Bài 1: Sự hình thành và phát triển của nhà nước
0
Bài 1: SỰ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA NHÀ NƯỚC
Nội dung
Nguồn gốc nhà nước.
Khái niệm và bản chất của nhà nước.
Đặc trưng của nhà nước.
Chức năng nhà nước.
Bộ máy nhà nước.
Hình thức nhà nước.
Kiểu nhà nước.
Mục tiêu
Hướng dẫn học
Sau khi học bài này, các bạn có thể:
Chỉ ra được sự khác biệt các quan điểm
khác nhau về sự ra đời của nhà nước.
Nắm bắt được khái niệm nhà nước và
bản chất của nhà nước.
Xác định các đặc trưng của nhà nước.
Nhìn nhận và đánh giá ban đầu về chức
năng của nhà nước, bộ máy nhà nước.
Phân loại các hình thức nhà nước và các
kiểu nhà nước
Nghe giảng và đọc tài liệu để nắm bắt
các nội dung chính.
Đặt câu hỏi ngay nếu có thắc mắc.
Trả lời các câu hỏi ôn tập.
Thời lượng học
6 tiết
TGL101_Bai1_v1.0014103225
1
Bài 1: Sự hình thành và phát triển của nhà nước
Cùng với sự xuất hiện và phát triển, nhà nước và pháp luật có mối quan hệ hữu cơ với nhau.
Chúng tạo thành hạt nhân chính trị – pháp lý của thượng tầng kiến trúc của xã hội. Nhà nước
không thể tồn tại nếu thiếu pháp luật, bởi vì theo nghĩa chung nhất, nhà nước là tổ chức được
hình thành từ những quy định của pháp luật. Và ngược lại, pháp luật là sản phẩm của quyền lực
nhà nước, thể hiện ý chí hợp quy luật và điều kiện khách quan do nhà nước nhận thức được.
Chính vì vậy, việc tìm hiểu đến sự hình thành và phát triển của nhà nước sẽ là tiền đề để hiểu rõ
bản chất của pháp luật. Bởi nhà nước là một hiện tượng xã hội đa dạng và phức tạp liên quan
chặt chẽ đến lợi ích của giai cấp, tầng lớp, dân tộc. Để nhận thức đúng đắn bản chất, vai trò của
nhà nước, trước hết làm sáng tỏ nguồn gốc của nhà nước, chỉ ra nguyên nhân cội nguồn làm xuất
hiện nhà nước.
1.1.
Nguồn gốc nhà nước
Trong lịch sử chính trị – pháp lý, ngay từ thời kỳ cổ đại, trung đại và cận đại đã có nhiều
nhà tư tưởng đề cập tới vấn đề nguồn gốc của nhà nước. Xuất phát từ các góc độ khác
nhau, các nhà tư tưởng trong lịch sử đã có những lý giải khác nhau về vấn đề nguồn gốc
của nhà nước.
1.1.1. Các quan điểm về nguồn gốc nhà nước trước Mác-Lênin
Các nhà tư tưởng theo thuyết thần học là những nhà tư tưởng cổ điển nhất đưa ra
nguồn gốc của nhà nước.
o Đại diện cho trường phái này gồm Ph.Acvin (trong xã hội trung cổ); Masiten.
Koct Phlore (trong xã hội tư sản).
o Thuyết này cho rằng Thượng đế là người sắp đặt trật tự trong xã hội, nhà nước
là do thượng đế sáng tạo ra để bảo vệ trật tự chung. Nhà nước là lực lượng
siêu nhiên.
o Do vậy, Nhà nước là thiết chế quyền lực của thượng đế; quyền lực của thượng đế
là vĩnh cửu. Có thể nhận thấy nhà nước theo thuyết này là sự phái sinh từ quyền
lực của Thượng đế.
Thuyết gia trưởng (Arixtơn, Philmer, Mikhailơp, Merđc,…) cho rằng nhà nước ra
đời là sự phát triển của gia đình, là hình thức tổ chức tự nhiên của cuộc sống con
người. Nhà nước thực chất là một gia tộc mở rộng và quyền lực nhà nước là sự mở
rộng của quyền gia trưởng.
Từ thế kỷ XVI – XVIII cùng với trào lưu cách mạng tư sản, đã xuất hiện hàng loạt
quan điểm mới về nhà nước, trong đó có thuyết khế ước xã hội.
o Những người đại diện cho học thuyết này gồm có Grơxi, Xpirơza, Gốp, Lơre,
Rútxơ,... cho rằng sự ra đời của nhà nước là kết quả của một khế ước (hợp đồng)
được ký kết giữa những con người sống trong trạng thái tự nhiên không nhà nước.
o Sự ra đời của học thuyết này, đánh dấu một bước phát triển nhận thức mới của
con người về nguồn gốc nhà nước, thể hiện sự tiến bộ của loài người và phủ nhận
thuyết thần học về sự ra đời của nhà nước, đồng thời coi quyền lực nhà nước là
sản phẩm hoạt động của con người.
o Con người từ trạng thái tự nhiên đã tự nguyện liên kết lại thành nhà nước trên cơ
sở khế ước xã hội với những điều kiện và sự ràng buộc nhất định như đóng thuế
để nuôi dưỡng bộ máy nhà nước, trao cho nhà nước một số quyền lực và phục
2
TGL101_Bai1_v1.0014103225
Bài 1: Sự hình thành và phát triển của nhà nước
o
tùng nó; cịn ngược lại, nhà nước phải có trách nhiệm duy trì trật tự xã hội và bảo
vệ các quyền và tự do của người dân,… Trường hợp nhà nước khơng giữ được
vai trị của mình, các quyền tự nhiên bị vi phạm thì khế ước sẽ mất hiệu lực và
nhân dân có quyền lật đổ nhà nước và ký khế ước mới. Vì vậy, thuyết khế ước xã
hội đã trở thành cơ sở tư tưởng cho cách mạng tư sản, lật đổ chế độ phong kiến,
với ý nghĩa đó, nó có tính cách mạng và giá trị lịch sử nhất định.
Tuy nhiên, thuyết khế ước xã hội vẫn có những hạn chế nhất định, về căn bản các
nhà tư tưởng vẫn đứng trên lập trường quan điểm của chủ nghĩa duy tâm để giải
thích sự xuất hiện của nhà nước, bản chất của nhà nước và sự thay thế nhà nước.
Nó chưa lý giải được nguồn gốc vật chất và bản chất giai cấp của nhà nước.
