thỏa mãn vị
thế mà ngài tự ban cho mình. Qua đoạn đối thoại ới hoàng tử,
ta nhận ra rằng nhà vua tuy không xấu xa nhưng lại nhu nhược
và cô đơn, ngài giá trị và ý nghĩa của quyền lực phải dựa trên lẽ
phải, nhưng ngài không thấu hiểu cách sở hữu và cách trị vì nó:
Ngài cho rằng mình trị vì tất cả với những hành tinh và cả
những vì sao nhưng rõ ràng là ngài không thể ra lệnh cho mặt
trời lặn ngay lập tức. Vậy, làm sao ngài có thể trị vì một cái gì
đó nếu ngài khơng thể điều khiển chúng, ra lệnh cho chúng? Rõ
ràng nhà vua biết rằng mình khơng thể trị vì tất cả: ngài ngập
ngừng khi hoàng tử bé xin ngài được xem cảnh mặt trời lặn,
nhưng niềm kiêu hãnh của một nhà vua khơng cho phép ngài
nói thế: “nhưng, theo luật trị nước của trẫm, trẫm sẽ đợi cho
đến khi các điều kiện được hội đủ”. Khi hồng tử ra đi, nhà vua
cịn vô cùng cố chấp khi phong cậu làm sứ giả, để phù hợp với
việc cậu bỏ lại nhà vua và ra đi.
Dường như cũng giống vị vua, chỉ có bản thân chúng ta
mới có thể nhìn thấu chúng ta nhất, nhưng niềm kiêu hãnh đã
đẩy lùi sự thấu hiểu ấy đi, biến chúng ta thành những kẻ bối rối
trước những điều chúng ta có thể và khơng thể, cái chúng ta sở
hữu và khơng sở hữu, cái chúng ta có thể chi phối và cái chúng
ta không thể chi phối. Con người thà tự xây dựng “thành trì”
của mình, “vương quốc” của mình và co mình trong đó, cịn hơn
chấp nhận sự bất lực của bản thân trước thế ngoài, một thế giới
vượt tầm kiểm soát và điều khiển của mình. Sống trong vỏ bọc
đầy mong manh ấy, con người trở thành cơng cụ cho ảo tưởng
của chính mình, đầy yếu đuối và ln cơ độc. Đó là điều mất
mát đáng sợ, và cũng vô cùng đáng thương khi con người trở
thành và sống như công cụ cho tư tưởng nhỏ bé, bấp bênh của
mình.
Hành tinh của ơng hợm hĩnh là tinh cầu thứ hai mà hoàng
tử đến thăm. Đối với kẻ hợm hĩnh, những người còn lại đề là
người hâm mộ mình. Gã bảo hồng tử bé “vỗ tay này vào tay
kia” để hắn cúi chào. Gã rõ ràng khơng có gì đáng tự hào, và gã
biết chắc điều đó (gã khơng khoe khoang về những điều gã có,
16
gã chỉ bảo hoàng tử bé vỗ tay như ra lệnh). Gã chuẩn bị sẵn
một cái mũ để cúi chào nhưng cũng nhận ra chẳng có ai ngang
qua đây để mà tung hơ gã. Rồi gã tự nhận rằng hồng tử bé
khâm phục gã biết bao và tự định nghĩa sự khâm phục ấy. Tóm
lại, hình tượng gã khốc lác trên hành tinh này đại diện cho loại
người tự huyễn hoặc mình vào ảo tưởng của riêng họ, co mình
vào ảo tưởng ấy và từ chối tiếp nhận những tác động từ bên
ngoài: “những người hợm hĩnh chẳng bao giờ nghe gì khác
ngồi lời khen”, “dẫu sao cứ hâm mộ ta đi”. Giống như vị vua,
thực chất kẻ hợm hĩnh cũng là cơng cụ cho thói khốc lác, tự tin
thái q của mình, đến nỗi khơng nhìn rõ được giá trị của bản
thân mà luôn chờ đợi vào lời khen ngợi của người khác, cho dù
đó là những lời khen vơ hình hoặc miễn cưỡng. Mỗi khi hồng tử
bé vỗ tay, kẻ hợm hĩnh lại giơ mũ lên, lặp đi lặp lại như một cỗ
máy. Đó chẳng phải là lúc con người đã trở thành công cụ hay
sao?
