..
TRƯỜNG ĐẠI HỌC AN GIANG
KHOA LÍ LUẬN CHÍNH TRỊ
NGUYỄN THỊ BÍCH CHI
SINH VIÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC AN GIANG HỌC
TẬP VÀ LÀM THEO TẤM GƯƠNG ĐẠO ĐỨC CẦN,
KIỆM, LIÊM, CHÍNH CỦA HỒ CHÍ MINH.
THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP
KHĨA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
KHÓA HỌC: 2007 - 2011
An Giang, 2011
TRƯỜNG ĐẠI HỌC AN GIANG
KHOA LÍ LUẬN CHÍNH TRỊ
NGUYỄN THỊ BÍCH CHI
SINH VIÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC AN GIANG HỌC
TẬP VÀ LÀM THEO TẤM GƯƠNG ĐẠO ĐỨC CẦN,
KIỆM, LIÊM, CHÍNH CỦA HỒ CHÍ MINH.
THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP
KHĨA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
NGÀNH HỌC: SƯ PHẠM GIÁO DỤC CHÍNH TRỊ
CÁN BỘ HƯỚNG DẪN: BÙI THU HẰNG
An Giang, 2011
Lời cảm ơn
Được làm khoá luận tốt nghiệp là mong ước của nhiều sinh viên, tuy
nhiên để hồn thành khóa luận phải mất nhiều công sức và thời gian để nghiên
cứu. Do tính chất quan trọng của khóa luận tốt nghiệp này mà ngay từ đầu
năm học, tôi đã chuẩn bị và có hướng chọn đề tài. Nhờ sự giúp đỡ, hướng dẫn
của ban lãnh đạo Khoa Lý luận Chính trị, đặc biệt là Cô Bùi Thu Hằng là
người trực tiếp hướng dẫn và tận tình giúp đỡ trong suốt quá trình nghiên cứu
và tìm hiểu đề tài. Kết quả là tơi đã có một bài khóa luận hồn chỉnh, đúng hạn
định.
Qua đây tôi chân thành cảm ơn Khoa Lý luận Chính trị trường Đại
học An Giang, phịng cơng tác sinh viên, tỉnh đoàn An Giang, thư viện trường
Đại học An Giang, thư viện tỉnh An Giang đã cung cấp cho tôi nguồn tài liệu
vô cùng quý giá và bổ ích.
Song do trình độ kiến thức, điều kiện và thời gian có hạn nên đề tài
nghiên cứu của tơi chắc chắn khơng tránh khỏi sai sót. Tơi rất mong nhận
được sự thơng cảm và góp ý chân tình của q thầy cô và các bạn để đề tài
nghiên cứu của tơi được hồn thiện hơn.
Tơi cũng khơng qn cám ơn tất cả các bạn lớp Sư phạm Giáo Dục
Chính trị khóa 8, thầy chủ nhiệm đã nhiệt tình động viên giúp đỡ, nhắc nhở tơi
thực hiện khóa luận này.
Xin chân thành!
Sinh viên thực hiện
Nguyễn Thị Bích Chi
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ............................................................................................................1
1. Lí do chọn đề tài..........................................................................................1
2. Tình hình nghiên cứu đề tài ........................................................................2
3. Mục đích, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu...............................................2
4. Phương pháp nghiên cứu.............................................................................3
5. Đóng góp mới về khoa học..........................................................................3
6. Kết cấu ........................................................................................................3
NỘI DUNG ........................................................................................................5
CHƯƠNG 1: ĐẠO ĐỨC CÁCH MẠNG VÀ TẤM GƯƠNG ĐẠO ĐỨC
CÁCH MẠNG CỦA HỒ CHÍ MINH. ............................................................5
1.1. Đạo đức và vai trò của đạo đức cách mạng theo tư tưởng Hồ Chí Minh ....5
1.1.1. Đạo đức cách mạng..............................................................................5
1.1.2. Vai trị của đạo đức cách mạng ............................................................8
1.2. Tấm gương đạo đức cách mạng của Hồ Chí Minh ......................................... 11
1.2.1. Đạo đức Hồ Chí Minh là tấm gương trọn đời phấn đấu, hy sinh
vì sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con
người và nhân loại. .................................................................................................. 11
1.2.2. Đạo đức cách mạng Hồ Chí Minh là tấm gương của ý chí và
nghị lực tinh thần to lớn, vượt qua mọi thử thách, khó khăn để đạt được mục
đích cách mạng. ...................................................................................................... 13
1.2.3. Đạo đức Hồ Chí Minh là tấm gương tuyệt đối tin tưởng vào sức
mạnh của nhân, kính trọng nhân dân, hết lòng hết sức phục vụ nhân dân. ........... 14
1.2.4. Đạo đức Hồ Chí Minh là tấm gương của một người nhân ái vị
tha, khoan dung, nhân hậu, hết mực vì con người.................................................. 15
1.2.5. Đạo đức Hồ Chí Minh là tấm gương cần, kiệm, liêm, chính, chí công
vô tư, đời sống trong sáng, nếp sống giản dị và đức khiêm tốn phi thường .......... 16
1.3. Sự cần thiết phải học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh.21
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP CỦA VIỆC HỌC TẬP VÀ
LÀM THEO TẤM GƯƠNG ĐẠO ĐỨC HỒ CHÍ MINH CỦA SINH
VIÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC AN GIANG TỪ NĂM 2007 ĐẾN 2010. ........25
2.1. Thực trạng của việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí
Minh của sinh viên trường Đại học An giang từ năm 2007 đến 2010..............25
2.1.1. Mặt mạnh của việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức
cần, kiệm, liêm, chính trong sinh viên trường Đại học An giang .....................25
2.1.1.1. Về nhận thức ................................................................................29
2.1.1.2. Về hành động ...............................................................................30
2.1.1.3. Nguyên nhân ................................................................................34
2.1.2. Hạn chế của việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức cần,
kiệm, liêm, chính trong sinh viên trường Đại học An giang.............................38
2.1.2.1. Về nhận thức ................................................................................38
2.1.2.2. Về hành động ...............................................................................38
2.1.2.3. Nguyên nhân ................................................................................42
2.2. Giải pháp nhằm nâng cao đạo đức cách mạng cho sinh viên. ...................44
2.2.1. Về phía nhà trường..............................................................................44
2.2.2. Về phía sinh viên.................................................................................46
KẾT LUẬN ......................................................................................................49
BẢNG CHÚ THÍCH VIẾT TẮT ...................................................................51
PHỤ LỤC ........................................................................................................52
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.......................................................53
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Hồ Chí Minh là vị lãnh tụ vĩ đại của dân tộc Việt Nam, nhà văn hóa
kiệt xuất. Người đã để lại cho dân tộc ta di sản tinh thần to lớn, trong đó có tư
tưởng về đạo đức. Người có nhiều cống hiến về tư tưởng đạo đức cách mạng
và đặc biệt Người cũng chính là một tấm gương mẫu mực về thực hành đạo
đức cách mạng cho toàn Đảng, toàn dân ta học tập và làm theo.
Hồ Chí Minh đã từng nói: “Đạo đức cách mạng không phải từ trên trời
sa xuống. Nó do đấu tranh, rèn luyện bền bỉ hàng ngày mà phát triển và củng
cố. Cũng như ngọc càng mài càng sáng, vàng càng luyện càng trong” [5,
tr.218]. Đạo đức đó khơng phải là đạo đức thủ cựu, nó là đạo đức mới. Nó
khơng vì danh vọng của cá nhân mà vì lợi ích chung của Đảng, của dân tộc và
của lồi người. Theo cách diễn đạt bình dị của Người thì đạo đức có tầm quan
trọng như gốc của cây, ngọn nguồn của sông suối, sức mạnh của con người.
Người đã nói “Một dân tộc, một Đảng và mỗi con người, ngày hơm qua là vĩ
đại, có sức hấp dẫn lớn, không nhất định hôm nay và ngày mai vẫn được mọi
người yêu mến và ca ngợi, nếu lòng dạ khơng cịn trong sáng nữa, nếu sa vào
chủ nghĩa cá nhân”. Người cũng thường xuyên nhấn mạnh: “Đảng phải là đạo
đức, phải là văn minh”, cán bộ, đảng viên có đạo đức cách mạng, vừa hồng
vừa chuyên.