Ngày càng có nhiều nhà tư tưởng tư sản thừa nhận nhà nước là sản phẩm của đấu
tranh giai cấp, là tổ chức quyền lực của xã hội có giai cấp, nhưng mặt khác họ vẫn
không chịu thừa nhận bản chất giai cấp của nhà nước mà coi nhà nước vẫn là cơng cụ
đứng ngồi bản chất giai cấp, khơng mang tính giai cấp, là cơ quan trọng tài để điều
hồ mâu thuẫn giai cấp. Vì thế, trong lịch sử tư tưởng chính trị – pháp lý xuất hiện
một học thuyết khác của các nhà tư tưởng tư sản về nguồn gốc nhà nước, đó là:
thuyết bạo lực. Đại diện cho những nhà tư tưởng theo học thuyết này là Gumplơvích,
E. Đuyrinh, Kauxky. Thuyết bạo lực cho rằng: nhà nước xuất hiện trực tiếp từ việc
sử dụng bạo lực của thị tộc này với thị tộc khác, thị tộc chiến thắng đã lập ra bộ máy
đặc biệt (nhà nước) để nô dịch thị tộc chiến bại.
Nhìn chung, tất cả các quan điểm trên đều có một hạn chế là đều tách rời những điều
kiện vật chất của xã hội, tách rời những nguyên nhân kinh tế và chứng minh rằng nhà
nước là một thiết chế tồn tại trong mọi xã hội, một lực lượng đứng trên xã hội, đứng
ngoài xã hội để giải quyết các tranh chấp, điều hòa mâu thuẫn xã hội nhằm bảo đảm
sự ổn định và phồn vinh cho xã hội. Theo họ, nhà nước không thuộc giai cấp nào,
nhà nước là của tất cả mọi người và nhà nước tồn tại mãi mãi cùng xã hội.
1.1.2. Quan điểm Mác-Lênin về nguồn gốc của nhà nước
Kế thừa những thành tựu nghiên cứu khoa học của xã hội lồi người, các nhà sáng lập
Chủ nghĩa Mác-Lênin giải thích nguồn gốc của nhà nước trên cơ sở phương pháp luận
duy vật biện chứng và lịch sử đã chỉ ra rằng nhà nước là một phạm trù lịch sử có quá
trình phát sinh, phát triển và tiêu vong. Nhà nước nảy sinh từ trong đời sống xã hội, xuất
hiện khi xã hội lồi người phát triển đến một trình độ nhất định. Các luận điểm quan
trọng của học thuyết Mác-Lênin về nguồn gốc nhà nước được trình bày tập trung trong
tác phẩm “Nguồn gốc của gia đình, chế độ sở hữu và của nhà nước” của Ph.Ănghen.
Qua tác phẩm này, Ph.Ănghen đã phân tích các vấn đề về gia đình, nguồn gốc của giai
cấp và của nhà nước và những quy luật tiếp tục phát triển và biến đổi sau này của chúng.
Ph.Ănghen đã chỉ ra rằng nhà nước chỉ ra đời ở một giai đoạn lịch sử nhất định của xã
hội trên cơ sở xuất hiện chế độ tư hữu và gắn liền với nó là sự phân chia xã hội thành các
giai cấp đối kháng, ông cũng luận chứng về tính chất giai cấp và tính lịch sử của nhà
nước, làm sáng tỏ chức năng giai cấp cơ bản của nhà nước Sau đó được bổ sung và phát
triển trong tác phẩm “nhà nước và cách mạng” của Lênin.
Chế độ cộng sản nguyên thủy, tổ chức thị tộc – bộ lạc và quyền lực xã hội
o Cơ sở kinh tế của xã hội cộng sản nguyên thủy là chế độ sở hữu chung về tư liệu
sản xuất và sản phẩm lao động xã hội, được quy định bởi trình độ thấp kém của
TGL101_Bai1_v1.0014103225
3
Bài 1: Sự hình thành và phát triển của nhà nước
o
o
4
lực lượng sản xuất. Chỉ với công cụ lao động thô sơ, năng suất lao động kém, sự
bất lực của con người trước thiên nhiên đã hợp nhất con người trong một tập thể.
Lao động chung dẫn đến sở hữu chung về tư liệu sản xuất và việc phân phối đồng
đều sản phẩm làm ra.
Cấu trúc xã hội cộng sản nguyên thủy dựa vào thị tộc – tế bào cơ sở của xã hội
cộng sản nguyên thủy.
Từ quan hệ tạp hôn, con cái chỉ biết mẹ, dần dần trong quan hệ hôn nhân diễn
ra sự biến đổi quan trọng: những người cùng dịng máu mẹ khơng kết hơn với
nhau, những người này hợp thành một cộng đồng gọi là thị tộc. Như vậy, thị
tộc được hợp thành do quan hệ huyết thống.
Về kinh tế, thị tộc hình thành do quá trình phát triển của lực lượng sản xuất.
Thị tộc phát triển qua hai giai đoạn: thị tộc mẫu hệ và thị tộc phụ hệ. Trong xã
hội phụ hệ, chế độ hôn nhân một vợ một chồng được xác lập, mọi người trong
thị tộc đều theo dòng họ cha, đó là chế độ phụ quyền. Thị tộc có ruộng đất, có
khu vực cư trú riêng.
Việc điều hành và quản lý thị tộc do tù trưởng và thủ lĩnh quân sự đảm đương.
Những người này do các thành viên của thị tộc bầu ra.
Thị tộc là kết quả của q trình tiến hóa lâu dài, xuất hiện khi xã hội đã phát
triển tới một trình độ nhất định. Vì vậy, đây được coi là bước tiến trong lịch
sử của nhân loại.
Trong thị tộc, trên cơ sở sở hữu chung về tư liệu sản xuất và sản phẩm, mọi
người đều bình đẳng khơng ai có đặc quyền đặc lợi. Ở đó đã có sự phân cơng
lao động nhưng chỉ ở mức phân công lao động giữa đàn ông và đàn bà, người
già và trẻ nhỏ để thực hiện các loại cơng việc khác nhau, chứ chưa mang tính
xã hội.
Hội đồng thị tộc là tổ chức quyền lực cao nhất của thị tộc bao gồm những
người đàn ông và đàn bà lớn tuổi. Hội đồng thị tộc quyết định tất cả các vấn
đề quan trọng của thị tộc như tổ chức lao động sản xuất, giải quyết các tranh
chấp nội bộ, tiến hành chiến tranh. Quyết định của hội đồng thị tộc có tính bắt
buộc đối với tất cả mọi người.
Nhưng trong thị tộc chưa có cơ quan cưỡng chế mà được bảo đảm bằng sự
cưỡng chế tự nhiên mạnh mẽ. Hội đồng thị tộc sẽ bầu ra người đừng đầu thị
tộc gồm tù trưởng, thủ lĩnh quân sự để thực hiện quyền lực, quản lý công việc
chung. Căn cứ để bầu người đứng đầu thị tộc là dựa vào tập thể cộng đồng, uy
tín cá nhân, sự ủng hộ và tín nhiệm của các thành viên trong thị tộc. Do đó, tù
trưởng, thủ lĩnh quân sự có thể bị bãi nhiễm bất cứ lúc nào nếu uy tín khơng
cịn và khơng được tập thể cộng đồng ủng hộ.