Hành tinh của ông nát rượu là hành tinh thứ ba hoàng tử
bé ghé thăm. Ơng ta trơng rất buồn thảm, ơng uống để quên đi
nỗi xấu hổ vì đã uống!? Đây là một kiểu biện hộ chối quanh, rõ
ràng ông ta không buồn vì say, cái làm cho ơng uống đến say
mèm là vì ham muốn cá nhân của ơng ấy. Có thể nói, kẻ say
rượu là đại diện cho những thói hư tất xấu của con người, phần
tính cách sa ngã của con người, ông ta biết say xỉn là đáng xấu
hổ, nhưng ông vẫn tiếp tục say xỉn. Cũng như những thói hư tật
xấu rõ ràng là phải sửa nhưng người ta vẫn cứ lần lữa chối
quanh. Những thói hư tật xấu của không đến từ những lý do
khách quan bên ngồi mà phần lớn đến từ ham muốn, thói
bng thả từ chính bên trong con người. Như vậy, con người vì
chính ham muốn và thói quen nng chiều, bng thả bản thân
đã trở thành cơng cụ cho thói hư tật xấu của mình. Sự ra đi của
hồng tử bé chính là sự khơng thỏa hiệp của cái thuần khiết với
những phần tính cách xấu xa. Với cậu, những người như ông nát
rượu, kẻ hợm hĩnh hay vị vua quyền uy đều hiểu rõ tư tưởng có
vấn đề của mình, nhưng họ lại từ chối đối mặt và sửa chữa nó,
điều này thật đáng chán và kì quặc.
Hành tinh của một nhà buôn là hành tinh thứ tư trong
chuyến viễn du của hồng tử bé. Nơi đây có một nhà buôn chỉ
suốt ngày lẩm nhẩm đếm mọi thứ mà không quan tâm đến bất
cứ điều gì khác. Cơng việc quan trọng nhất và có vẻ đã chiếm
hết thời gian của ơng ta là đếm những vì sao. Ơng có những
17
triết lý và ngun tắc của riêng mình, ơng co mình trong thế
giới riêng, tin rằng điều mình làm là đúng đắn và không tiếp
nhận những cách suy nghĩ nào khác từ bên ngoài. Đối với
hoàng tử bé, đây là một cách sống quá đỗi nhàm chán và kỳ lạ.
Cuộc đối thoại giữa nhà bn và hồng tử bé gợi cho ta triết lý
về cái vơ hình và cái hữu hình, cái có thể sở hữu và cái khơng
thể sở hữu. Đối với nhà bn, ơng cho rằng những vì sao thuộc
về mình và lý giải: “bởi ta là người đầu tiên tính đến chuyện
đó”. Nhưng đối với hồng tử bé, chỉ khi mang đến lợi ích cho
một điều gì đó, ta mới có quyền tuyên bố ta sở hữu nó, như
cách cậu u thương, chăm sóc cho bơng hồng, cho những quả
núi lửa trên hành tinh của mình. Trong cuộc sống, con người
luôn bị chi phối bởi thế giới vật chất xung quanh, với các mối
quan hệ phức tạp giữa người và người, giữa người và vạn vật
với nhau trong vũ trụ. Các mối quan hệ ấy chính là biểu hiện
của những suy tư, những ước muốn về cuộc sống mà qua đó
con người tự tìm hạnh phúc riêng cho mình. Cuộc đối thoại giữa
ơng nhà bn và hồng tử bé là cuộc đối thoại giữa lịng tham,
sự vơ minh của con người (khi chẳng tạo ra được giá trị thực
tiễn nào từ ước muốn sở hữu các vì sao của mình cả) với trí
thơng tuệ, tấm lịng thấu suốt xuất phát từ tình u thương.
Khơng những thế ơng còn phá vỡ mối quan hệ giữa con người
và vạn vật vũ trụ, chỉ vì lịng tham muốn đếm được hết các vì
sao “để giàu có, để mua những sao khác”, và dù ơng khơng thể
nắm bắt được nó, khơng thể biết được bản chất thật của nó,
khơng sử dụng được nó nhưng ơng vẫn cho nó là của mình, là
thuộc về mình. Đây là bản chất thực mà ơng khơng thể nhìn
thấy được. Tính cơng cụ của con người nhà bn chính là sự thu
nhận và thực hiện, đếm số, tính tốn một cách máy móc những
vật chất mà khơng biết cách tận dụng giá trị đích thực của
chúng.