Tuy nhiên, trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, bên cạnh việc tiếp
nhận những thành tựu khoa học kỹ thuật hiện đại thì chúng ta đang phải ra sức
chống chọi với những biến động bất thường của nền kinh tế cũng như những
luồng văn hóa tiêu cực xâm nhập vào nước ta bằng nhiều con đường khác
nhau. Nó đang tác động hàng ngày, hàng giờ đến mỗi người chúng ta, trong đó
đáng lưu tâm là vấn đề đạo đức của con người, nó ảnh hưởng lớn đến q trình
đi lên của cách mạng Việt Nam. Vì vậy, việc học tập và làm theo tấm gương
đạo đức Hồ Chí Minh là rất quan trọng và cần thiết không chỉ đối với cán bộ,
đảng viên mà cả đối với sinh viên. Hồ Chí Minh rất quan tâm xây dựng đạo
đức cho thanh niên, sinh viên và đào tạo họ thành những người vừa hồng vừa
chuyên xứng đáng là đội hậu bị tin cậy của Đảng, là lớp người kế tục sự
nghiệp của cách mạng. Đối với sinh viên là những người sinh ra và lớn lên
trong thời kì đổi mới là đối tượng nhạy cảm nhất trước những biến đổi vơ
cùng nhanh chóng của đất nước và thế giới. Họ trước hết mang đầy đủ những
đặc điểm chung của con người, đồng thời, họ cịn mang những đặc điểm riêng:
trẻ, có tri thức, dễ tiếp thu cái mới (trong đó có cả những mặt tích cực và
1
những mặt tiêu cực). Họ có ý thức cao về bản thân mình và muốn thể hiện vai
trị cá nhân. Tuy nhiên, cái cá nhân nhiều khi lấn át cái cộng đồng, xem lợi ích
cá nhân là quan trọng hơn tất cả. Từ đó hình thành tư tưởng, thái độ bàng quan
đối với những người xung quanh, hưởng thụ, đua đòi, dễ bị dao động về mặt
định hướng đạo đức và lối sống ở một bộ phận sinh viên trong bối cảnh nước
ta mở cửa hội nhập….Vì lẽ đó, nên tôi đã chọn đề tài “Sinh viên trường Đại
học An giang học tập và làm theo tấm gương đạo đức cần, kiệm, liêm, chính
của Hồ Chí Minh. Thực trạng và giải pháp” để làm khóa luận tốt nghiệp cho
mình với mong muốn bổ sung kiến thức cho bản thân, bên cạnh đó đóng góp
một số giải pháp góp phần nâng cao đạo đức cách mạng của sinh viên trong
giai đoạn hiện nay.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Vấn đề đạo đức cách mạng và việc học tập đạo đức cách mạng theo tư
tưởng Hồ Chí Minh đã và đang được nghiên cứu một cách rộng rãi và phổ
biến ở nhiều khía cạnh khác nhau:
- “Học tập đạo đức cách mạng Hồ Chí Minh”, Nxb Thơng Tấn, HN,
2004.
- “Hồ Chí Minh về đạo đức cách mạng”, Nxb Sự Thật, HN 1976.
- “Chủ tịch Hồ Chí Minh với vấn đề đạo đức cách mạng”, Nxb Thơng
Tin Lí Luận, HN 1986.
- “Hồ Chí Minh về đạo đức”, Nxb Chính Trị Quốc Gia, HN 1993.
- “Đạo đức, phong cách, lề lối làm việc của cơng chức theo tư tưởng Hồ
Chí Minh”, Nxb Khoa học xã hội, HN 1998, Thang Văn Phúc chủ biên.
- “Quan hệ kinh tế và đạo đức trong việc định hướng các giá trị đạo đức
hiện nay”, Nguyễn Thế Kiệt, Tạp chí Triết học tháng 6-1996.
- “Nhân tố tác động và xu hướng biến đổi đạo đức, lối sống trong cán
bộ đảng viên”, Tơ Huy Rứa, Tạp chí Cộng sản, số 33 tháng 11-2003.
3. Mục đích, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu
3.1. Mục đích
- Tìm hiểu đạo đức và vai trò quan trọng của đạo đức cách mạng theo
tư tưởng Hồ Chí Minh.
- Tìm hiểu tấm gương đạo đức của Hồ Chí Minh.
- Tìm hiểu thực trạng việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức của
Hồ Chí Minh.
- Đề ra một số giải pháp góp phần nâng cao đạo đức cách mạng trong
sinh viên hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ
2
- Làm rõ vai trò và nội dung của đạo đức cách mạng theo tư tưởng Hồ
Chí Minh.
- Làm rõ tấm gương đạo đức cần, kiệm, liêm, chính của Hồ Chí Minh.
- Làm rõ thực trạng học tập và làm theo tấm gương đạo đức cần,
kiệm,liêm, chính trong sinh viên.
- Rút ra những giải pháp góp phần nâng cao đạo đức cách mạng trong
sinh viên.
3.3. Phạm vi nghiên cứu
- Vai trò và nội dung đạo đức cách mạng theo tư tưởng Hồ Chí Minh.
- Tấm gương đạo đức cần, kiệm, liêm, chính của Hồ Chí Minh.
- Thực trạng học tập và làm theo tấm gương đạo đức cần, kiệm, liêm,
chính của Hồ Chí Minh trong sinh viên trường Đại học An giang từ năm 2007
đến 2010.
4. Phương pháp nghiên cứu
Khóa luận có sử dụng các phương pháp nghiên cứu: phương pháp duy
vật biện chứng, phương pháp logic - lịch sử.
Ngoài ra còn sử dụng những phương pháp khác như : phân tích, tổng
hợp, khảo sát, điều tra.
5. Đóng góp mới về khoa học
- Làm rõ thực trạng đạo đức của sinh viên trường Đại học An giang.
- Đề xuất một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao đạo đức cách mạng
cho sinh viên.
6. Kết cấu
Khóa luận ngồi phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và
phụ lục; khóa luận tốt nghiệp được cấu trúc thành hai chương.
CHƯƠNG 1: ĐẠO ĐỨC CÁCH MẠNG VÀ TẤM GƯƠNG ĐẠO ĐỨC
CÁCH MẠNG CỦA HỒ CHÍ MINH.
1.1. Đạo đức và vai trò của đạo đức cách mạng theo tư tưởng Hồ Chí Minh
1.1.1. Đạo đức cách mạng
1.1.2. Vai trị của đạo đức cách mạng
1.2. Tấm gương đạo đức cách mạng của Hồ Chí Minh
1.2.1. Đạo đức Hồ Chí Minh là tấm gương trọn đời phấn đấu, hy sinh vì sự
nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người và nhân
loại.
1.2.2. Đạo đức cách mạng Hồ Chí Minh là tấm gương của ý chí và nghị lực
tinh thần to lớn, vượt qua mọi thử thách, khó khăn để đạt được mục đích cách
mạng.
3
1.2.3. Đạo đức Hồ Chí Minh là tấm gương tuyệt đối tin tưởng vào sức mạnh
của nhân, kính trọng nhân dân, hết lòng hết sức phục vụ nhân dân.
1.2.4. Đạo đức Hồ Chí Minh là tấm gương của một người nhân ái vị tha,
khoan dung, nhân hậu, hết mực vì con người.
1.2.5. Đạo đức Hồ Chí Minh là tấm gương cần, kiệm, liêm, chính, chí cơng
vơ tư, đời sống trong sáng, nếp sống giản dị và đức khiêm tốn phi thường.
1.3. Sự cần thiết phải học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh.
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP CỦA VIỆC HỌC TẬP VÀ
LÀM THEO TẤM GƯƠNG ĐẠO ĐỨC HỒ CHÍ MINH CỦA SINH
VIÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC AN GIANG TỪ NĂM 2008 ĐẾN 2010.
2.1. Thực trạng của việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh
của sinh viên trường Đại học An giang từ năm 2007 đến 2010.
2.1.1. Mặt mạnh của việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức cần,
kiệm, liêm, chính trong sinh viên trường Đại học An giang
2.1.1.1. Về nhận thức
2.1.1.2. Về hành động
2.1.1.3. Nguyên nhân
2.1.2. Hạn chế của việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức cần, kiệm,
liêm, chính trong sinh viên trường Đại học An giang
2.1.2.1. Về nhận thức
2.1.2.2. Về hành động
2.1.2.3. Nguyên nhân
2.2. Giải pháp nhằm nâng cao đạo đức cách mạng cho sinh viên.
2.2.1. Về phía nhà trường
2.2.2. Về phía sinh viên
4
CHƯƠNG 1
ĐẠO ĐỨC CÁCH MẠNG VÀ TẤM GƯƠNG ĐẠO ĐỨC CÁCH MẠNG
CỦA HỒ CHÍ MINH.
1.1. Đạo đức và vai trị của đạo đức cách mạng theo tư tưởng Hồ Chí
Minh
1.1.1. Đạo đức cách mạng
Trong suốt cuộc đời hoạt động của mình, Hồ Chí Minh ln quan tâm
đến vấn đề đạo đức và việc tu dưỡng đạo đức của người cách mạng. Những tư
tưởng đạo đức cũng như tấm gương đạo đức của Hồ Chí Minh là một bộ phận
quan trọng trong hệ thống di sản tư tưởng của Người. Theo đạo đức học thì
đạo đức là một hệ thống các quy tắc, chuẩn mực xã hội giúp con người tự giác
điều chỉnh hành vi phù hợp với lợi ích của cộng đồng, của xã hội. Từ đạo đức
của dân tộc Hồ Chí Minh đã kế thừa và sáng tạo nên nền đạo đức mới phù hợp
với thời đại.
Hồ Chí Minh đã từng nói: “Học thuyết Khổng Tử có ưu điểm của nó là
sự tu dưỡng đạo đức cá nhân. Tơn giáo của Giêsu có ưu điểm của nó là lịng
nhân ái cao cả. Chủ nghĩa Mác có ưu điểm của nó là phương pháp làm việc
biện chứng. Chủ nghĩa Tơn Dật Tiên có ưu điểm là chính sách của nó thích
hợp với điều kiện nước ta. Khổng Tử, Giêsu, C. Mác, Tơn Dật Tiên chẳng có
ưu điểm chung đó sao? Họ đều muốn mưu cầu hạnh phúc cho loài người, mưu
cầu phúc lợi cho xã hội. Nếu hôm nay họ còn sống trên đời này, nếu họ họp lại
một chỗ, tôi tin rằng họ nhất định sống với nhau rất hồn mỹ như những
người bạn thân thiết. Tơi cố gắng làm người học trị nhỏ của các vị ấy”.