Thị tộc là một cộng đồng xã hội độc lập, là tổ chức tế bào cơ sở của xã hội cộng
sản nguyên thủy. Đến một giai đoạn phát triển nhất định, do có sự cấm đốn hơn
nhân trong nội bộ thị tộc mà các thành viên của thị tộc này đã có quan hệ hơn
nhân với các thành viên của thị tộc khác hình thành nên chế độ hơn nhân ngoại
tộc. Các thị tộc mà các thành viên có quan hệ ngoại tộc với nhau hợp lại thành
bào tộc. Nhiều bào tộc liên kết lại với nhau thành bộ lạc. Bộ lạc có tên gọi, nơi ở,
tiếng nói, phong tục tập quán, ruộng đất,… riêng.
TGL101_Bai1_v1.0014103225
Bài 1: Sự hình thành và phát triển của nhà nước
Đứng đầu bộ lạc là tù trưởng bộ lạc do hội nghị bộ lạc bầu ra. Tù trưởng bộ
lạc có quyền giải quyết những công việc gấp, không quan trọng giữa hai kỳ
hội nghị bộ lạc và có quyền triệu tập hội nghị.
Hội đồng bộ lạc bao gồm: tù trưởng bộ lạc, các tù trưởng và thủ lĩnh quân sự
của thị tộc. Quản lý công việc của thị tộc là một trưởng lão già nhất trong thị
tộc. Nên hội đồng bộ lạc còn được gọi là hội đồng trưởng lão.
Hội đồng bộ lạc có quyền thảo luận, quyết định những vấn đề quan trọng của
bộ lạc như tuyên chiến, đình chiến, cử sứ giả đi hoặc chia chiến lợi phẩm,….
Và đến giai đoạn cuối cùng của chế độ cộng sản nguyên thủy thì các liên minh bộ
lạc hình thành.
Hội đồng liên minh bộ lạc gồm những tù trưởng của các bộ lạc và các thị tộc.
Hội đồng thảo luận và quyết định những công việc của liên minh theo phương
thức dân chủ. Mọi quyết định phải được sự nhất trí hồn tồn của các thành
viên. Các quyết định đó khi đưa về các bộ lạc cũng phải được hội đồng bộ lạc
tán thành thì mới có hiệu lực.
Liên minh bộ lạc có hai thủ lĩnh tối cao, không ai hơn ai về quyền hạn và
chức trách.
Về cơ bản, tính chất quyền lực, cách thức tổ chức quyền lực trong bào tộc, bộ lạc,
liên minh bộ lạc được xây dựng trên cơ sở những nguyên tắc trong xã hội thị tộc
nhưng chừng mực nào đó thì được tập trung cao hơn.
Trong xã hội cộng sản nguyên thủy, quyền lực đều xuất phát từ xã hội và phục vụ
lợi ích của cả cộng đồng. Quyền lực trong chế độ cộng sản nguyên thủy mới chỉ
là quyền lực xã hội do toàn xã hội tổ chức và phục vụ lợi ích cho cả cộng đồng.
Tóm lại, trong xã hội cộng sản nguyên thủy, quyền lực xã hội được tổ chức thực
hiện trên cơ sở dân chủ thực sự. Những quy tắc xã hội như đạo đức, tôn giáo, tập
quán,…dùng để điều chỉnh các thành viên trong xã hội cộng sản nguyên thủy.
Các quy tắc xã hội đó đều được mọi người tự giác tuân theo và được đảm bảo
thực hiện bởi sự cưỡng chế của cộng đồng.
o
o
o
o
Sự tan rã của tổ chức thị tộc và sự xuất hiện nhà nước
o Xã hội cộng sản nguyên thuỷ chưa biết đến nhà nước, nhưng chính trong lịng xã
hội đó đã nảy sinh những tiền đề vật chất cho sự ra đời của nhà nước. Những
nguyên nhân làm xã hội cộng sản nguyên thuỷ tan rã đồng thời cũng là những
nguyên nhân xuất hiện nhà nước, đó là sự phân công lao động xã hội.
o Lịch sử xã hội cổ đại đã trải qua ba lần phân công lao động xã hội, đó là: chăn
ni tách khỏi trồng trọt; thủ công nghiệp tách khỏi nông nghiệp; và thương
nghiệp xuất hiện.
Việc con người thuần dưỡng được động vật đã mở ra một kỷ nguyên mới
trong sự phát triển của xã hội lồi người. Từ con vật ni được thuần dưỡng,
hình thành đàn gia súc đã trở thành nguồn tích lũy quan trọng. Do vậy, sau lần
phân công lao động thứ nhất, chăn nuôi đã trở thành ngành kinh tế tách khỏi
trồng trọt, có những bộ lạc chun về chăn ni và có những bộ lạc chuyên về
trồng trọt. Và mầm mống của chế độ tư hữu đã xuất hiện. Năng suất lao động
được nâng cao, làm cho sản xuất sản phẩm xã hội tăng nhanh. Ngoài tiêu
TGL101_Bai1_v1.0014103225
5
Bài 1: Sự hình thành và phát triển của nhà nước
o
dùng hàng ngày, con người đã có của cải dư thừa để dành. Trong các cộng
đồng, những người có địa vị đã chiếm được nhiều của cải dư thừa của tập thể.
Xã hội đã phân chia thành người giàu và người nghèo dẫn đến quan hệ xã hội
đã có nhiều biến đổi. Đại gia đình phụ quyền được phân thành nhiều gia đình
nhỏ, bao gồm vợ chồng và con cái. Mỗi gia đình nhỏ là một đơn vị kinh tế, có
tài sản riêng như cơng cụ sản xuất, tư liệu lao động và những thứ đó được
truyền lại cho con cái từ đời này qua đời khác, củng cố thêm chế độ tư hữu.
Bên cạnh đó, của cải và tù binh trong chiến tranh cũng được coi là tài sản
quan trọng mà những người có địa vị trong bộ lạc thắng trận chiếm đoạt cho
riêng mình.