Hành tinh của người thắp đèn là điểm đến tiếp theo của
chuyến đi. Người này dù mang nhiệm vụ thực hiện một cơng
việc rất đỗi bình thường là thắp sáng- tắt cây đèn đường, thế
nhưng ông lại làm với một tinh thần hết sức trách nhiệm, sẵn
sàng hy sinh thời gian nghỉ ngơi của mình chỉ để hồn thành
cơng việc quen thuộc mà không chút phiền muộn. Tuy ông làm
việc hết lịng, khơng mưu toan, tính tốn thiệt hơn, qn mình
hồn thành tốt cơng việc của mình nhưng ơng lại chỉ biết tuân
thủ mệnh lệnh vô điều kiện, dù cho mật độ và khối lượng công
18
việc hết sức vô lý. Điều này được thể hiện rõ khi hồng tử bé
vạch cho ơng một kế hoạch thật cụ thể giúp ơng có thời gian để
nghỉ ngơi nhưng ơng lại từ chối và nói lên ước muốn của mình
“đời tơi chỉ muốn ngủ thơi”. Rõ ràng trong sâu thẳm trái tim
ông, ông chỉ muốn được ngủ nhưng vì chấp vào cái được gọi là
“mệnh lệnh” mà ơng bất chấp mọi thứ, kể cả bản thân, vùi
mình vào công việc. Đây cũng là một con người công cụ điển
hình khi cả đời chỉ biết tuân thủ và chấp hành nhiệm vụ. Nhưng
với trái tim thấu suốt của hoàng tử bé, đó là con người khác tất
cả những người cậu từng gặp, một con người công cụ không lố
bịch, “điều đó hẳn là bởi ơng ấy lo nghĩ cho một điều gì khác
ngồi bản thân mình”. Con người cơng cụ thì ra khơng hẳn
đáng trách hay xấu xa, nhưng chỉ vì cố chấp với mệnh lệnh vơ
hình mình phải tuân theo mà đánh mất đi con người thật và
quyền sống như một con người của mình.
Tinh cầu thứ sáu có một ơng già tự xưng mình là một nhà
địa lý, nhưng ông không biết được những biển, núi, các thành
phố, sơng ngịi và sa mạc ở đâu cả. Ơng quan niệm rằng “nhà
địa lý là người quan trọng nên khơng đi rong làm gì cả”, đó là
cơng việc của các nhà thám hiểm. Ơng chỉ làm mỗi một việc
đón tiếp các nhà thám hiểm, hỏi han bọn họ rồi ghi chép lại
theo lời họ kể mà ông cho là hợp lý và là khám phá mới. Khi
nhà địa lý yêu cầu hoàng tử bé kể về hành tinh của mình để ghi
chép, hồng tử bảo rằng nó rất bé, chỉ có ba núi lửa và một
bơng hoa. Tuy nhiên, nhà địa lý lại không muốn ghi chép về
bông hoa, bởi nó là thứ phù du. Ơng lý giải điều này rằng “núi
lửa tắt hay phun lại với chúng ta đều như nhau cả. Điều quan
trọng với chúng ta là bản thân quả núi kia”, tức là ông chỉ muốn
ghi chép những gì có tính chất vĩnh cửu, ít thay đổi, và chẳng
bao giờ lỗi thời. Với ông điều này mới làm nên giá trị nghiên cứu
của một nhà địa lý. Nhưng với hồng tử bé, bơng hoa kia dù rất
mong manh, nhưng tự thân nó được bảo bọc bởi bốn cái gai để
tự vệ. Đó chính là bản lĩnh sống tự bảo vệ mình để tồn tại ngay
trong cái phù du của chính cuộc đời nó. Những điều vĩnh cửu
mà nhà địa lý muốn ghi chép sẽ chẳng có giá trị gì nếu ơng
khơng được tận mắt chứng kiến hành trình phát triển và sinh
tồn của chúng. Như một công cụ, một chiếc máy ghi chép, nhà
địa lý cũng sống trong khơng gian, hành tinh bó hẹp của mình
với những tư tưởng, quan niệm cố hữu không bao giờ đổi dời.