Câu nói trên của Hồ Chí Minh chẳng những phản ánh rõ thái độ của
Người đối với các giá trị đạo đức truyền thống và tinh hoa đạo đức nhân loại
mà còn thể hiện một quan điểm bao dung trân trọng đối với những di sản văn
hóa đạo đức có nguồn gốc và khuynh hướng tư tưởng khác nhau.
Tư tưởng đạo đức của Hồ Chí Minh là một hệ thống giá trị đạo đức mới
bắt nguồn từ truyền thống đạo đức của dân tộc Việt Nam, đồng thời chắt lọc
những tư tưởng đạo đức phương Đông và những tinh hoa đạo đức của nhân
loại. Trong đó đặc biệt quan trọng là sự kế thừa tư tưởng đạo đức của Mác,
Ăngghen, Lênin. Hồ Chí Minh đã từng dạy: “Hiểu chủ nghĩa Mác - Lênin là
phải biết sống với nhau có tình có nghĩa. Nếu thuộc bao nhiêu sách mà sống
khơng có tình, có nghĩa với nhau thì làm sao gọi là hiểu chủ nghĩa Mác Lênin được”[13, tr.554]. Từ đây Hồ Chí Minh đã hình thành những tư tưởng
5
đạo đức của chính mình phù hợp với u cầu của cách mạng Việt Nam trong
thời đại mới.
Theo Hồ Chí Minh, đạo đức cách mạng không phải là một cái gì đó cao
xa và hồn tồn mới mẻ đối với chúng ta, mà là những khái niệm, những phạm
trù đạo đức quen thuộc với dân tộc Việt Nam từ lâu đời, kể cả những khái
niệm đạo đức của Nho giáo đã được Người chuyển hóa hết sức tài tình ví dụ
như khái niệm “Trung với vua, hiếu với cha mẹ” của đạo đức Nho giáo thành
“Trung với nước, hiếu với dân” của dân tộc Việt Nam; thông qua tư tưởng đạo
đức, Hồ Chí Minh đã thể hiện tư tưởng về chính trị của mình. Trong chế độ
phong kiến, tất cả người dân đều phải tuyệt đối phục tùng mệnh lệnh của nhà
vua, sống hay chết đều phải một lòng trung thành với vua, vua là thiên tử có
quyền quyết định bất kì việc gì của đất nước, cịn chữ “hiếu” trong đạo đức
của Nho giáo đó là hiếu với cha mẹ, tuy nhiên khi được Hồ Chí Minh sửa đổi,
bổ sung thì hiếu khơng chỉ hiếu đối với cha mẹ mà cịn phải hiếu với nhân dân
vì cha mẹ người cũng như cha mẹ mình và chữ “trung” khơng cịn là trung với
vua nữa mà là trung với nước, qua đó phê phán chế độ phong kiến chun
quyền độc đốn; qua đó thể hiện sự lựa chọn và mong muốn của Người về một
chế độ xã hội sẽ đem lại tự do, ấm no, hạnh phúc cho nhân dân Việt Nam đó là
chế độ cộng sản chủ nghĩa với chủ nghĩa Mác - Lênin làm nền tảng tư tưởng,
kim chỉ nam cho mọi hành động.
Từ Hồ Chí Minh, nền đạo đức Việt Nam đã mang bản chất mới và đã
đựợc Người gọi là đạo đức mới (đạo đức cách mạng). Đạo đức mới lật ngược
lại các kiểu đạo đức cũ: “Đạo đức cũ như người đầu ngược xuống đất, chân
chổng lên trời. Đạo đức mới như người hai chân đứng vững được dưới đất,
đầu ngửng lên trời”[8, tr.320 - 321]. Đạo đức mới xóa bỏ những chuẩn mực
đạo đức phong kiến vốn ln trói buộc nhân dân lao động vào những lễ giáo
hủ bại, phục vụ cho chế độ đẳng cấp, nô dịch của xã hội phong kiến. Đạo đức
mới hoàn toàn đối lập với đạo đức cá nhân chủ nghĩa, ích kỷ cực đoan của giai
cấp tư sản, kiềm hãm con người trong những lợi ích riêng tư, cục bộ, hẹp hòi,
cũng như trong vòng gia trưởng nhỏ bé. Nó càng xa lạ với lợi ích tơn giáo ln
khun con người tu thân, cam chịu, chấp nhận số phận để hướng về một cuộc
sống tốt đẹp sau khi chết. Đạo đức cách mạng của Hồ Chí Minh là: “Nhận rõ
phải trái. Giữ vững lập trường, tận trung với nước, tận hiếu với dân…phải
hiểu rõ rằng bổn phận của người cán bộ cách mạng là suốt đời hết lòng hết
sức phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân” [3, tr.55]. Ngày 13-7-1955, sau khi
Hồ Chí Minh đi thăm quảng trường đỏ, đặt vòng hoa tại lăng Lênin ở
Matxcova, Người ghi cảm tưởng vào sổ lưu niệm tại nơi làm việc của Lênin
6
tại cung điện Kremly: “Lênin, người thầy vĩ đại của cách mạng vô sản, cũng
như là một vị đạo đức rất cao, dạy chúng ta phải cần, kiệm, liêm, chính”.
“Tinh thần Lênin mn đời bất diệt” [3, tr.125].
Hồ Chí Minh đã đưa ra khái niệm “Đạo đức cách mạng” trong cuốn
sách “Sửa đổi lối làm việc” tháng 10 - 1947. Qua cuốn sách này, Người phân
tích ngắn gọn, dễ hiểu các từ: nhân, nghĩa, trí, dũng, liêm đây vốn là những
khái niệm đạo đức Nho Giáo nhưng ở đây Người đã phát triển nó lên thành
chuẩn mực đạo đức mới. Người giải thích.
- Nhân là thật thà thương yêu, hết lịng giúp đỡ đồng chí và đồng bào.
Kiên quyết chống lại những người, những việc có hại đến Đảng, đến nhân dân.
- Nghĩa là ngay thẳng, khơng có tư tâm, lúc Đảng giao việc thì bất kỳ to
nhỏ, đều làm hết sức cẩn thận, thấy việc thì phải làm, thấy việc thì phải nói.
Khơng sợ người ta phê bình mình, mà phê bình người khác cũng ln đúng
đắn.
- Trí là đầu có sáng suốt, biết xem người, biết xét việc. Biết làm có lợi,
tránh việc có hại cho Đảng, biết vì Đảng mà cân nhắc người tốt, đề phịng
người gian.
- Dũng là dũng cảm, gan góc, gặp việc phải có gan làm, thấy khuyết
điểm phải có gan sửa chữa, cực khổ khó khăn phải có gan chịu đựng. Nếu cần
phải có gan hy sinh cả tính mạng cho Đảng, cho Tổ quốc, không bao giờ rụt
rè, nhút nhát.
- Liêm là không tham địa vị, không ham tiền tài, không ham người tâng
bốc mình. Quang minh chính đại, khơng bao giờ hủ hố.
Chỉ có một thứ ham là ham học, ham làm, ham tiến bộ.
Hồ Chí Minh kết luận: “Đó là đạo đức cách mạng. Đạo đức đó khơng
phải là đạo đức thủ cựu. Nó là đạo đức mới, đạo đức vĩ đại, nó khơng vì danh
vọng của cá nhân, mà vì lợi ích chung của Đảng, của dân tộc, của lồi người”.
Ngay từ khi Đảng chưa ra đời Hồ Chí Minh đã nói tới hai điều hệ trọng:
“Phải giữ chủ nghĩa cho vững” và “Ít lịng ham muốn về vật chất”. Suy đến cùng,
đây là chỗ cao sâu nhất mà cũng là thử thách khó khăn nhất của đời người. Thời
gian càng lùi xa, lịch sử càng chất chứa những biến cố thăng trầm, phong trào
cách mạng càng phát triển thì dự cảm nêu trên của Người càng tỏ rõ tính đúng
đắn và sáng suốt biết bao. Đó là tính đúng đắn của chân lý và sự sáng suốt của
lịch sử. Đạo đức cách mạng, đạo đức hành động Hồ Chí Minh là cả một hệ thống
lý thuyết tư tưởng phong phú và tinh tế, nổi bật các đức tính, chuẩn mực, các
nguyên tắc ứng xử, lại được diễn tả cơ đọng hàm xúc trong hình thức tối thiểu của
7
ngơn ngữ. Đó là cần - kiệm - liêm - chính bốn đức tính để làm người mà thiếu
một đức thì khơng thành người.