Xã hội tiếp tục phát triển, cùng với sự tồn tại của chăn nuôi và trồng trọt, thủ
công nghiệp cũng được phát triển mạnh mẽ. Việc tìm ra kim loại và chế tạo
cơng cụ bằng kim loại tạo khả năng tăng năng suất lao động. Nghề chế tạo
kim loại, nghề dệt, nghề làm đồ gốm, chế biến sản phẩm nông nghiệp.v.v...
ngày càng phát triển. Điều này đã dẫn đến việc thủ công nghiệp tách khỏi
nông nghiệp. Hậu quả của lần phân công lao động thứ hai này đã làm q
trình phân hóa xã hội diễn ra mạnh mẽ, nô lệ trở thành lực lượng xã hội với số
lượng ngày càng đông, sự phân biệt giữa người giàu và người nghèo, giữa chủ
nô và nô lệ ngày càng sâu sắc, đối kháng giai cấp ngày càng gia tăng.
Với việc xuất hiện nhiều ngành nghề chuyên môn trong sản xuất đã làm phát
sinh nhu cầu trao đổi hàng hoá trong xã hội. Sự phát triển nền sản xuất hàng
hoá dẫn đến sự phát triển của thương nghiệp. Lần phân công lao động này đã
làm thay đổi sâu sắc xã hội. Nền sản xuất hàng hóa và tiền tệ ra đời, thương
mại phát triển và tầng lớp thương nhân xuất hiện chế độ tư hữu và kéo theo là
sự phân chia giai cấp trong xã hội.
Tất cả những yếu tố trên đã làm đảo lộn đời sống thị tộc, phá vỡ tính khép kín của
thị tộc. Tổ chức thị tộc với hệ thống quản lý trước đây trở nên bất lực trước tình
hình mới. Để điều hành xã hội mới địi hỏi phải có tổ chức mới đủ sức mạnh để
dập tắt cuộc xung đột công khai giữa các giai cấp đối lập nhau. Tổ chức đó là nhà
nước và nhà nước đã xuất hiện.
Quan điểm Mác-Lênin
o Nhà nước xuất hiện trực tiếp từ sự tan rã của chế độ cộng sản nguyên thuỷ, là
"sản phẩm và biểu hiện của những mâu thuẫn giai cấp khơng thể điều hồ được".
Nhà nước là "bộ máy trấn áp đặc biệt của giai cấp này đối với giai cấp khác".
o Trong tác phẩm nhà nước và cách mạng, Lênin chỉ ra rằng về bản chất, Nhà nước
là quyền lực chính trị của một giai cấp. Nhưng giai cấp nắm chính quyền nhà
nước lại nhân danh xã hội để điều hành và quản lý xã hội, nhà nước trong thực tế
tồn tại như một công quyền, như một quyền lực cơng cộng. Vì vậy, nhà nước
khơng những có tính giai cấp, mà cịn có tính xã hội, khơng những thực hiện chức
năng giai cấp, mà cịn phải hồn thành các chức năng xã hội. Chức năng giai cấp
của nhà nước bắt nguồn từ lý do ra đời của nhà nước tạo thành bản chất chủ yếu
của nó. Chức năng xã hội bắt nguồn từ nhiệm vụ phải giải quyết những công việc
chung của xã hội. Nhà nước thực hiện chức năng xã hội trong mối liên hệ mật
thiết với các chức năng giai cấp. Hơn nữa, chức năng xã hội cịn là cơ sở cho sự
thống trị chính trị giai cấp.
6
TGL101_Bai1_v1.0014103225
Bài 1: Sự hình thành và phát triển của nhà nước
o
o
o
1.2.
Tiền đề kinh tế cho sự xuất hiện nhà nước là sự xuất hiện chế độ tư hữu về tài sản
trong xã hội. Tiền đề kinh tế là cơ sở vật chất cho sự ra đời của nhà nước – đó là
sự phân chia xã hội thành các giai cấp mà lợi ích cơ bản giữa các giai cấp và các
tầng lớp này là đối kháng với nhau đến mức khơng thể điều hồ được.
Ngồi các yếu tố chung nói trên, sự xuất hiện nhà nước ở các vùng và của các dân
tộc khác nhau cũng có những đặc điểm khác nhau do có các điều kiện kinh tế, xã
hội và ngoại cảnh khác nhau. Theo Ph. Ăngghen có ba hình thức xuất hiện nhà
nước điển hình:
Nhà nước Aten: Đây là hình thức nhà nước
thuần tuý cổ điển nhất. Nguyên nhân dẫn
đến sự ra đời của Nhà nước Aten chủ yếu
trên cơ sở phân hoá nội bộ xã hội thị tộc do
sự phát triển của kinh tế và sự xuất hiện
mâu thuẫn giai cấp đối kháng.
Nhà nước La Mã: Nhà nước này ra đời trên
cơ sở kết quả đấu tranh giữa giới bình dân chống lại giới quý tộc. Chiến thắng
của giới bình dân đã phá vỡ tổ chức thị tộc, thúc đẩy quá trình hình thành thiết
chế nhà nước vốn dựa trên sự phân chia lãnh thổ và sự khác biệt về tài sản.
Nhà nước Giéc Manh: Đây là hình thức nhà nước được thiết lập sau chiến
thắng của người Giéc Manh đối với đế quốc La Mã cổ đại. Nó ra đời do nhu
cầu thiết lập quyền thống trị trên lãnh thổ La Mã mà người Giéc Manh đã xâm
chiếm được chứ không phải do đòi hỏi bức thiết của cuộc đấu tranh giai cấp
trong nội bộ xã hội của người Giéc Manh.
Vì vậy, theo quan điểm của triết học Mác-Lênin thì nhà nước là một phạm trù
lịch sử, nghĩa là nhà nước chỉ ra đời và tồn tại trong một giai đoạn nhất định trong
quá trình phát triển của lịch sử. Nhà nước sẽ mất đi khi những điều kiện tồn tại
của nó khơng cịn. Trong lịch sử đã có một thời kỳ rất dài chưa có nhà nước và
sau này nhà nước cũng mất đi khi điều kiện tồn tại của nó khơng còn.
Khái niệm và bản chất của nhà nước
1.2.1. Khái niệm
Lịch sử phát triển của xã hội cho thấy trong xã hội nguyên thủy, dựa trên chế độ
công hữu về tư liệu sản xuất, mọi người sống bình đẳng, chưa có giai cấp nên chưa có
nhà nước.
Theo Ph.Ănghen, so với tổ chức thị tộc thì nhà nước có hai điểm khác biệt cơ bản là
phân chia dân cư theo lãnh thổ và thiết lập quyền lực công cộng. Nếu tổ chức thị tộc
được hình thành và duy trì trên cơ sở quan hệ huyết thống thì nhà nước tổ chức công
dân theo sự phân chia lãnh thổ. Khác với quyền lực xã hội do dân cư tự tổ chức trong
chế độ cộng sản nguyên thủy, quyền lực công cộng sau khi nhà nước xuất hiện thuộc
về giai cấp thống trị cầm quyền chứ khơng thuộc về tồn thể cộng đồng thành viên
của xã hội. Để thực hiện quyền lực của mình, nhà nước thiết lập bộ máy cưỡng chế
chuyên làm nhiệm vụ quản lý bao gồm quân đội, cảnh sát, tịa án,… và xây dựng
những cơng cụ vật chất như nhà tù và các tổ chức cưỡng bức khác mà trong xã hội thị
tộc khơng có.