19
Khi người lớn trở thành những công cụ mà phần lớn để
phục vụ cho tư tưởng nhỏ bé, eo hẹp, ích kỉ của bản thân, với
hồng tử bé, đó là những “người lớn cực kì khác thường”. Sáu
người lớn cậu gặp nơi sáu hành tinh lạ lùng đều mang đến cho
cậu những ý niệm về sự kì cục, khó hiểu về người. Họ được định
danh bằng cơng việc của mình, con người và tính cách họ
khơng có gì hơn sự máy móc và cố chấp làm những điều thậm
chí là vơ nghĩa. Sáu người lớn ấy với những vai trị khác nhau,
nhưng họ mang một điểm chung là đã mất đi khả năng cảm
nhận bằng trái tim, khả năng nhìn rõ bản chất của sự việc,
thậm chí nhìn rõ chính bản thân mình. Trong vần xoay của cơng
việc, của những máy móc, số đếm hay ham muốn, họ trở nên
vơ minh và có phần ngớ ngẩn. Đó liệu có phải chỉ là sáu con
người trên sáu hành tinh xa lạ, hay chính là những biểu tượng
về những kiểu người lớn ta vẫn thường thấy trong đời sống
hàng ngày, khi con người mải mê với vật chất, cơm áo gạo tiền,
ta rất dễ biến thành những công cụ. Từ trong vô thức đến mức
không thể nhận thức, con người công cụ đã trở nên mất mát
thật nhiều điều giá trị.
Trên trái đất, hồng tử bé đã tìm thấy một người bạn xứng
đáng, một người bạn thực thụ của mình, đó là người phi công bị
rơi máy bay trên sa mạc.
Nhưng dù sao, đó cũng
là một đã trưởng thành,
cho dù tâm hồn trong
sáng luôn được anh cố
gắng giữ cho không vẩn
đục, anh vẫn có lúc
khơng thốt khỏi vai trị
như là một cơng cụ của
mình. Khi máy bay vẫn
đang hỏng và người phi
cơng đang “bận” sửa chữa động cơ, khi hoàng tử bé kể về bơng
hoa thì anh lại chú tâm vào “những chuyện nghiêm túc”. Điều
đó làm buồn đau và thất vọng tấm lịng của hồng tử khơn xiết.
Thì ra, dù con người ta có cố gắng đến mấy để giữ gìn tâm hồn
trong ngần, thì lẽ trưởng thành, sự lớn lên, công việc và những
sự cố luôn làm ta phải bận tâm, phải thực dụng mà quên đi mất
điều ta đang có, điều đáng lẽ ta phải trải nghiệm bằng cả trái
tim. Nỗi đớn đau và những giọt nước mắt khi hồng tử bé ịa
20
khóc phải chăng cũng chính là nỗi thổn thức của tác giả Antoine
de Saint-Exupéry về số phận và sự mất mát của chính mình. Có
nhiều khẳng định cho rằng, Hồng tử bé còn là tác phẩm viết
về sự mất mát trong chiến tranh, khi con người trở thành những
công cụ chiến đấu cho những điều phi nghĩa. Tác giả với vai trị
là một phi cơng trong qn đội có lẽ cũng mang cảm thức lớn
về nỗi mất mát này. Sáng tác câu chuyện vào lúc đất nước Pháp
đang bị chiếm đóng, cảm thức mất mát khơng chỉ dừng lại ở
việc nhìn nhận giá trị con người mà cịn là nỗi mất mát về ý
nghĩa và toàn bộ nền văn minh, văn hóa của đất nước mình.
Chiến tranh, với sự lên ngơi của vũ khí và con người cơng cụ đã
làm mất đi nhiều giá trị nhân văn, nhân bản của con người. Đó
là nỗi đau, là bi kịch ẩn sâu trong những hình tượng, nhân dịng
cảm xúc u uẩn qua hành trình viễn du của hồng tử mà được
kín đáo cất lên.
2.1.3.
Con người trăn trở, băn khoăn trước nguy cơ
mất mát
Nhà văn Antoine de Saint-Exupéry với hình tượng hồng tử
bé đã gửi gắm cả cảm thức về con người băn khoăn, trăn trở
trước nguy cơ mất mát. Đó là con người vẫn mang tâm hồn
trong ngần, thuần khiết như trẻ thơ, nhưng trước những biến
cố, nỗi đau, sự thất vọng của cuộc đời, tâm hồn mong manh ấy
liệu có được gìn giữ vẹn ngun như thở ban đầu?