Khơng chỉ nhận rõ chân lý ấy mà Người cịn tự mình thực hiện một cách
triệt để, nhất quán trong cả cuộc đời mình. Nội dung đạo đức trong Di chúc nổi
bật tư tưởng lớn: tu dưỡng đạo đức cách mạng, chống chủ nghĩa cá nhân. Người
chỉ ra rằng: “Tất cả đảng viên, đoàn viên, tất cả cán bộ trong Đảng và ngoài
Đảng cần phải quyết tâm suốt đời phục vụ Đảng…đạo đức cách mạng là đặt lợi
ích của Đảng, của nhân dân lao động lên trên lên trước lợi ích riêng của cá nhân
mình” [11, tr.285]. Người yêu cầu phải luôn nêu cao chủ nghĩa tập thể của giai
cấp công nhân và kiên quyết ngăn chặn mọi biểu hiện của chủ nghĩa cá nhân, vì
“Đạo đức cách mạng là đạo đức tập thể, nó phải đánh thắng và tiêu diệt chủ
nghĩa cá nhân. Chủ nghĩa cá nhân là việc gì cũng chỉ lo cho lợi ích riêng của
mình, khơng quan tâm đến lợi ích chung của tập thể, miễn là mình béo, mặc thiên
hạ gầy”[11, tr.306]. Đạo đức cách mạng hướng về mục tiêu sáng ngời là thúc đẩy
sự tiến bộ của xã hội và phục vụ cho hạnh phúc của nhân dân. Thực tiễn cách
mạng là nhân chứng hùng hồn cho sức mạnh của đạo đức cách mạng mà tiêu biểu
là Hồ Chí Minh vĩ đại của chúng ta. Từ đó cho ta thấy được đạo đức cách mạng
là đạo đức chân chính khơng những phù hợp với quy luật lịch sử mà còn là điều
kiện cơ bản đem lại cho quần chúng nhân dân đời sống hạnh phúc nhất. Thiếu
động cơ chiến đấu vì hạnh phúc của nhân dân thì hành động của con người cũng
không thể là một giá trị đạo đức “Quyết tâm giúp đỡ lồi người ngày càng tiến bộ
và thốt khỏi ách áp bức bóc lột, ln ln giữ vững tinh thần chí cơng vơ tư, đó
là đạo đức cách mạng” [9, tr.568].
Chiều sâu và đỉnh cao của những vấn đề nêu trên của tư tưởng đạo đức
cách mạng Hồ Chí Minh là thay đi chế độ xã hội cũ xấu xa lạc hậu, xây lên chế
độ xã hội mới tốt đẹp và qua đó thể hiện một tư tưởng đạo đức vĩ đại.
1.1.2. Vai trò của đạo đức cách mạng
Ngay từ khi mới ra đời đạo đức đã đóng một vai trị vơ cùng quan trọng
trong cuộc sống của con người. Nếu trong xã hội khơng có nền đạo đức nào
làm chuẩn mực để hướng dẫn những hành vi của mình thì con người chúng ta
cũng giống như bao nhiêu sinh vật khác. Tuy nhiên, con người khác với con
vật là ở chỗ, con người có tình u thương được thể hiện trong quan hệ giữa
người với người. Một xã hội trong đó con người tơn trọng lẫn nhau, cư xử với
nhau có trên có dưới thì xã hội đó mới thật sự là xã hội của con người. Chính
vì nó là những giá trị, những tinh hoa của nhân loại nên nó có tầm quan trọng
rất lớn đối với sự sống còn của một quốc gia, một dân tộc.
8
Trải qua những biến cố của lịch sử, đạo đức của dân tộc Việt Nam vẫn
được giữ gìn và phát triển phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh của đất nước.
Trong bối cảnh đất nước bị xâm chiếm, những giá trị đạo đức cổ truyền đang
bị đe dọa và có nguy cơ bị mai một, đạo đức cách mạng của Hồ Chí Minh ra
đời khơi phục lại những giá trị đang dần bị mất đi đồng thời xây dựng một nền
đạo đức mới mang đậm chất nhân văn, nhân đạo cao cả. Người đã từng khái quát
về triết lý cuộc sống “Nghĩ cho cùng, mọi vấn đề…là vấn đề ở đời và làm người.
Ở đời, làm người phải yêu nước, thương dân, thương nhân loại bị đau khổ áp
bức” [3, tr.53].
Hồ Chí Minh đã khẳng định đạo đức là gốc của người cách mạng. Trong
tác phẩm “Đường cách mệnh”, Người đã nêu lên 23 điều thuộc “Tư cách một
người cách mệnh”, trong đó chủ yếu là các tiêu chuẩn về đạo đức, thể hiện chủ
yếu trong ba mối quan hệ: với mình, với người, với việc. Người viết: “Làm cách
mạng để cải tạo xã hội cũ thành xã hội mới là một sự nghiệp rất vẻ vang, nhưng
nó là một nhiệm vụ rất nặng nề, một cuộc đấu tranh rất phức tạp, lâu dài, gian
khổ. Sức có mạnh mới gánh được nặng và đi được xa. Người cách mạng phải có
đạo đức cách mạng làm nền tảng, mới hồn thành được nhiệm vụ cách mạng vẻ
vang” [8, tr.283]. Làm cách mạng mà chỉ giác ngộ chính trị và tăng cường sức
mạnh tổ chức khơng thơi thì chưa đủ, cho nên đạo đức cách mạng nó gắn liền và
là nhân tố quyết định sự thành bại của người cách mạng “Mọi việc thành hay bại,
chủ chốt là do cán bộ có thấm nhuần đạo đức cách mạng, hay là không” [8,
tr.283]. Hai nguy cơ lớn vẫn luôn đe dọa một Đảng cầm quyền đó là: Thứ nhất là
sai lầm về cương lĩnh, đường lối; Thứ hai là đội ngũ cán bộ, đảng viên thối hóa,
biến chất, sa sút về phẩm chất đạo đức. Đảng cầm quyền liên quan và chịu trách
nhiệm đến tương lai của đất nước. Đảng có trách nhiệm cung cấp, bố trí đội ngũ
cán bộ cho cả hệ thống chính trị, khơng thể chấp nhận người cán bộ, đảng viên
khơng có đạo đức. Cho nên, khi nói về Đảng, Người nhấn mạnh: “Đảng ta là một
Đảng cầm quyền. Mỗi cán bộ đảng viên phải thật sự thấm nhuần đạo đức cách
mạng, phải thật sự cần, kiệm, liêm, chính, chí cơng, vơ tư. Phải giữ gìn Đảng ta
thật trong sạch, phải xứng đáng là người lãnh đạo, là người đầy tớ thật trung
thành của nhân dân”.
Chúng ta có thể thấy được tầm quan trọng cũng như sức mạnh của đạo
đức cách mạng qua những chiến thắng vĩ đại trong lịch sử chống giặc ngoại xâm
của nước ta. Khi bàn về ý kiến của những người cho rằng cuộc kháng chiến của
ta là “châu chấu đá voi”, Hồ Chí Minh giải thích: “Chỉ nhìn về vật chất, chỉ nhìn
ở hiện trạng, chỉ lấy con mắt hẹp hịi mà xem, thì như thế thật. Vì để chống máy
bay và đại bác của địch, lúc đó ta phải dùng gậy tầm vơng. Nhưng Đảng ta theo
9
chủ nghĩa Mác - Lênin, chúng ta khơng những nhìn vào hiện tại, mà nhìn vào
tương lai, chúng ta tin chắc vào tinh thần và lực lượng của quần chúng, của dân
tộc”. Cho nên chúng ta quả quyết trả lời những người lừng chừng và bi quan kia
rằng “Nay tuy châu chấu đá voi. Nhưng mai voi sẽ bị lòi ruột ra”. Đạo đức Hồ
Chí Minh đã trở thành một sức mạnh chính trị tinh thần to lớn, góp phần quan
trọng vào thắng lợi cuối cùng của cách mạng Xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Đạo
đức cách mạng là thước đo sức mạnh, sự tiến bộ vế tinh thần của một dân tộc:
“Một dân tộc biết cần, kiệm, biết liêm là một dân tộc giàu về vật chất, mạnh về
tinh thần, là một dân tộc văn minh tiến bộ” [8, tr.642]. Mục tiêu và lý tưởng của
Hồ Chí Minh là xây dựng đất nước tiến lên Chủ nghĩa xã hội, Chủ nghĩa Cộng
sản. Đó là một xã hội khơng chỉ có khoa học, kỹ thuật, lực lượng sản xuất phát
triển, mà còn phải chứa đựng cả lối sống, đạo đức lành mạnh, con người ngày
càng được phát triển toàn diện cả đức - trí - thể - mỹ. Khơng tạo lập được về tinh
thần, đạo đức khơng thể nói tới Chủ nghĩa xã hội. Ngược lại, chính những yếu tố
đạo đức là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội. Đạo đức cách mạng
Hồ Chí Minh khơng chỉ có tác dụng trong cách mạng giải phóng dân tộc, chống
kẻ thù xâm lược mà rất ý nghĩa trong công cuộc xây dựng Chủ nghĩa xã hội,
trong việc chống những thói hư tật xấu, tệ tham nhũng và quan liêu.
