Tải bản đầy đủ (.doc) (21 trang)

Chế độ hưu trí Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (176.3 KB, 21 trang )

Chế độ hưu trí Việt Nam
I. TỔNG QUAN VỀ CHẾ ĐỘ HƯU TRÍ
1. 1. Khái niệm.
Hưu trí là chế độ cơ bản nhất trong 5 chế độ của hệ thống BHXH, được quy
định tại Mục 4 chương III Luật BHXH từ Điều 49 đến Điều 62, bao gồm các quy
định về đối tượng áp dụng, điều kiện hưởng lương hưu, mức lương hưu hàng tháng
và trợ cấp một lần khi nghỉ hưu, điều chỉnh lương hưu; về điều kiện và mức hưởng
BHXH một lần; về bảo lưu thời gian đóng BHXH; và mức tiền lương, tiền công
tháng đóng BHXH để tính lương hưu, trợ cấp một lần; về điều chỉnh tiền lương,
tiền công đã đóng BHXH và tạm dừng hưởng lương hưu hàng tháng.
Theo nghĩa chung nhất thì Chế độ hưu trí được hiểu là “chế độ bảo hiểm xã
hội đảm bảo thu nhập cho người hết tuổi lao động hoặc không còn tham gia quan
hệ lao động nữa”.
Còn dưới góc độ pháp luật, chế độ bảo hiểm hưu trí là tổng hợp các quy
phạm pháp luật quy định về các điều kiện và mức trợ cấp cho những người tham
gia BHXH, khi đã hết tuổi lao động hoặc không còn tham gia lao động.
Với quy định trong Luật BHXH, về cơ bản chế độ hưu trí đảm bảo tính kế
thừa của các quy định trước đây và không có những thay đổi lớn như: Điều kiện về
tuổi được nghỉ hưu (cả đối với trường hợp nghỉ hưu do suy giảm khả năng lao
động), mức lương hưu hàng tháng. Do vậy, chế độ hưu trí nhìn chung đảm bảo
tương quan về lương hưu của người nghỉ hưu trước và sau khi thực hiện Luật
BHXH, không tạo nên sự chênh lệch lương hưu giữa những người nghỉ hưu có
cùng tuổi nghỉ hưu, cùng điều kiện làm việc và cùng thời gian đóng BHXH, đảm
bảo công bằng trong hưởng thụ.
Chế độ hưu trí Việt Nam
1.2 Tầm quan trọng của BH hưu trí.
a. Khía cạnh xã hội
Trong hệ thống BHXH bảo hiểm hưu trí là chế độ dành cho những người
không còn tham gia quan hệ lao động nữa vì vậy chế độ này rất cần thiết và không
thể thiếu được bởi bất cứ người lao động nào cũng đến lúc hết tuổi lao động nhưng
họ vẫn có nhu cầu đảm bảo cuộc sống và lương hưu của họ là nguồn thu nhập


chính của họ lúc này. Được hưởng trợ cấp khi về hưu là một trong những mục đích,
động lực cơ bản để người lao động tham gia quan hệ BHXH.
Sở dĩ, chế độ bảo hiểm hưu trí giữ vị trí quan trọng vì đó không chỉ là vấn đề quan
tâm của người lao động khi tham gia quan hệ bảo hiểm mà còn do hầu hết mọi
người tham gia đều là đối tượng của bảo hiểm hưu trí. Nếu như các chế độ BHXH
chỉ áp dụng cho một số đối tượng lao động nhất định như chế độ tai nạn lao động,
bênh nghề nghiệp chỉ áp dụng đối với những người bị tai nạn lao động hoặc bị mắc
bệnh nghề nghiệp. Chế độ hưu trí áp dụng cho hầu hết những đối tượng tham gia
BHXH ngoại trừ trường hợp họ không may mắn chết khi làm việc còn lại những
người tham gia BHXH khi hết tuổi đều được hưởng. theo Dự báo Dân số của Liên
hợp quốc (2002) về dân số Việt Nam đến năm 2050, tỷ lệ người già (trên 60 tuổi)
sẽ chiếm khoảng 25% dân số và tỷ lệ phụ thuộc của dân số già là 42%
Hơn nữa phần lớn phí đóng vào BHXH đều dành cho việc chi trả chế độ bảo
hiểm hưu trí. Trong số 20% quỹ lương mà người lao động và người sử dụng lao
động đóng góp vào BHXH thì có tới 16% dành cho chế độ hưu trí và tử tuất trong
đó chủ yếu dành cho chế độ hưu trí. Trong thời gian tới tỷ lệ hưu trí tử tuất tiếp tục
tăng chiếm khoảng 22%tổng số lương. Hơn nữa thời gian hưởng chế độ này thường
Chế độ hưu trí Việt Nam
lâu dài nên nó ảnh hưởng đến người lao động nhiều hơn so với các chế độ BHXH
khác. Vì thế chế độ bảo hiểm hưu trí đã góp phần cùng với chế độ BHXH khác tạo
nên ý nghĩa của BHXH nói chung trên các phương diện kinh tế, chính trị, xã hội và
pháp lý. Đối với người lao động là kết quả tích luỹ trong suốt quá trình làm việc,
sau khi về hưu họ thấy yên tâm trong cuộc sống là chỗ dựa tinh thần giúp họ không
thấy mặc cảm là gánh nặng cho gia đình và xã hội.
b. Khía cạnh pháp lý
Tổ chức lao động quốc tê (ILO) đã thông qua Công ước số 102 năm 1952 quy
định những quy phạm tối thiểu về an sinh xã hội trong đó khuyến nghị các quốc gia
thành viên phải thực hiện ít nhất 3 trong 9 chế độ được quy định trong công ước,
trong đó có chế độ bảo hiểm hưu trí. Điều này chứng tỏ bảo hiểm hưu trí luôn được
ILO, chính phủ các nước cũng như người lao động hết sức quan tâm.