TGL101_Bai1_v1.0014103225
7
Bài 1: Sự hình thành và phát triển của nhà nước
Như vậy, nhà nước được hiểu là "hình thức (phương thức) tổ chức xã hội có giai cấp,
là tổ chức quyền lực chính trị cơng cộng đặc biệt, có chức năng quản lý xã hội để
phục vụ lợi ích trước hết cho giai cấp thống trị và thực hiện những hoạt động nảy
sinh từ bản chất của xã hội".
Nhà nước đầu tiên trong lịch sử là Nhà nước chiếm hữu nơ lệ. Đó là nhà nước xuất
hiện trong cuộc đấu tranh khơng thể điều hịa được giữa giai cấp chủ nơ và giai cấp
nơ lệ. Tiếp đó là nhà nước phong kiến và nhà nước tư bản chủ nghĩa mà sự xuất hiện
của nó cũng dựa trên mâu thuẫn đối kháng nói trên. Như thế ở bất kỳ nơi đâu và lúc
nào khi mà mâu thuẫn giai cấp khơng thể điều hịa được thì ở đó nhà nước xuất hiện.
Như Lênin đã viết: “Nhà nước là sản phẩm và biểu hiện của những mâu thuẫn giai
cấp không thể điều hòa được. Bất cứ ở đâu, hễ lúc nào và chừng nào mà về mặt
khách quan, những mâu thuẫn giai cấp khơng thể điều hịa được thì nhà nước sẽ xuất
hiện và ngược lại, sự tồn tại của nhà nước chứng tỏ rằng những mâu thuẫn giai cấp là
khơng thể điều hịa được”.
1.2.2. Bản chất của nhà nước
Bản chất của nhà nước thể hiện ở hai thuộc tính: Tính giai cấp và tính xã hội.
Tính giai cấp
o Tính giai cấp của nhà nước thể hiện ở chỗ nhà nước là bộ máy đặc biệt do giai
cấp cầm quyền tổ chức nhằm mục đích bảo vệ vị thế và lợi ích của giai cấp
cầm quyền.
o Tùy thuộc vào điều kiện, hoàn cảnh và mối tương quan giữa các tầng lớp trong xã
hội trong mỗi nhà nước mà mức độ thể hiện tính giai cấp lại khác nhau…
o Nhà nước xuất hiện và tồn tại một cách khách quan theo quy luật vận động và phát
triển của kinh tế, xã hội. Và nhà nước là tổ chức quyền lực cơng cộng của tồn xã
hội. Vì vậy, nhà nước có vị trí tựa hồ như đứng trên xã hội, đứng trên giai cấp.
o Quyền lực nhà nước là một loại quyền lực đặc biệt, có tổ chức chặt chẽ và có sức
mạnh cưỡng chế. Quyền lực nhà nước bao gồm quyền lập pháp, quyền hành pháp
và quyền tư pháp. Quyền lập pháp là quyền ban hành và sửa đổi pháp luật, quyền
hành pháp là quyền thực hiện và áp dụng pháp luật, quyền tư pháp là quyền xét xử.
o Tuy nhiên, tính giai cấp của nhà nước cũng có những biến đổi nhất định bởi nó bị
ảnh hưởng nhiều yếu tố khác nhau trong từng kiểu nhà nước. Do vậy, tính giai
cấp ln là thuộc tính thể hiện bảo chất của nhà nước cần được nhận thức một
cách sâu sắc.
o Nhà nước là sản phẩm của xã hội có giai cấp và là biểu hiện của sự khơng thể
điều hồ được các mâu thuẫn của giai cấp đối kháng. Nhà nước là tổ chức quyền
lực chính trị đặc biệt. Để làm rõ bản chất của nhà nước cần phải xác định nhà
nước đó của ai? Do giai cấp nào tổ chức và lãnh đạo? Phục vụ trước tiên cho lợi
ích của giai cấp nào?
o Trong xã hội có đối kháng giai cấp, sự thống trị của giai cấp này đối với giai cấp
khác được thể hiện dưới ba quyền lực: kinh tế, chính trị và tư tưởng.
Trong ba quyền lực, quyền lực kinh tế đóng vai trị chủ đạo, là cơ sở để đảm
bảo cho sự thống trị giai cấp. Quyền lực kinh tế tạo ra cho chủ sở hữu khả
8
TGL101_Bai1_v1.0014103225
Bài 1: Sự hình thành và phát triển của nhà nước
năng bắt những người khác phụ thuộc vào mình về mặt kinh tế. Tuy nhiên,
bản thân quyền lực kinh tế lại khơng có khả năng duy trì quan hệ bóc lột, vì
thế để bảo đảm cho quan hệ bóc lột, giai cấp nắm quyền lực kinh tế phải
thông qua quyền lực chính trị.
o
o
o
TGL101_Bai1_v1.0014103225
Quyền lực chính trị xét về mặt bản chất là bạo lực có tổ chức của một giai cấp
nhằm trấn áp các giai cấp khác trong xã hội. Thông qua nhà nước, giai cấp
thống trị về kinh tế đã trở thành chủ thể của quyền lực chính trị. Nhờ nắm
trong tay nhà nước, giai cấp thống trị đã tổ chức và thực hiện quyền lực chính
trị của mình, hợp pháp hố ý chí của giai cấp mình thành ý chí nhà nước và
như vậy buộc các giai cấp khác phải tuân theo trật tự phù hợp với lợi ích của
giai cấp thống trị. Bằng cách đó giai cấp thống trị đã thực hiện sự chuyên
chính của giai cấp mình đối với các giai cấp khác.
Để thực hiện sự chun chính giai cấp, giai cấp thống trị khơng đơn thuần chỉ
sử dụng bạo lực cưỡng chế mà cịn thơng qua sự tác động về tư tưởng. Chính
vì vậy, khi nắm trong tay quyền lực kinh tế và quyền lực chính trị, giai cấp
thống trị cịn thơng qua nhà nước xây dựng hệ tư tưởng của giai cấp mình
thành hệ tư tưởng thống trị trong xã hội, buộc các giai cấp khác phải lệ thuộc
vào mình về mặt tư tưởng.
Như vậy, nhà nước là công cụ sắc bén thể hiện và thực hiện ý chí của giai cấp
cầm quyền, bảo vệ trước tiên lợi ích của giai cấp thống trị trong xã hội.