Đạo đức cách mạng không chỉ là nền tảng, là cội nguồn mà nó cịn là
nguồn ni dưỡng và phát triển con người, Người viết: “Cũng như sông thì có
nguồn mới có nước, khơng có nguồn thì sơng cạn. Cây phải có gốc, khơng có gốc
thì cây héo. Người cách mạng phải có đạo đức, khơng có đạo đức thì tài giỏi mấy
cũng khơng lãnh đạo được nhân dân”[12, tr. 252-253], tự mình khơng có đạo
đức, khơng có căn bản, hủ hóa, xấu xa thì cịn làm nổi việc gì. Đạo đức liên quan
đến quá trình phát triển của một con người cũng như một quốc gia, một khi đã có
đạo đức làm nền tảng thì con người sẽ có điều kiện phát triển khơng chỉ bằng sự
cố gắng kiên trì của bản thân mà cịn được sự yêu thương giúp đỡ tận tình của
mọi người. Đạo đức cách mạng là thước đo lòng cao thượng của mỗi người: “Mỗi
người có năng lực và cơng việc khác nhau, người làm việc to, người làm việc
nhỏ, nhưng ai giữ được đạo đức đều là người cao thượng” [9, tr.568 - 569].
Lịng cao thượng của mỗi người khơng phải ở chỗ có quyền hay khơng có quyền
mà nằm ngay ở đạo đức cách mạng. Do đó mà những người đã có chức có quyền
càng phải trau dồi, rèn luyện đạo đức cách mạng, Người viết “Những người trong
các công sở đều có nhiều hoặc ít quyền hành. Nếu khơng giữ đúng cần, kiệm,
liêm, chính thì dễ trở nên hủ bại, biến thành sâu mọt của dân”[8, tr.642]. Do đó
đạo đức cách mạng là đạo đức chung của mọi người mà trong đó đặc biệt quan
trọng là đối với cán bộ, đảng viên vì họ là những người lãnh đạo sự nghiệp xây
10
dựng đất nước phát triển bền vững. Hồ Chí Minh từng dạy: “Có tài mà khơng có
đức là người vơ dụng, có đức mà khơng có tài thì làm việc gì cũng khó”. Đức và
tài đều rất quan trọng đối với một con người, tuy nhiên giữa đức và tài thì đức
được đặt lên hàng đầu.
Cũng cần phải nhấn mạnh rằng, đạo đức cách mạng, đạo đức cộng sản với
tất cả nội dung phong phú của nó mà Hồ Chí Minh đã chỉ ra như: trung với nước,
hiếu với dân; cần, kiệm, liêm, chính, chí cơng vơ tư; nhân, nghĩa, trí, tín,
dũng…là động lực giúp con người vượt qua cạm bẫy của chủ nghĩa cá nhân, vượt
qua những khó khăn, gian khổ để phấn đấu cho lợi ích của Đảng, của cách mạng,
của giai cấp, của dân tộc và của cả lồi người. Có đạo đức cách mạng thì khi cần,
sẵn sàng hi sinh cả tính mạng của mình cũng khơng tiếc. Động lực của đạo đức
cách mạng cịn biểu hiện khi gặp thuận lợi và thành công cũng vẫn giữ được tinh
thần giản dị, chất phác khiêm tốn, chứ không kèn cựa về mặt hưởng thụ, không
công thần quan liêu, kiêu ngạo, hủ hóa.
Vấn đề đạo đức được Hồ Chí Minh đề cập một cách tồn diện. Người u
cầu đạo đức đối với các giai cấp, tầng lớp và các nhóm xã hội, trên lĩnh vực hoạt
động, trong mọi phạm vi, từ gia đình đến xã hội.
Hồ Chí Minh nêu ra 5 điểm đạo đức mà người đảng viên cần phải giữ gìn
cho đúng đó là:
Tuyệt đối trung thành với Đảng, với nhân dân.
Ra sức phấn đấu để thực hiện mục tiêu của Đảng
Vơ luận trong hồn cảnh nào cũng quyết tâm chống mọi kẻ địch, luôn
luôn cảnh giác, sẵn sàng chiến đấu, quyết không chịu khuất phục, không chịu c
đầu
Vơ luận trong hồn cảnh nào cũng phải đặt lợi ích của Đảng lên trên hết
Hịa mình với quần chúng thành một khối, tin quần chúng, hiểu quần
chúng, lắng nghe ý kiến của quần chúng
Hay đối với công an nhân dân, Người dạy: Với Chính phủ phải tuyệt đối
trung thành, với dân phải kính trọng lễ phép. Đây là những lời dạy chung cho tất
cả mọi người, thấm nhuần đạo đức và văn hóa đạo đức mà nổi bật là văn hóa
trọng dân và trọng pháp.
Đối với thiếu niên nhi đồng Người căn dặn phải: yêu Tổ quốc, yêu đồng
bào, yêu lao động, khiêm tốn thật thà dũng cảm…là những bài học chuẩn bị cho
thế hệ trẻ vào đời làm công dân tốt của nhà nước, làm chiến sĩ trung thành của
chế độ. Đạo đức cách mạng đối với thế hệ trẻ, với thanh niên càng trở nên quan
trọng để ni dưỡng hồi bão, chí khí lớn, nghị lực đấu tranh cho chân lý, đạo lý,
tình thương, lẽ phải, đòi hỏi phải ra sức thực hiện ở mỗi người: “Tuổi trẻ phải có
11
phải chí tiến thủ, hồi bão lo việc lớn, vì nước vì dân. Tuổi trẻ phải biết tránh xa
danh vọng, quyền lực vì những cái đó dễ làm hư hỏng con người”.
Tóm lại, vai trị của đạo đức cách mạng thể hiện sức mạnh khơi dậy, làm
nảy nở động viên và phát huy những tiềm lực ẩn sâu trong tâm hồn của con người
Việt Nam, tâm hồn của cả một dân tộc, làm nên sức mạnh của mọi thắng lợi. Nó
góp phần rất lớn vào việc tạo ra một thế hệ cách mạng cũng như xây dựng một
Đảng cách mạng đủ sức lãnh đạo cách mạng, được sự tin tưởng ủng hộ của quần
chúng nhân dân bởi mọi việc làm của Đảng đều dựa trên nền tảng của đạo đức
cách mạng, nền đạo đức tiến bộ nhất. Nó là nền tảng là động lực thúc đẩy sự tiến
bộ của một đất nước.
1.2. Tấm gương đạo đức cách mạng của Hồ Chí Minh
Tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh là tấm gương của một vĩ nhân, một
lãnh tụ cách mạng vĩ đại, nhưng đồng thời cũng là tấm gương đạo đức của một
con người bình thường, học tập tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh khơng phải là
làm giống như Hồ Chí Minh mà nó là một q trình đưa tấm gương và toàn bộ tư
tưởng của Người vào hành động của chính cuộc sống hơm nay theo tinh thần “dĩ
bất biến, ứng vạn biến”, đem những vấn đề không bao giờ thay đổi để ứng xử với
những vấn đề luôn luôn thay đổi trong cuộc sống thường nhật, ai cũng có thể làm
theo để trở thành một người cách mạng, người công dân tốt trong xã hội. Tấm
gương đạo đức của Người thể hiện tập trung trong các điểm sau:
1.2.1. Đạo đức Hồ Chí Minh là tấm gương trọn đời phấn đấu, hy sinh
vì sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người và
nhân loại.
Ngay từ thuở thiếu thời, Hồ Chí Minh đã lựa chọn mục tiêu phấn đấu cho
cả cuộc đời mình là vì nước, vì dân. Trên con đường thực hiện mục tiêu đó,
Người đã chấp nhận sự hy sinh khơng quản gian nguy, kiên định dũng cảm và
sáng suốt để vượt qua mọi khó khăn, thử thách thực hiện bằng được mục tiêu đó.
Hồ Chí Minh sinh ra và lớn lên trong một gia đình nhà nho yêu nước, gần
gũi với nhân dân, Người chịu ảnh hưởng rất nhiều từ người cha và người mẹ thân
u của mình. Sống trong hồn cảnh đất nước bị xâm lược, tận mắt chứng kiến
cuộc sống nghèo khổ bị kẻ thù áp bức, bóc lột đến cùng cực của đồng bào mình
Người khơng cầm được lịng xúc động, xót thương cho đồng bào mình và cũng từ
đó đã thơi thúc Người ra đi tìm con đường sống cho dân tộc mình và cho cả
những dân tộc bị áp bức trên thế giới.
Năm 1911, Hồ Chí Minh rời Tổ quốc sang phương Tây tìm đường cứu
nước. Từ đây cuộc đời Người gắn liền với sứ mệnh lịch sử của dân tộc và cũng từ
12
đây những gian lao vất vả, những thử thách cũng bắt đầu đến với người thanh
niên trẻ tuổi.
Bằng nghị lực, tinh thần và ý chí mạnh mẽ đã giúp cho chàng trai trẻ vượt
qua mọi gian nguy khốn khó, khơng ngừng làm việc và khơng ngừng học tập.
Chính nhờ những năm tháng bơn ba như vậy Hồ Chí Minh mới thấy được khơng
chỉ trên đất nước mình người dân bị bọn thực dân, đế quốc đàn áp mà còn nhiều
nơi trên thế giới nhân dân bị đối xử tàn bạo, từ đó tạo động lực cho Người quyết
tâm tìm ra con đường cứu nước và giải phóng con người. Trải qua 30 năm hoạt
động ở nước ngoài, ngày 28-1-1941 Hồ Chí Minh trở về Tổ quốc mang theo
niềm tin và hi vọng về một thắng lợi vẻ vang của đất nước trong một ngày không
xa. Chiều ngày 2-9-1945 tại Quảng trường Ba Đình Hồ Chí Minh đọc bản Tun
ngơn độc lập khai sinh nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, đó là thành quả xứng
đáng của một q trình lao động gian khổ và đầy sáng tạo.