Bảo hiểm xã hội là một trong những chính sách xã hội lớn của Đảng và Nhà nước
ta. Từ bản Hiến pháp đầu tiên năm 1946 đến các Hiến pháp sau này đều khẳng định
quyền hưởng bảo hiểm xã hội của người lao động. Trên cơ sở đó, Quốc hội, Chính
phủ và Bộ Lao động- TBXH đã ban hành nhiều văn bản quy phạm pháp luật về bảo
hiểm xã hội, đồng thời sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với từng thời kỳ phát triển của
đất nước. Đặc biệt, khi Bộ luật Lao động được Quốc hội khoá IX thông qua ngày
23/6/1994 và có hiệu lực thi hành từ 1/1/1995, trong đó có một chương (Chương
XII) quy định về bảo hiểm xã hội Chính phủ cũng đã ra Nghị định số 12/CP ngày
26/01/1995 về việc ban hành Điều lệ Bảo hiểm xã hội và Nghị định số 45/CP ngày
15/7/1995 ban hành Điều lệ Bảo hiểm xã hội đối với sĩ quan, quân nhân chuyên
nghiệp, hạ sĩ quan, binh sĩ quân đội nhân dân và công an nhân dân. Đặc biệt là từ
khi luật BHXH 2006 được ban hành nó không chỉ đánh dấu một mốc mới về công
tác lập pháp trong lĩnh vực BHXH mà còn cải thiện chế độ hưu trí theo hướng công
Chế độ hưu trí Việt Nam
bằng hơn giữa các thành phần kinh tế tiến tới giai đoạn phát triển ổn định và bền
vững.
1.3 Nguyên tắc của chế độ bảo hiểm hưu trí.
Chế độ bảo hiểm hưu trí là một trong những chế độ của BHXH nên cũng tuân
theo các nguyên tắc chung của BHXH(Điều 5 Luật BHXH )
“1. Mức hưởng bảo hiểm xã hội được tính trên cơ sở mức đóng, thời gian
đóng bảo hiểm xã hội và có chia sẻ giữa những người tham gia bảo hiểm xã hội.
2. Mức đóng bảo hiểm xã hội bắt buộc, bảo hiểm thất nghiệp được tính trên cơ
sở tiền lương, tiền công của người lao động. Mức đóng bảo hiểm xã hội tự nguyện
được tính trên cơ sở mức thu nhập do người lao động lựa chọn nhưng mức thu nhập
này không thấp hơn mức lương tối thiểu chung.
3. Người lao động vừa có thời gian đóng bảo hiểm xã hội bắt buộc vừa có thời
gian đóng bảo hiểm xã hội tự nguyện được hưởng chế độ hưu trí và chế độ tử tuất
trên cơ sở thời gian đã đóng bảo hiểm xã hội.
4. Quỹ bảo hiểm xã hội được quản lý thống nhất, dân chủ, công khai, minh
bạch, được sử dụng đúng mục đích, được hạch toán độc lập theo các quỹ thành