Hồng tử bé trong cái nhìn của người phi cơng là một “cậu
chàng bé nhỏ quá ư lạ thường”. Với hình hài bé nhỏ, hồng tử
bé gợi bóng dáng của một đứa trẻ, tâm hồn cậu trú ngụ trong
thân hình đó cũng là tâm hồn thuần khiết của trẻ thơ. Như vậy,
ngay từ cách miêu tả chân dung và tên gọi “hoàng tử bé”,
người kể chuyện đã đem ý niệm trẻ thơ gắn với hình tượng
nhân vật. Đó là trạng thái con người khi chưa trưởng thành,
chưa lớn lên, chưa mất mát và vẫn mang trái tim nhiệt thành
sáng trong. Chân dung này vô cùng phù hợp với quan niệm của
người kể chuyện về người lớn- trẻ con, cũng phù hợp với cả tính
cách, suy nghĩ của hồng tử bé dần được hé lộ sau này.
Hồng tử bé khơng đơn độc, cậu sở hữu “gia tài” là hành
tinh B612 với một bông hồng kiêu kì mà cậu yêu thương, ba
quả núi lửa mà tuần nào cậu cũng nạo vét và những mầm cây
cả tốt lẫn xấu nảy nở rất nhanh. Đó là một tinh cầu nhỏ bé,
không lớn hơn ngôi nhà là bao, nơi một ngày cậu có thể ngắm
21
mặt trời lặn đến 44 lần, nhỏ bé như vậy, nhưng đó là một hành
tinh đủ đầy. Hồng tử bé sở hữu hành tinh đó bởi lẽ cậu đã săn
sóc cho mọi thứ một cách vô cùng cẩn trọng và đầy tình yêu
thương cùng với trách nhiệm. vì Hành tinh của cậu khơng thiếu
thứ gì, nó có tình u, nỗi giận hờn, sự kiêu kì, cả những mầm
mống thiện ác. Ta tưởng như, hoàng tử bé là một người thật
giàu có, cậu sẽ mãi bình n trên hành tinh của mình nếu một
ngày, cậu khơng quyết định rời bỏ hành tinh của mình vì những
lời của bơng hồng làm cậu vơ cùng đau khổ. Đến đây, hành
trình của cậu bắt đầu.
Quả thực, con người sẽ mãi sống với những hạnh phúc vẹn
tròn với tâm hồn trong sáng thuần khiết như thuở ban sơ, nếu
con người khơng có sự va đập, chạm trán với những hỉ, nộ, ái, ố
của cuộc đời. Mà có con người nào có thể sống nếu khơng va
vào cuộc đời này? Hoàng tử bé cũng vậy, cậu đã đem lịng u
thương bơng hoa hồng kiêu hãnh kia và lo cho những nỗi lo của
cô nàng, đau khi cơ nàng giận dỗi và khổ vì những lời vơ thưởng
vô phạt của cô. Tâm hồn cậu đứng trước nguy cơ bị làm tổn
thương, đớn đau và chực chờ nát vụn, bởi thế cậu quyết tâm
lên đường, nương theo cuộc di trú của đàn chim để làm cuộc
trốn chạy.
Ngay từ phút giây chuẩn bị cho cuộc chia tay, cậu lại tìm
được cảm giác dịu ngọt khi lần cuối làm những cơng việc săn
sóc hàng ngày cho hành tinh của mình. Cậu tưởng mình chẳng
bao giờ cần trở về nữa, vì thế cậu có chút phiền muộn khi nhổ
22
những hạt mầm bao báp cuối cùng. Hoàng tử bé đã chuẩn bị kĩ
lưỡng cho chuyến đi của mình như vậy. Đến phút cuối, nàng
hoa hồng của cậu mới nói lời xin lỗi đầy thổn thức và chúc phúc
cho cậu, “nàng khơng muốn cậu nhìn thấy nàng khóc. Đó là
một bơng hoa rất mực kiêu hãnh”. Chính phút giây cuối cùng
này, tình cảm của bơng hồng mới được bộc lộ một cách kín đáo.
Hóa ra, con người ta cứ phải đợi đến lúc chia li, đợi đến giây
cuối cùng mới có thể dũng cảm nói ra cảm xúc của mình. Như
vậy, hoàng tử bé phải đứng trước nguy cơ mất mát cả “gia tài”
của mình, để có thể nhận ra tình cảm của bơng hồng mình u
thương.