Sự kiên định mục tiêu phấn đấu trong suốt cuộc đời của Hồ Chí Minh đã
được nhân dân trong nước và thế giới thừa nhận và kính phục. Trong bức điện
chia buồn gửi Đảng ta khi Hồ Chí Minh mất, Đảng Cộng sản Cu Ba viết “Hiếm
có một nhà lãnh đạo nào, trong những giờ phút thử thách lại tỏ ra sáng suốt,
bình tĩnh, gan dạ, quên mình, kiên nghị và dũng cảm một cách phi thường như
vậy”.
Cuộc đời Hồ Chí Minh là tấm gương sáng về sự hi sinh cao cả, vì độc lập
tự do của Tổ quốc mà vượt qua mọi gian khổ, hi sinh những lợi ích của bản thân
mình, hết lòng hết sức phục vụ cho đất nước.
1.2.2. Đạo đức cách mạng Hồ Chí Minh là tấm gương của ý chí và
nghị lực tinh thần to lớn, vượt qua mọi thử thách, khó khăn để đạt được
mục đích cách mạng.
Từ những ngày đầu rời xa đất nước, phải lao động vất vả để kiếm sống
cho đến những ngày bị đày đọa trong nhà tù của bọn đế quốc và tay sai, Hồ Chí
Minh ln tin tưởng và lạc quan cách mạng. Ý chí đấu tranh kiên cường, bất
khuất và tinh thần lạc quan cách mạng là phẩm chất cao quý thấu suốt cuộc đời
hoạt động của Hồ Chí Minh.
Chúng ta không thể kể hết được những tấm gương về ý chí và nghị lực
tinh thần to lớn của Người nhưng ta có thể thấy được một phần tinh thần ấy qua
tập thơ Nhật ký trong tù của Người. Chẳng hạn như bài thơ Tự khun mình
“Ví khơng có cảnh đơng tàn
Thì đâu có cảnh huy hồng ngày xn
Nghĩ mình trong bước gian truân
Tai ương rèn luyện tinh thần thêm hăng”.
13
Trong thơ của Hồ Chí Minh mỗi câu mỗi chữ đều mang chất “thép” đều
tốt ra tư tưởng và tính chất của một chiến sĩ vĩ đại. Mn nghìn khổ cực, gian
lao không lay chuyển được mà chỉ rèn luyện thêm tinh thần và ý chí sắt đá của
Người. Chính vì thế mà sau khi ra khỏi nhà tù, lịng Người vẫn như lịng sơng
khơng chút bụi qua bài thơ Mới ra tù tập leo núi
“Núi ấp ôm mây, mây ấp núi
Lịng sơng gương sáng, bụi khơng mờ
Bồi hồi dạo bước Tây Phong Lĩnh
Trơng vào trời Nam nhớ bạn xưa”
Có thể nói ý chí và nghị lực của Hồ Chí Minh khơng gì có thể sánh kịp, dù
khó khăn đến mấy cũng khơng lay chuyển được vì Người tin vào ngày mai tương
lai tươi sáng sẽ đến với những người biết bền chí, bền lịng “muốn nên sự nghiệp
lớn, tinh thần càng phải cao” [5, tr.265].
1.2.3. Đạo đức Hồ Chí Minh là tấm gương tuyệt đối tin tưởng vào sức
mạnh của nhân dân, kính trọng nhân dân, hết lịng hết sức phục vụ nhân
dân.
Xuất phát từ lòng thương người, đau xót cho kiếp người bị đày đọa và
nhất là người dân của nước mình. Hồ Chí Minh đã tự cho mình là “Người lính
vâng mệnh của quốc dân ra trước mặt trận” là “Người đầy tớ trung thành của
nhân dân”. Hồ Chí Minh đã từng nói: “Tơi chỉ có một ham muốn, ham muốn tột
bậc, là làm sao cho nước ta hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do,
đồng bào ai cũng có cơm ăn, áo mặc ai cũng được học hành”[6, tr. 161]. Cuộc
sống giản dị chan hòa với mọi người, ngay cả khi đã trở thành Chủ tịch của một
đất nước, Người vẫn rất chất phác đời thường gần gũi và tôn trọng nhân dân, vì
Người cho rằng chỉ có hịa mình vào đời sống thực tế của người dân thì mới biết
được nhân dân cần gì, và những gì mình chưa làm được để từ đó sửa chữa, thực
hiện cho đúng.
Đối với mọi người, mọi tầng lớp trai gái, già trẻ, đồng bào các dân tộc, các
tơn giáo Người đều u thương, kính trọng như nhau. Trong lòng của Người,
đồng bào miền Nam chiếm một vị trí đặc biệt. Những lúc vui mừng nhất là khi
Người nghe được tin chiến thắng ở miền Nam, trước lúc đi xa Người cũng không
thôi quan tâm đến đồng bào miền Nam ruột thịt.
Hồ Chí Minh cũng có lịng tin vơ hạn đối với quần chúng nhân dân, đối
với dân tộc Việt Nam, Người thường nhắc đến câu nói của đồng bào tỉnh Quảng
Bình trong những ngày chiến đấu ác liệt nhất với giặc Mỹ xâm lược “Dễ trăm lần
khơng dân cũng chịu, khó ngàn lần dân liệu cũng xong”.
14
1.2.4. Đạo đức Hồ Chí Minh là tấm gương của một người nhân ái vị
tha, khoan dung, nhân hậu, hết mực vì con người.
Qua tìm hiểu cuộc đời và tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh chúng ta thấy rất
rõ ở Người chủ nghĩa yêu nước, tinh thần nhân ái, khoan dung, hết mực vì con
người đã được nâng lên thành chủ nghĩa nhân văn sâu sắc, hiện thân của chủ
nghĩa nhân văn hiện thực của con người Việt Nam trong thời đại cách mạng giải
phóng dân tộc, giải phóng con người.
Đạo đức Hồ Chí Minh là tấm gương về lòng yêu thương con người, yêu
thương nhân dân hết sức rộng lớn và sâu sắc. Ở Hồ Chí Minh, lịng thương người
đó mang một nội dung mới, sâu sắc, tồn diện. Đó khơng phải là lịng thương hại
của “bề trên” nhìn xuống, cũng khơng phải là sự động lịng trắc ẩn của người
“đứng ngồi” trơng vào, mà là sự đồng cảm của những người cùng cảnh ngộ.
Điểm nổi bật ở tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh là lịng thương yêu những
“Người cùng khổ”. Lời ra mắt của báo “Người cùng khổ” năm 1921 đã xác định
rõ mục đích đấu tranh của “Hiệp hội các dân tộc bị áp bức” là “Đi từ giải phóng
những người nơ lệ mất nước, những người lao động cùng khổ đến giải phóng con
người”. Người từng nói: “Lịng thương u của tơi đối với nhân dân và nhân loại
khơng bao giờ thay đổi”. Tình cảm, tư tưởng đó thể hiện sâu sắc, phong phú
trong suốt cuộc đời của mình. Trước lúc đi xa, trong Di Chúc Người viết “Cuối
cùng, tôi để lại muôn vàn tình thân u cho tồn dân, tồn Đảng, cho tồn thể bộ
đội, cho các cháu thanh niên và nhi đồng”[13, tr.500].
Lịng thương người của Hồ Chí Minh khơng dừng lại trong phạm vi nhỏ
hẹp của một đất nước mà nó đã mở rộng ra phạm vi trên toàn thế giới, không
phân biệt màu da, quốc tịch, thành phần dân tộc hay tơn giáo, giới tính mà ở bất
cứ nơi nào cịn áp bức bóc lột Người đều mong muốn giải phóng họ mang lại cho
họ cuộc ấm no hạnh phúc bởi vì “Họ là thân thích ruột già, cơng nơng thế giới
đều là anh em", và thực tế trên thế giới nhiều nước đã giành được tự do dựa vào
tấm gương cách mạng ở nước ta, họ được giải phóng đồng thời không quên suy
tôn Người là một bậc đại nhân.
Từ lòng yêu thương con người bao la như thế nên đối với những người
lầm đường lạc lối hay phạm sai lầm, những binh sĩ địch, lòng thương yêu của
Người mở rộng thành lòng “khoan dung”. Khoan dung được hiểu là tha thứ, sự
thừa nhận, tôn trọng lẫn nhau mà ở cấp cao là sự tiếp nhận, nó là cơ sở điều chỉnh
hành vi của con người khiến những giá trị cá nhân, cộng đồng khơng bị đẩy xa
sang phía đối lập, nhờ đó những giá trị riêng vẫn được bảo tồn, khơng dẫn đến
xung đột, bởi những toan tính của những thế lực bạo quyền. Người vạch rõ:
“Người ta ai cũng có tính tốt và tính xấu. Mỗi người đều có thiện và ác trong
15
lịng”. Tuy nhiên, “thiện”, “ác” khơng phải tự nhiên mà có, mà “Phần lớn là do
giáo dục mà ra”. Vì vậy thái độ của người cách mạng là “Phải biết làm cho phần
tốt trong mỗi con người nảy nở như hoa mùa xuân và phần xấu bị mất dần
đi”[13, tr. 558]. “Năm ngón tay cũng có ngón dài ngón vắn. Nhưng vắn dài đều
họp nhau nơi bàn tay, trong mấy triệu người cũng có người thế này thế khác,
nhưng thế này hay thế khác đều thuộc dòng dõi tổ tiên ta. Vậy nên ta phải khoan
hồng đại độ…”.