phần của bảo hiểm xã hội bắt buộc, bảo hiểm xã hội tự nguyện và bảo hiểm thất
nghiệp.
5. Việc thực hiện bảo hiểm xã hội phải đơn giản, dễ dàng, thuận tiện, bảo đảm kịp
thời và đầy đủ quyền lợi của người tham gia bảo hiểm xã hội”
Ngoài ra chế độ bảo hiểm hưu trí còn tuân theo các nguyên tắc riêng biệt:
 Nguyên tắc phân biệt hợp lý chế độ bảo hiểm hưu trí giữa lao động nam và
lao động nữ.
Chế độ hưu trí Việt Nam
 Nguyên tắc ưu đãi đối với một số ngành nghề, lĩnh vực nhất định như người
lao động hành nghề có tính chất nặng nhọc độc hại, làm việc ở vùng xã xôi
hẻo lánh, làm việc trong lĩnh vực an ninh quốc phòng…
1.4 Phân loại.
+ Theo hình thức tham gia: có hai hình thức người lao động tham gia là BH bắt
buộc và BH tự nguyện.
Chế độ hưu trí là một chế độ BHXH theo đó việc áp dụng nó là bắt buộc
đối với tất cả những người lao động làm việc theo hợp đồng dài han, HĐ lao động
có thời hạn từ trên 3 tháng, và các đối tượng khác được quy định cụ thể tại điều 2
LBHXH; còn một số đối tượng khác có thể áp dụng loại hình BH tự nguyện.
+ Theo hình thức hưởng:
Việc hưởng chế độ hưu trí hiện nay được thể hiện dưới các hình thức, đó là
hưởng lương hưu hàng tháng với mức lương đây đủ khi đáp ứng các điều kiện theo
quy định của pháp luật, hưởng lương hưu hàng tháng với mức thấp hơn và hưởng
hưu trí một lần.
1.5. Đối tượng tham gia.
1.5.1 BH hưu trí bắt buộc:
Theo quy định tại điều 2 Luật BHXH 2006, đối tượng tham gia BHXH bắt
buộc bao gồm người lao động và người sử dụng lao động
+ Về phía người lao động, thì đó là những đối tượng tham gia QHLĐ ký HĐ
lao động không xác định thời hạn, HĐLĐ có thời hạn từ đủ 3 tháng trở lên, cán bộ
công chức, viên chức, công nhân quốc phòng, công an nhân dân, sĩ quan, quân

nhân chuyên nghiệp….
Chế độ hưu trí Việt Nam
+ Về phía người sử dụng lao động: đó là các cơ quan nhà nước, đơn vị sự
nghiệp, đơn vị vũ trang nhân dân, tổ chức chính trị, CT-XH, các cơ quan tổ chức
khác và các cá nhân khác có thuê mướn, sử dụng và trả công cho người lao động…
1.5.2. BH hưu trí tự nguyện
Các đối tượng tham gia BH hưu trí tự nguyện là những người lao động khác không
thuộc các trường hợp quy định tại khoản 1 điều 2 luật BHXH.
1.6 Quỹ BH hưu trí
* Quỹ BH hưu trí bắt buộc
Nguồn hình thành quỹ là từ sự đóng góp của người sử dụng lao động, người
lao động, tiền sinh lời từ hoạt động đầu tư quỹ, hỗ trợ của Nhà nước và các nguồn
thu hợp pháp khác.
Theo quy định của luật BHXH thì mức đóng góp và phương thức đóng góp như
sau:
Người lao động hàng tháng đóng góp 5% tiền lương, tiền công vào quỹ hưu trí, tử
tuất, từ 2010 trở đi, cứ hai năm một lần đóng thêm vào 1% cho đến khi đạt mức
đóng là 8%.
Người sử dụng lao động đóng 11% trên quỹ tiền lương, tiền công đóng BHXH của
người lao động vào quỹ hưu trí và tử tuất, từ 2010 trở đi, thì cứ hai năm mỗi lần
đóng thêm 1% cho đến khi đạt mức đóng là 14%. Đối với Hạ sỹ quan, binh sỹ quân
đội nhân dân và hạ sĩ quan, chiến sĩ công an phục vụ có thời hạn thì mức đóng là
16% vào quỹ hưu trí tử tuất, đến 2010 trở đi, cứ hai năm một lần đóng thêm 2%
cho đến khi đạt mức 22%.
* Quỹ BH tự nguyện
Nguồn hình thành quỹ BH tự nguyện khác với quỹ BH bắt buộc là không có sự
tham gia của người sử dụng lao động.
Chế độ hưu trí Việt Nam
Mức đóng của người lao động vào quỹ BH tự nguyện là hàng tháng đóng 16%mức
thu nhập người lao động lựa chọn đóng , từ 2010 trở đi, cứ hai năm một lần đóng