Nhà nước, hiểu theo nghĩa pháp luật, là một tổ chức xã hội đặc biệt của quyền lực
chính trị được giai cấp thống trị thành lập nhằm thực hiện quyền lực chính trị của
mình. Nhà nước vì thế mang bản chất giai cấp. Nhà nước xuất hiện kể từ khi xã
hội loài người bị phân chia thành những lực lượng giai cấp đối kháng nhau; nhà
nước là bộ máy do lực lượng nắm quyền thống trị (kinh tế, chính trị, tư tưởng)
thành lập nên, nhằm mục đích điều khiển, chỉ huy toàn bộ hoạt động của xã hội
trong một quốc gia, trong đó chủ yếu để bảo vệ các quyền lợi của lực lượng thống
trị. Thực chất, nhà nước là sản phẩm của cuộc đấu tranh giai cấp. Ăngghen đã
nêu rõ: “bản chất của nhà nước chẳng qua chỉ là một bộ máy trấn áp của một giai
cấp này đối với một giai cấp khác, điều đó trong chế độ cộng hịa dân chủ cũng
hồn tồn giống như trong chế độ quân chủ vậy”. Với tư cách là bộ máy trấn áp
của giai cấp này với giai cấp khác, nhà nước của giai cấp bóc lột là bộ máy được
lập ra nhằm hợp pháp hóa và củng cố sự áp bức của giai cấp đó đối với giai cấp
bị trị và đối với quần chúng nhân dân lao động. Tất cả mọi hoạt động chính trị,
văn hóa, xã hội do nhà nước tiến hành xét đến cùng đều xuất phát từ lợi ích và
nhằm để phục vụ cho lợi ích của giai cấp thống trị.
Các nhà kinh điển của Chủ nghĩa Mác-Lênin đã chỉ ra rằng: nhà nước là một hiện
tượng thuộc kiến trúc thượng tầng trên một cơ sở kinh tế nhất định, đó là cơng cụ
để duy trì sự thống trị của giai cấp này đối với giai cấp khác. Về bản chất giai cấp
của nhà nước, V.I Lênin đã nhận định: “nhà nước là bộ máy để giai cấp này áp
bức giai cấp khác, một bộ máy để duy trì dưới sự thống trị của một giai cấp lên
tất cả các giai cấp bị lệ thuộc khác”.
9
Bài 1: Sự hình thành và phát triển của nhà nước
Tính xã hội
o Tính xã hội là một thuộc tính khách quan phổ
biến của nhà nước. Nhà nước ra đời và tồn tại
trong xã hội bao gồm giai cấp thống trị và các
giai cấp, tầng lớp dân cư khác. Bản thân giai
cấp thống trị chỉ có thể tồn tại trong mối quan
hệ với các giai cấp, tầng lớp dân cư khác. Bởi
vậy, nhà nước ngồi tính chất là một cơng cụ
duy trì sự thống trị và bảo vệ lợi ích của giai
cấp thống trị còn phải là một tổ chức quyền lực công. Quyền lực công là phương
thức tổ chức bảo đảm lợi ích chung của xã hội. Nhà nước phải giải quyết những
vấn đề nảy sinh trong đời sống xã hội, bảo đảm trật tự chung cho xã hội ổn định,
tồn tại và phát triển. Do đó, nhà nước không chỉ bảo vệ quyền lợi của giai cấp
thống trị mà còn bảo vệ quyền lợi của giai tầng khác trong xã hội khi mà lợi ích
đó khơng mâu thuẫn căn bản với lợi ích của giai cấp thống trị.
Nghiên cứu tình huống:
Quan điểm của V.I. Lênin về nhà nước
Tư tưởng về nhà nước có một vị trí đặc biệt quan trọng trong hệ thống lý luận của
V.I.Lênin, bởi nó khơng thuần túy là những lý thuyết khoa học mà gắn bó chặt chẽ với
quan điểm chính trị; nó không đơn giản là những suy tư tinh thần mà gắn liền với những
hoạt động thực tiễn sinh động của ông. Những đóng góp to lớn của V.I.Lênin đối với lý
luận về nhà nước không chỉ ở việc làm sáng tỏ những quan điểm căn bản của C.Mác và
Ph.Ăng-ghen về nhà nước, đem lại vũ khí lý luận sắc bén cho cuộc đấu tranh của giai cấp
công nhân, giành lấy, tổ chức và thực thi quyền lực nhà nước, cũng như đấu tranh chống
lại mọi âm mưu hòng xuyên tạc, bẻ cong và nhằm bác bỏ lý luận mác-xít về nhà nước; mà
còn thể hiện ở việc đi sâu, phát triển lý luận mác-xít về nhà nước trên một số phương diện,
phù hợp với trình độ phát triển mới của thực tiễn.
Nhất quán với tư tưởng của C.Mác và Ph.Ăng-ghen, V.I.Lênin tiếp tục khẳng định rằng, nhà
nước là một hiện tượng lịch sử, sự tồn tại và tiêu vong của nó là tùy thuộc vào những điều
kiện cụ thể; “nhà nước chỉ là một tổ chức thống trị của một giai cấp” và “bất cứ nhà nước
nào cũng là một bộ máy để một giai cấp này trấn áp giai cấp khác”.
Đối với V.I.Lênin, khái niệm “nhà nước” là để chỉ bộ máy nhà nước trong xã hội có giai cấp.
Ông viết: “đặc trưng của nhà nước là sự tồn tại của một giai cấp đặc biệt, tập trung quyền
lực trong tay. Dĩ nhiên, khơng ai có thể dùng hai tiếng nhà nước để gọi một cộng đồng,
trong đó tất cả mọi thành viên đều thay phiên nhau quản lý “tổ chức của trật tự’”. Chính sự
tập trung quyền lực chính trị trong tay một giai cấp đặc biệt là đặc trưng để phân biệt nhà
nước với mọi hình thức tổ chức xã hội khác. V.I.Lênin vạch rõ: “Nếu quyền lực chính trị
trong nước nằm trong tay một giai cấp có quyền lợi phù hợp với quyền lợi của đa số, thì
mới có thể thực hiện việc điều khiển cơng việc quốc gia thực sự theo đúng nguyện vọng
của đa số. Nhưng nếu quyền lực chính trị nằm trong tay một giai cấp có quyền lợi khác với
quyền lợi của đa số, thì việc điều khiển cơng việc quốc gia theo nguyện vọng của đa số
không khỏi trở thành một sự lừa gạt, hoặc đưa đến chỗ đàn áp đa số ấy”. Ơng giải thích:
“Quyền chính trị là gì, nếu không phải là cách diễn đạt, là việc ghi nhận so sánh lực
lượng?”. Đây chính là sự phát triển quan điểm: quyền lực chính trị, theo đúng nghĩa của
nó, là bạo lực có tổ chức của một giai cấp để trấn áp một giai cấp khác của C.Mác và
Ph.Ăng-ghen.