Có thể nói lịng nhân ái vị tha, khoan dung của Hồ Chí Minh khơng ai có
thể sánh bằng, Người sống u thương con người, vì con người mà lao động và
khi Người ra đi những phẩm chất đó trở thành những tấm gương để chúng ta, thế
hệ mai sau học hỏi và noi theo. Đối với nhân dân Việt Nam Hồ Chí Minh là
người cha già kính yêu, người Bác kính mến, đối với thế giới Người là một danh
nhân văn hóa, là một nhà cách mạng vĩ đại. Người đã ra đi mãi mãi nhưng những
việc làm của Người vẫn còn tồn tại và được người đời noi theo.
1.2.5. Đạo đức Hồ Chí Minh là tấm gương cần, kiệm, liêm, chính, chí
cơng vơ tư, đời sống trong sáng, nếp sống giản dị và đức khiêm tốn phi
thường.
Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư vốn là những khái niệm của Nho
giáo phong kiến khi nói đến đạo đức, tư cách của người quân tử. Tuy nhiên, khi
du nhập vào Việt Nam những khái niệm đó đã được tiếp thu, việt hóa và trở thành
một bộ phận của đạo đức truyền thống dân tộc. Dưới ánh sáng của chủ nghĩa Mác
- Lênin, xuất phát từ nhu cầu của cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, xây dựng
chế độ mới, Hồ Chí Minh đã cải biến, làm phong phú và sâu sắc thêm những khái
niệm trên bằng cách tiếp cận mới, đem lại cho chúng những nội dung mới và ý
nghĩa mới, tiến bộ và cách mạng. Người nói, bọn phong kiến ngày xưa nêu ra
cần, kiệm, liêm, chính nhưng khơng bao giờ làm mà bắt nhân dân phải tuân theo
để phụng sự quyền lợi cho chúng. Ngày nay ta đề ra cần, kiệm, liêm, chính cho
cán bộ thực hiện làm gương cho nhân dân noi theo để lợi cho nước, cho dân. Với
mục đích trên, mặc dù bận trăm cơng ngàn việc, song Hồ Chí Minh vẫn dành
nhiều thời gian để viết sách, báo, giải thích tuyên truyền, giáo dục và kêu gọi mọi
người thực hiện cần, kiệm, liêm, chính, chí cơng vơ tư. Trong tác phẩm Đường
cách mệnh (1927) Hồ Chí Minh đã đề ra những yêu cầu về tư cách của người
cách mệnh, trong đó u cầu tự mình phải “cần, kiệm, vị cơng vong tư”. Khi vừa
giành được chính quyền, trong phiên họp đầu tiên của Hội đồng chính phủ ngày
3-9-1945, Hồ Chí Minh đã “Đề nghị mở một chiến dịch giáo dục lại tinh thần
nhân dân bằng cách thực hiện cần, kiệm, liêm, chính”. Cho đến trước lúc đi xa,
trong Di chúc Người vẫn còn căn dặn: “Đảng ta là một đảng cầm quyền. Mỗi
16
đảng viên và cán bộ phải thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng cần, kiệm, liêm,
chính, chí cơng vơ tư. Phải giữ gìn Đảng thật trong sạch, phải xứng đáng là
người lãnh đạo, là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân”.
Vậy theo quan niệm của Hồ Chí Minh thì:
- Cần là làm việc siêng năng, chăm chỉ, trung thực cố gắng giữ nghiêm kỷ
luật lao động để hồn thành cơng việc. Đối với cán bộ, cơng nhân viên chức:
“Cần là làm việc phải đến đúng giờ, chớ đến trễ, về sớm. Làm cho chóng, cho
chu đáo. Việc ngày nào nên làm xong ngày ấy, chớ để ngày mai. Phải nhớ rằng
“Dân đã lấy tiền mồ hôi nước mắt để trả lương cho ta trong những thì giờ đó. Ai
lười biếng tức là lừa gạt dân”
Cần tức là phải biết làm việc có kế hoạch, có phân cơng, tính tốn, áp
dụng khoa học kỹ thuật, hợp lý hóa sản xuất, tăng năng suất lao động. Người chỉ
rõ, muốn cho chữ cần có nhiều kết quả hơn, thì phải có kế hoạch trong mọi việc,
phải tính tốn cẩn thận, xắp đặt gọn gàng…Siêng năng và kế hoạch phải đi đơi
với nhau. Hồ Chí Minh u cầu cần phải tránh cách xây dựng kế hoạch kiểu quan
liêu, chủ quan, duy ý chí. Kế hoạch khơng nên q cao hoặc q thấp, mà phải
căn cứ vào tình hình kinh tế, sự phát triển của công nghệ, điều kiện về cơ sở vật
chất, tiền vốn, khả năng tích lũy. Kế hoạch phải kết hợp 3 mặt: mục tiêu, biện
pháp và sự cố gắng “Chỉ tiêu kế hoạch một phần, biện pháp hai phần, sự cố gắng
phải ba phần”. Đồng thời kế hoạch phải đi đôi với phân công lao động và bố trí
cơng việc họp lý, đúng người, đúng việc, đúng sở trường và năng lực. Đối với
việc, việc gì gấp thì làm trước, việc gì chưa thật cần kíp thì làm sau. Đối với
người thì “Dụng nhân như dụng mộc” người nào có năng lực làm việc gì thì bố trí
việc ấy “Nếu dùng không đúng, người giỏi nghề thợ mộc thì giao việc thợ rèn,
người giỏi nghề thợ rèn thì giao việc thợ mộc, như thế thì hai người đều thất bại
cả hai”. Ngồi ra, theo Hồ Chí Minh, để nâng cao năng suất lao động còn phải
coi trọng việc ứng dụng kỹ thuật mới, xây dựng cơ sở vật chất mới, từ bỏ lối làm
ăn lạc hậu, coi trọng công tác nghiên cứu khoa học, phổ biến khoa học kỹ thuật
cho quần chúng nhân dân.
Cần phải đi đôi với chuyên, tức là phải kéo dài, bền bỉ, không phải là làm
xổi. Nếu không chuyên, nếu một ngày cần mà mười ngày khơng cần thì cũng vơ
ích. Nếu làm cố sống, cố chết trong một ngày, một tuần hay một tháng, đến nỗi
sinh ốm đau, phải bỏ việc, như vậy không phải là cần. Cần là luôn luôn cố gắng,
luôn luôn chăm chỉ, cả năm cả đời, nhưng không làm quá trớn. Phải biết nuôi
dưỡng tinh thần và lực lượng của mình để làm việc cho lâu dài.
Như vậy, cần đối lập với lười biếng, làm ẩu, tùy tiện, không có kế hoạch,
thiếu khoa học. Hồ Chí Minh coi lười biếng là đối địch của chữ cần, cũng là kẻ
17
địch của dân tộc. Một người lười biếng có thể ảnh hưởng tác hại đến cơng việc
của hàng nghìn, hàng vạn người khác. Xét trên phạm vi cả nước, cần cù siêng
năng có ý nghĩa to lớn đối với sự phát triển nói chung. Mỗi người siêng năng thì
ắt sẽ tiến bộ. Cả nhà siêng năng thì chắc chắn ấm no. Cả làng siêng năng thì làng
phồn vinh, cả nước siêng năng thì dân giàu nước mạnh. Trong điều kiện phát
triển kinh tế thị trường hiện nay cần phải nêu cao chữ cần, phải lao động cần cù,
siêng năng chăm chỉ, đồng thời phải có tinh thần sáng tạo, có kỉ luật, có kỹ thuật
và năng suất cao, giá thành hạ tạo nên sản phẩm lao động mang tính cạnh tranh.
Chúng ta đi lên chủ nghĩa xã hội từ một nước nghèo nàn lạc hậu, bị chiến tranh
tàn phá nặng nề, để thực hiện dân giàu nước mạnh, để không tụt hậu và có thể
sánh vai với các nước, nhanh chống hội nhập với thế giới văn minh đòi hỏi mỗi
cán bộ, đảng viên, mỗi công dân càng phải phát huy truyền thống cần cù, chịu
thương chịu khó, yêu lao động, yêu nghề nghiệp, không ngại gian khổ, tận tâm
tận lực, có trách nhiệm cao với cơng việc, ham học hỏi nâng cao kiến thức làm
chủ công nghệ để nâng cao năng suất lao động và kết quả công tác.