thêm 2% cho đến khi đạt mức đóng là 22%.
II. CHẾ ĐỘ BẢO HIỂM HƯU TRÍ.
Thông thường để được hưởng một chế độ bảo hiểm xã hội người hưởng bảo
hiểm phải đảm bảo một số điều kiện nhất định. Tuỳ từng chế độ bảo hiểm cụ thể
mà điều kiện hưởng khác nhau nhưng nhìn chung đều căn cứ vào mức đóng góp
của người tham gia bảo hiểm. Đối với chế độ bảo hiểm hưu trí, điều kiện quan
trọng để người lao động được hưởng bảo hiểm chính là thời gian đóng và tuổi đời.
Do vậy, phải đến một mức độ tuổi và có một khoảng thời gian đóng bảo hiểm nhất
định người lao động mới được nghỉ hưu và hưởng trợ cấp. Về nguyên tắc, chế độ
bảo hiểm hưu trí là chế độ bảo hiểm dành cho những người đã già không còn tham
gia quan hệ lao động nữa, vì vậy, chỉ đến khi hết tuổi lao động người lao động mới
đựơc hưởng chế độ này. Trên thế giới, tuỳ điều kiện kinh tế xã hội cũng như tập
quán của từng nước mà độ tuổi về hưu của ngừơi lao động đựơc quy định ở các
quốc gia khác nhau. Ngay tại một quốc gia ở các thời kỳ khác nhau cũng có những
quy định khác nhau về độ tuổi nghỉ hưu của người lao động do sự thay đổi của các
điều kiện kinh tế xã hội.
A. CHẾ ĐỘ HƯU TRÍ BẮT BUỘC
1. Chế độ hưu trí hàng tháng.
1.1 Chế độ hưu trí hàng tháng đầy đủ.
Theo quy định của pháp luật Việt Nam, điều kiện chung để được hưởng chế
độ hưu trí là: đối với lao động nam đủ 60 tuổi, lao động đủ 55 tuổi và có thời đóng
Chế độ hưu trí Việt Nam
bảo hiểm xã hội đủ 20 năm trở lên. Tuổi nghỉ hưu này được giảm tối đa 5 tuổi, cụ
thể là 55 tuổi đến 60 tuổi đối với lao động nam, 50 tuổi đến 55 tuổi đối với lao
động nữ trong các trường hợp người lao động đủ 15 năm làm nghề hoặc công việc
nặng nhọc độc hại; có đủ 15 năm làm việc ở nơi có phụ cấp khu vực hệ số từ 0,7
trở lên. Đối với những người làm việc trong lực lượng vũ trang nhân dân được
giảm 5 năm tuổi đời so với những người lao động ở khu vực dân sự.( Điều 50 Luật
BHXH ).
Ở Mỹ, độ tuổi nghỉ hưu ở cả hai giới là 65 tuổi, ở Anh độ tuổi nghỉ hưu của nam là

65 và nữ là 60 tuổi, ở Nhật tuổi nghỉ hưu của nam là 60 tuổi và nữ là 55 tuổi. Hiện
nay do tuổi thọ trung bình của người dân tăng lên nên một số đất nước đang có xu
hướng tăng tuổi nghỉ hưu của người lao động hoặc áp dụng chế độ hưu trí mền dẻo
với các biện pháp không chính thức khuyến khích người lao động tiếp tục làm việc
và nghỉ hưu muộn hơn. Về cơ bản những quy định của pháp luật Việt Nam về tuổi
nghỉ hưu là tương đồng với pháp luật của các nước trên thế giới. Tuy nhiên trên
thực tế ở khu vực sản xuất kinh doanh, người lao động làm công việc nặng nhọc
độc hại. tuy tuổi nghỉ hưu đã giảm xong nhiều người lao động vẫn khó thể tiếp tục
làm việc đến khi đủ tuổi nghỉ hưu theo quy định pháp luật.
Mức hưởng bảo hiểm hưu trí hàng tháng tính trên cơ sở thời gian đóng BHXH và
mức bình quân tiền lương của tiền lương tháng làm cơ sở đóng BHXH. Trước đây
quỹ BHXH do ngân sách nhà nước tài trợ nhưng bây giờ quy BHXH được hình
thành trên cơ sở sự đóng góp của người lao động và người sử dụng lao động. Vì
vậy mà cách tính mức hưởng bảo hiểm phải dựa vào các yếu tố nêu trên. Điều 52
Luật BHXH quy định mức bảo hiểm cao nhất bằng 75% mức bình quân tiền lương
hàng tháng làm căn cứ đóng bảo hiểm nhằm đảm bảo sự công bằng giữa lao động
nữ và lao động nam khi về hưu bởi lao động nữ về hưu sớm hơn lao động nam 5
năm. Do vậy, lao động nữ đủ 5 tuổi và đủ 25 năm đóng BHXH cũng sẽ được hưởng
mức lương hàng tháng tối đa như lao động nam 60 tuổi và có 30 năm đóng bảo

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×