10
TGL101_Bai1_v1.0014103225
Bài 1: Sự hình thành và phát triển của nhà nước
Về bản chất giai cấp của nhà nước, V.I.Lênin khẳng định: “Nhà nước là sản phẩm và biểu
hiện của những mâu thuẫn giai cấp khơng thể điều hịa được. Bất cứ đâu, hễ lúc nào và
chừng nào mà, về mặt khách quan, những mâu thuẫn giai cấp không thể điều hịa được,
thì nhà nước xuất hiện. Và ngược lại: sự tồn tại của nhà nước chứng tỏ rằng những mâu
thuẫn giai cấp là khơng thể điều hịa được”.
Nếu như xã hội đã từng tồn tại khơng cần có nhà nước, thì cùng với sự phát triển của sản
xuất, xã hội lồi người sớm muộn cũng sẽ đạt tới trình độ loại bỏ nhà nước. V.I.Lênin viết:
“Mục đích cuối cùng mà chúng ta theo đuổi, là thủ tiêu nhà nước, nghĩa là thủ tiêu mọi bạo
lực có tổ chức và có hệ thống, mọi bạo lực, nói chung, đối với con người. Chúng ta khơng
mong có một chế độ xã hội mà trong đó nguyên tắc thiểu số phục tùng đa số sẽ không
được tuân theo. Nhưng khi hướng đến chủ nghĩa xã hội, chúng ta tin chắc rằng chủ nghĩa
xã hội sẽ chuyển thành chủ nghĩa cộng sản, và do đó, nói chung sẽ khơng cịn cần thiết
phải dùng bạo lực đối với con người, không cần thiết phải buộc người này phục tùng người
khác, bộ phận dân cư này phục tùng bộ phận dân cư khác, vì người ta sẽ quen tuân theo
những điều kiện thông thường của đời sống tập thể, mà khơng cần có bạo lực và khơng
cần có phục tùng”. Nghĩa là, khi đó nhà nước sẽ tự tiêu vong.
Tuy nhiên, để nhà nước có thể tự tiêu vong, cần có nhiều điều kiện, trong đó, quan trọng
nhất là, nhà nước phải trải qua một hình thức tồn tại đặc biệt của nó: Nhà nước chun
chính vơ sản. Nhưng để có được nhà nước chun chính vô sản, tất yếu phải dùng đến bạo
lực cách mạng. V.I.Lênin chỉ rõ: “Khơng có cách mạng bạo lực thì không thể thay nhà nước
tư sản bằng nhà nước vô sản được. Việc thủ tiêu nhà nước vô sản, nghĩa là việc thủ tiêu
mọi nhà nước, chỉ có thể thực hiện được bằng con đường “tiêu vong” thôi”. Bạo lực cách
mạng là phương thức duy nhất để một giai cấp mới, tiến bộ giành lấy quyền lực chính trị.
Điều đó đúng đối với giai cấp vô sản và hơn thế, với giai cấp vơ sản, bạo lực cách mạng
cịn phải thực hiện một nhiệm vụ quan trọng nữa, đó là đập tan bộ máy nhà nước cũ trước
khi bắt tay xây dựng nhà nước kiểu mới.
Tính chất đặc biệt của nhà nước chun chính vơ sản với tư cách hình thức chuyển tiếp
trước khi đạt đến trạng thái tự tiêu vong của nhà nước được V.I.Lênin làm rõ trong việc
phân tích mối quan hệ biện chứng giữa tính chuyên chính và tính dân chủ của nhà nước.
Trước hết, V.I.Lênin khẳng định, “trong thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa
cộng sản, sự trấn áp vẫn còn tất yếu, nhưng nó đã là sự trấn áp của đa số bị bóc lột đối
với thiểu số bóc lột. Cơ quan đặc biệt, bộ máy trấn áp đặc biệt là “nhà nước” vẫn cịn cần
thiết, nhưng nó đã là nhà nước q độ, mà khơng cịn là nhà nước theo đúng nghĩa của nó
nữa” và nhà nước vơ sản phải là một công cụ, một phương tiện; đồng thời, là một biểu
hiện tập trung trình độ dân chủ của nhân dân lao động. Dân chủ trong xã hội xã hội chủ
nghĩa chính là nhân dân tham gia vào mọi công việc của nhà nước. Người viết: “Điều cần
thiết không phải chỉ là cơ quan đại biểu theo kiểu chế độ dân chủ, mà là toàn bộ việc quản
lý nhà nước từ dưới lên phải do bản thân quần chúng tổ chức, quần chúng thực sự tham
gia vào từng bước của cuộc sống và đóng vai trị tích cực trong việc quản lý”.
V.I.Lênin cho rằng, nếu tính giai cấp là bản chất của mọi nhà nước, thì dân chủ hay chun
chính cũng chỉ là hai mặt của bản chất đó mà thôi. “Bất cứ một nhà nước nào cũng đều có
nghĩa là dùng bạo lực; nhưng tồn bộ sự khác nhau là ở chỗ dùng bạo lực đối với những
người bị bóc lột hay đối với kẻ đi bóc lột, ở chỗ có dùng bạo lực đối với giai cấp những
người lao động và những người bị bóc lột khơng”. Đối với V.I.Lênin: “Chun chính cách
mạng của giai cấp vơ sản là một chính quyền do giai cấp vơ sản giành được và duy trì bằng
bạo lực đối với giai cấp tư sản...”.
Chun chính vơ sản khơng hề đối lập với dân chủ, mà là phần bổ sung, là hình thức thể
hiện của dân chủ. “Chun chính vơ sản, nghĩa là việc tổ chức đội tiền phong của những
người bị áp bức thành giai cấp thống trị để trấn áp bọn áp bức, thì khơng thể giản đơn
đóng khung trong việc mở rộng chế độ dân chủ được. Đồng thời với việc mở rộng rất nhiều
TGL101_Bai1_v1.0014103225
11
Bài 1: Sự hình thành và phát triển của nhà nước
chế độ dân chủ – lần đầu tiên biến thành chế độ dân chủ cho người nghèo, chế độ dân chủ
cho nhân dân chứ không phải cho bọn nhà giàu – chun chính vơ sản cịn thực hành một
loạt biện pháp hạn chế quyền tự do đối với bọn áp bức, bọn bóc lột, bọn tư bản”.
Điều cần quan tâm là, trong xã hội xã hội chủ nghĩa – lực lượng đóng vai trị thống trị
trong xã hội, và vì thế nắm quyền chuyên chính, dân chủ và pháp luật là đại đa số nhân
dân lao động. “Dân chủ cho tuyệt đại đa số nhân dân và trấn áp bằng vũ lực bọn bóc lột,
bọn áp bức nhân dân, nghĩa là tước bỏ dân chủ đối với bọn chúng: đó là sự biến đổi của
chế độ dân chủ trong thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa cộng sản”.