- Kiệm: là tiết kiệm, khơng xa xỉ, khơng hoang phí bừa bãi. Nhưng tiết
kiệm không phải là bủn xỉn, không phải là “Xem đồng tiền to bằng cái nống”, gặp
việc đáng làm cũng không làm, đáng tiêu cũng không tiêu. Khi khơng nên tiêu
xài thì một hạt gạo, một đồng xu cũng khơng nên tiêu. Khi có việc đáng làm, việc
lợi ích cho dân, cho đồng bào, cho Tổ quốc, thì dù hao bao nhiêu cơng, tốn bao
nhiêu của cũng vui lòng. Như thế mới đúng là kiệm. Theo Người, kiệm bao gồm
“Tiết kiệm sức lao động”, “Tiết liệm thì giờ”, “Tiết kiệm tiền của, nguyên vật
liệu”…tiết kiệm kể cả cái to đến cái nhỏ, cho chính mình và cho nhân dân, cho
Chính phủ. Cán bộ, đảng viên, cơng chức ở cơng sở càng phải tiết kiệm để có lợi
cho dân. Nếu ta khéo tiết kiệm sức người, tiền của và thì giờ, thì với sức lao động,
tiền tài của nước ta hiện nay, ta có thể tăng gia sản xuất gấp bội, mà lực lượng của
ta về mọi mặt cũng tăng gấp bội. Cần phải đi đôi với kiệm: “cần mà khơng kiệm
thì tay khơng lại hồn tay khơng, sản xuất mà khơng tiết kiệm thì khác nào gió
vào nhà trống”. Đồng thời, để tiết kiệm phải chống xa xỉ. Người cho rằng: ăn
sang mặc đẹp trong lúc đồng bào đang thiếu cơm ăn áo mặc, ăn không ngồi rồi
trong lúc đang cần kháng chiến kiến quốc là xa xỉ.
Khi nói về kiệm Hồ Chí Minh cũng thường gắn với u cầu phải tẩy sạch
nạn tham ơ, lãng phí và bệnh quan liêu, vì những căn bệnh đó là kẻ thù của xã hội
cũ để lại, như cái ung nhọt cịn sót lại trên cơ thể của người khổng lồ. Công khai
và mạnh dạn loại bỏ cho thật sạch những ung nhọt ấy thì thân thể càng khỏe
mạnh thêm. Hồ Chí Minh khơng những dạy chúng ta phải cần, kiệm mà chính
18
bản thân Người còn là một tấm gương mẫu mực về lao động cần cù và thực hành
tiết kiệm, suốt đời chiến đấu hy sinh cho dân, cho nước.
- Liêm là trong sạch, không tham lam, không tham tiền của, địa vị danh
lợi, không tham ô và luôn luôn tôn trọng, giữ gìn của cơng và của nhân dân.
Những hành vi như tham tiền của, tham địa vị, tham danh tiếng, tham ăn ngon,
cậy quyền thế mà đục khoét của dân, mua gian bán lận, đầu cơ tích trữ, cho vay
nặng lãi, cờ bạc, trộm cắp…đều là “bất liêm”.
Hồ Chí Minh cũng chỉ rõ quan hệ giữa kiệm và liêm và cho rằng có kiệm
mới liêm được. Vì xa xỉ mà sinh tham lam, do bất liêm mà đi đến tội ác, trộm
cắp, tham ô. Để thực hiện được chữ liêm, theo Người cần tuyên truyền và kiểm
soát, giáo dục và pháp luật, từ trên xuống, từ dưới lên, trong đó cán bộ phải thực
hành chữ liêm trước để làm kiểu mẫu cho dân…dân phải biết quyền hạn của
mình, phải biết kiểm soát cán bộ, để giáo dục cán bộ thực hiện chữ liêm, pháp
luật phải thẳng tay trừng trị những kẻ bất liêm, bất kỳ kẻ ấy ở địa vị nào, làm
nghề nghiệp gì.
- Chính là khơng tà, là thẳng thắn, đứng đắn. Là việc phải thì dù nhỏ cũng
làm, việc trái thì dù nhỏ cũng tránh. Người cho rằng, để trở thành người có đức
thì phải có cơng tâm, công đức. Chớ đem của công dùng vào việc tư, chớ đem
người tư làm việc cơng. Việc gì cũng phải cơng minh, chính trực, khơng nên vì tư
ân, tư huệ hoặc tư thù, tư ốn. Mình có quyền dùng người thì phải dùng những
người có tài đức, làm được việc. Chớ vì bà con bầu bạn mà kéo vào chức nọ,
chức kia, chớ vì sợ mất địa vị mà dìm những kẻ có tài năng hơn mình. Phải trung
thành với Chính phủ, với đồng bào, chớ lên mặt làm quan cách mạng.
Hồ Chí Minh cịn chỉ ra mối quan hệ gắn bó hữu cơ và ý nghĩa của cần,
kiệm, liêm, chính. Người ví nó như gốc, rễ, thân, lá, hoa, quả của một cây; như
bốn mùa của trời, bốn phương của đất và là những đức tính, phẩm chất cần thiết
của con người mà thiếu một trong số đó thì khơng thể trở thành người hồn
chỉnh. Cần, kiệm, liêm, chính cũng là thước đo văn minh tiến bộ của một dân tộc.
Một dân tộc biết cần, kiệm, liêm, chính là một dân tộc giàu về vật chất, mạnh về
tinh thần, là một dân tộc văn minh, tiến bộ. Đó cũng là nền tảng của đời sống
mới, của thi đua ái quốc, là cái cần thiết để làm việc, làm người, làm cán bộ,
phụng sự đoàn thể, giai cấp và nhân dân, phụng sự Tổ quốc và nhân loại, là đặc
điểm của một xã hội hưng thịnh. Những gì trái ngược với quan điểm trên là đặc
điểm của một xã hội suy vong.
Muốn thực hiện được cần, kiệm, liêm, chính thì phải có động cơ trong
sáng, phải nêu cao đạo đức cách mạng. Hồ Chí Minh cho rằng chí cơng vơ tư là
khi làm bất cứ việc gì cũng đừng nghĩ đến mình trước, khi hưởng thụ thì nên đi
19
sau. Đối với người cách mạng phải để việc nước lên trên, lên trước việc tư, việc
nhà. Hồ Chí Minh coi đó là đạo đức, là cái thiện của con người. Nếu chỉ lo cho
lợi ích riêng của mình, khơng lo đến lợi ích chung của nước nhà, của dân tộc thế
là ác. Thực hành chí cơng vơ tư, cần, kiệm, liêm, chính thế là thiện. Nếu phạm
phải quan liêu, mệnh lệnh, tham ô, lười biếng thế là ác. Thực hiện chí cơng vơ tư
cũng có nghĩa là thực hiện chủ nghĩa tập thể, bởi vì chủ nghĩa cá nhân dễ đưa con
người vào sa ngã, đi đến tham ô, hủ hóa, lãng phí, xa hoa, chun quyền, độc
đốn…Do chủ nghĩa cá nhân mà sinh ra mất đồn kết, vơ kỉ luật kém tinh thần
trách nhiệm, không chấp hành đúng chính sách của Đảng và Nhà nước, làm hại
đến sự nghiệp chung.
Cách đây hơn 6 thập kỷ, ngay sau khi Cách mạng Tháng Tám thắng lợi và
Đảng ta trở thành đảng cầm quyền, trong tác phẩm Đời sống mới (1947) Hồ Chí
Minh đã thấy trước nguy cơ dễ thối hóa biến chất đối với cán bộ, đảng viên nắm
giữ chức quyền trong bộ máy nhà nước mà không thường xuyên rèn luyện, tu
dưỡng đạo đức. Điều đáng lo nhất của Hồ Chí Minh đối với cán bộ đảng viên của
một đảng cầm quyền là khơng cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư là quan liêu,
mất dân chủ, sa vào chủ nghĩa cá nhân dẫn đến những sai lầm về chính trị, tự
đánh mất uy tín, mất lịng tin đối với nhân dân. Trước lúc đi xa, Người không
quên căn dặn mỗi cán bộ, đảng viên phải thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng,
thật sự cần, kiệm, liêm, chính, chí cơng vơ tư.
Đạo đức Hồ Chí Minh cịn là tấm gương sáng về đời riêng trong sáng, nếp
sống giản dị và đức khiêm tốn phi thường.
Sau khi được bầu làm Chủ tịch nước Hồ Chí Minh vẫn giữ cho mình nếp
sống giản dị bình thường như những ngày cịn là người chiến sĩ cách mạng như
bao nhiêu người khác, sống và làm việc với mọi người như những người thân
trong gia đình, Người khơng câu nệ về việc ăn ở miễn sao có chỗ để ở, có cái để
ăn dù là cơm trắng với rau xanh. Người lúc nào cũng chỉ nghĩ đến người khác
khơng hề nghĩ đến mình nhưng Người khơng bao giờ nhận mình là người có
cơng to lớn gì cả, rất khiêm tốn mặc dù Người đã hi sinh cả cuộc đời mình cho
đất nước.
Những lời nói của Hồ Chí Minh về cần, kiệm, liêm, chính, chí cơng vơ
tư, đời riêng trong sáng, nếp sống giản dị và đức khiêm tốn phi thường cho đến
nay vẫn còn nguyên giá trị. Đặc biệt là tấm gương của Người về thực hành
cần, kiệm, liêm, chính vẫn mãi mãi để cán bộ, đảng viên và nhân dân ta noi
theo. Thực hành tốt những lời dạy của Người về cần, kiệm, liêm, chính, chí
cơng vơ tư là chúng ta đã góp phần làm giàu cho đất nước, làm tăng lịng tin
của nhân dân vào Đảng và chính quyền. Như vậy là chúng ta cũng đã góp
20