Từ đây, hành trình viễn du của cậu mới chỉ bắt đầu. Đó là
một hành trình kỳ lạ và nhiều băn khoăn. Cậu gặp những người
lớn và đặt ra rất nhiều câu hỏi, “đời cậu chưa bao giờ bỏ lửng
một câu hỏi nào một khi đã đặt ra”. Những băn khoăn của
hoàng tử bé tuy là những câu hỏi quá đỗi đơn giản và hồn
nhiên, nhưng những người lớn cậu gặp ở sáu tiểu hành tinh đều
không làm cậu thỏa mãn, cậu thấy họ thật khác thường và kì
cục. Đến trái đất, nỗi băn khoăn, trăn trở ấy càng nhân lên gấp
bội vì những điều cậu nhìn thấy.
Đó là con rắn thơng tuệ đầy bí hiểm, cho rằng con người
ln ln cơ đơn; đó cịn là bơng hoa ba cánh “tầm thường lãng
nhách”, là cả vườn hồng năm nghìn bơng đều giống bơng hoa
của cậu. Nỗi băn khoăn, trăn trở đến bây giờ vỡ ịa thành nỗi
thất vọng: “Mình cứ tưởng mình giàu có với một bơng hoa độc
nhất vơ nhị, thế mà mình chỉ sở hữu một bơng hồng bình
thường. Một bơng ấy cùng ba quả núi lửa cao đến đầu gối mình
nữa, mà một trong số đó có lẽ đã tắt vĩnh viễn rồi, cái đó chẳng
khiến mình trở thành một hồng tử lớn nào hết’. Rồi cậu nằm
phục xuống cỏ và khóc.” Những giá trị mà cậu đã tin và sống vì
chúng giờ đây đứng trước nguy cơ bị phá hủy hoàn toàn. Khi
con người đứng trước khủng hoảng niềm tin, tâm hồn ta mong
manh đến nỗi có thể vỡ vụn ra và mất đi trong khoảnh khắc.
Hành trình sống của con người cũng giống như cuộc viễn
du ấy của hoàng tử, những giá trị cốt lõi ln có nguy cơ lụi tàn
trước biến chuyển, vần xoay của cuộc đời. Băn khoăn, trăn trở
là những trạng thái tinh thần thường thấy của con người. Điều
đó khơng hề là xấu xa hay đáng buồn, bởi lẽ khi biết trăn trở,
bấp bênh và khơng ngừng băn khoăn, khơng ngừng nghi hoặc,
đó chính là lúc con người sống cao độ với nhân tính và khát
23
vọng của mình. Những nếp mịn cố hữu trong suy nghĩ của con
người, làm cho con người thành công cụ (như nhà bn, nhà địa
lí, ơng vua,…), làm con người quen với guồng sống thường
ngày, mất đi năng lực ngạc nhiên, năng lực băn khoăn, khơng
cịn nhu cầu tìm hiểu về thế giới và cả chính bản thân mình, đó
mới là điều đáng sợ nhất. Hoàng tử bé đứng trước nỗi thất vọng
vỡ òa, đứa trước những câu hỏi lớn vơ cùng về giá trị mà cậu tin
tưởng, đó là động lực để cậu tiếp tục hành trình tìm kiếm câu
trả lời đích thích. Đó cũng chính là khi con người thực sự sống
và khao khát sống một cách ý nghĩa nhất với bản thân mình.
2.2. Con người và hành trình tìm lại những điều đã mất
2.2.1.
Con người dám ra đi để nhận ra bài học về
những điều cốt tử
Đứng trước những trăn trở, băn khoăn và nguy cơ mất
mát, hồng tử bé khơng chấp nhận mà quyết định làm một
chuyến đi xa hành tinh của mình. Đó khơng phải cuộc trốn chạy
của kẻ nhu nhược, yếu đuối, đó là hành trình đầy can đảm của
con người dám vượt qua hồi nghi, vượt qua sợ hãi để kiếm tìm
những điều giá trị. Để chuẩn bị cho hành trình này, cậu đã săn
sóc lần cuối cho hành tinh của mình với cảm giác dịu ngọt xen
lẫn nuối tiếc, buồn đau. Đó chỉ là cái giá rất nhỏ, khởi đầu cho
những gian nan, đánh đổi của cậu. Không chỉ phải trải qua cảm
giác về “lần cuối” ấy với những điều đã thành thân thương, gắn
bó với cậu, những điều là cả gia tài của cậu, hồng tử bé cịn
phải rời xa người tình cậu u- bơng hồng kiêu hãnh và duy
nhất.
Trên hành trình của mình, hồng tử bé gặp những người
lớn “thật là khác thường” trên mỗi hành tinh nhỏ bé của riêng
họ, đối mặt với những tính cách và tư tưởng hoàn toàn khác
biệt. Vậy mà trái tim thuần khiết của cậu chưa bao giờ bị mờ
đục đi, nó càng thêm sáng trong và ấm áp. Đó phải chăng
chính là nhờ bản lĩnh cùng tình cảm chân thành giúp cậu “bảo
tồn” được những giá trị ban sơ vẹn nguyên của mình. Khi thấy
những bơng hồng giống hệt người tình mà mình vẫn nghĩ là duy
nhất, đóa hoa nào cũng xinh đẹp rạng rỡ như đóa hồng của
cậu, trái tim trong sáng kia như bị cứa một vết dao làm cậu vỡ
òa trong nỗi thất vọng và nước mắt. Nếu khơng có lịng can
đảm, có lẽ cậu đã gục ngã mãi mãi. Nhưng may mắn thay, chú
cáo thông thái là phần thưởng đã đến để an ủi trái tim thuần
khiết của cậu.
24
Những quan niệm, triết lí về cuộc sống, về con người, về
sự tuần dưỡng, về vẻ đẹp đích thực của con Cáo đã khiến
hoàng tử hiểu ra nhiều điều và lấy lại tinh thần, tiếp tục niềm
tin và tình yêu với đóa hồng của mình. Cáo đã dạy hồng tử bài
học về sự “thuần hóa” của con người với những thứ họ yêu, để
cậu nhận ra bông hồng của riêng cậu khác với năm nghìn bơng
hồng kia ở chỗ nào:“Các cô chẳng giống bông hồng của tôi chút
nào, các cô chưa là gì cả, cậu bảo chúng. Chẳng có ai thuần
hóa các cơ và các cơ cũng chẳng thuần hóa một ai. Các cô
giống như cậu cáo của tôi trước đây thơi. Chỉ là một con cáo
như trăm nghìn con cáo khác. Nhưng tôi đã biến cậu ta thành
bạn, và cậu ta bây giờ là duy nhất trên đời”. Vậy sự “thuần
hóa” ấy chính là việc con người tạo nên những mối quan hệ,
những liên kết về tình cảm, cảm xúc với người khác, khiến ta
trở nên gắng bó với nhau, tương cảm với nhau và có sự quan
tâm lo lắng cho nhau. Đây cũng là một dạng biểu hiện của tình
u.
Chính những lí giải về sự “thuần hóa” ấy của cáo đã gợi
lên trong lịng của hồng tử những suy nghĩ về đóa hoa hồng
của mình: “Có một đóa hoa…ta tưởng nàng đã tuần dưỡng ta”.
Tình u khơng thể đồng hóa với sự tồn tại duy nhất, tình u
khơng thể xuất phát từ sự cảm nhận ở vẻ ngoài của sự vật, tình
yêu là sự cảm nhận từ bên trong, là cả một q trình “thuần
hóa” giữa hai vật thể để tạo nên sự liên kết và tương giao. Tình
u cần có những rung cảm xuất phát từ trái tim của con người,
như việc hẹn hò mà cáo đã hẹn với chàng hồng tử:“Ví dụ nhé,
nếu cậu đến vào lúc bốn giờ chiều, thì từ ba giờ tớ đã bắt đầu
vui sướng rồi”. Và tình yêu thật sự cũng cần phải có những xúc
cảm luyến lưu khi chia cách, như : “Ơi!”, con cáo nói, “Tớ sắp
khóc mất”. Chính sự thương u, chính những rung động dành
cho đóa hồng của hồng tử đã khiến nó trở nên đặc biệt và trở
thành duy nhất trong lòng cậu. Hiểu được điều này, hồng tử
chọn trở về với hành tinh bé xíu của mình. Cậu nhận ra và càng
khẳng định được chắc chắn tình cảm dành cho bơng hồng của
mình. Nàng đỏng đảnh vì nàng muốn được cậu yêu thương, dỗ
dành, nàng chỉ đỏng đảnh với riêng mình cậu mà thơi. Kì thực
thì trên thế giới này, chỉ có mình nàng là bông hoa đặc biệt
nhất, bông hoa của riêng cậu. Đã đến lúc cậu cần phải trở về,
trở về để bảo vệ và yêu thương đóa hồng. Như thế, ta nhận ra
trong suốt hành trình cuộc đời, mình vẫn thường phải đi rất xa
25