Như vậy, sự phát triển của V.I.Lênin đối với quan điểm của C.Mác và Ph.Ăng-ghen về nhà
nước, điểm quan trọng nhất chính là ở chỗ, đặc tính phổ biến của mọi nhà nước đó là giai
cấp. Như thế, biểu hiện về mặt lịch sử trong suốt quá trình phát triển của xã hội loài người
là mối quan hệ biện chứng của hai mặt chuyên chính và dân chủ. Rõ ràng, trên phương
diện này, nhà nước là một cách thức tổ chức đời sống xã hội, một giai đoạn trong tiến trình
phát triển của xã hội, là một vịng khâu của sự phát triển. Đây chính là quan niệm duy vật
và biện chứng có tính ngun tắc trong việc lý giải đời sống xã hội nói chung, vấn đề nhà
nước nói riêng và gắn liền với những cố gắng to lớn của V.I.Lênin trong sự phát triển chủ
nghĩa Mác.
– dung – nha – nuoc – phap – quyen/2007/1091/Quan
– diem – cua – VI – Lenin – ve – nha – nuoc – va – van – de – xay.aspx
1.3.
Các đặc trưng của nhà nước
Nhà nước xuất hiện dù với bất cứ nguyên nhân nào, với bản chất gì thì đều có những đặc
trưng khác biệt so với tổ chức của xã hội thị tộc, bộ lạc và các tổ chức chính trị xã hội
khác do giai cấp thống trị thiết lập và sử dụng để quản lý xã hội. Vì nhà nước là sản
phẩm của xã hội có giai cấp và là biểu hiện của sự không thể điều hòa được các mâu
thuẫn giai cấp đối kháng. Theo quan điểm của học thuyết Mác-Lênin, nhà nước có năm
đặc trưng cơ bản:
1.3.1. Nhà nước có quyền quản lý dân cư, phân chia lãnh thổ thành các đơn vị
hành chính
Lãnh thổ và dân cư là hai yếu tố căn bản cấu thành nên nhà nước. Nếu như xã hội thị
tộc, bộ lạc quản lý các thành viên của mình theo huyết thống thì nhà nước quản lý tổ
chức dân cư theo các đơn vị hành chính lãnh thổ, khơng phụ thuộc huyết thống, giới
tính, nghề nghiệp.
Mọi nhà nước đều có lãnh thổ riêng để quản lý, chia lãnh thổ của mình thành các đơn
vị hành chính như tỉnh, huyện, xã,… nhằm quản lý một cách chặt chẽ, hệ thống từ
trên xuống dưới.
1.3.2. Nhà nước có quyền lực chính trị công cộng đặc biệt
Khác với các tổ chức khác, nhà nước là tổ chức duy nhất thiết lập một quyền lực
mà chủ thể của nó là giai cấp thống trị về kinh tế, chính trị, tư tưởng trong xã hội.
Trong xã hội cộng sản nguyên thủy đã có quyền lực, nhưng đó là quyền lực xã hội,
do tất cả các thành viên trong xã hội thiết lập và họ tự giác phục tùng, không cần một
bộ máy cưỡng chế nào cả, do đó nó hịa nhập với tồn cư dân. Khi nhà nước ra đời
thì quyền lực xã hội nhường chỗ cho một thứ quyền lực mới – quyền lực nhà nước
của giai cấp thống trị, được đảm bảo thực hiện bằng sức mạnh cưỡng chế của nhà
12
TGL101_Bai1_v1.0014103225
Bài 1: Sự hình thành và phát triển của nhà nước
nước, bởi vậy nó khơng thể hịa nhập hồn tồn với cư dân. Quyền lực này mang tính
chính trị, giai cấp, được thực hiện bởi một bộ máy hùng mạnh nhất bao gồm hệ thống
cơ quan, tổ chức và đội ngũ công chức đông đảo và nhiều loại. Hệ thống bộ máy này
được tổ chức chặt chẽ từ trung ương xuống cơ sở, được vận hành theo những nguyên
tắc, quy định thống nhất và thông suốt. Thông qua bộ máy này địa vị của giai cấp
thống trị được duy trì, buộc các tầng lớp, giai cấp khác phải phục tùng theo ý chí của
mình, ý chí của giai cấp thống trị trở thành ý chí nhà nước thống trị xã hội.
1.3.3.
Nhà nước có chủ quyền quốc gia
Chủ quyền quốc gia thể hiện quyền độc lập tự quyết của nhà nước về những chính
sách đối nội và đối ngoại khơng phụ thuộc vào các yếu tố bên ngoài. Chủ quyền quốc
gia là thuộc tính gắn liền với nhà nước, dân tộc.
Tính tối cao của chủ quyền nhà nước thể hiện ở chỗ chỉ có quyền lực của nhà nước
được trao quyền và có trách nhiệm về tuyên bố, thực hiện và bảo vệ chủ quyền
quốc gia.
Dấu hiệu chủ quyền nhà nước thể hiện sự độc lập, bình đẳng giữa các quốc gia, dân
tộc dù đó là quốc gia, dân tộc lớn hay nhỏ.
1.3.4. Nhà nước có quyền xây dựng, sáng tạo pháp luật
Pháp luật là công cụ hỗ trợ giúp nhà nước tổ chức và quản lý xã hội. Nhà nước là tổ
chức duy nhất có quyền ban hành pháp luật và bảo đảm thực hiện bằng sức mạnh
cưỡng chế.
Thông qua pháp luật, mọi cá nhân, cơ quan, tổ chức phải tuân thủ và bảo vệ pháp luật.
1.3.5. Nhà nước có quyền ban hành các sắc thuế và thu thuế
Để nuôi dưỡng bộ máy nhà nước, nhà nước phải
đặt ra các loại thuế.
Chỉ có nhà nước mới có quyền quy định việc thu
thuế nhằm đảm bảo cho sự phát triển kinh tế, văn
hóa, xã hội, an ninh, quốc phịng và giải quyết
các cơng việc chung của toàn xã hội.
1.4.
Chức năng của nhà nước
Chức năng của nhà nước là những phương diện
hoạt động cơ bản của nhà nước, nhằm thực hiện
những nhiệm vụ đặt ra trước nhà nước.
Thuế khóa – nguồn thu chính của
nhà nước – họa phẩm tranh sơn
dầu về cảnh thu thuế
Chức năng của nhà nước được xác định từ bản chất, vai trò của nhà nước trong đời
sống xã hội và ngược lại các chức năng nhà nước là sự biểu hiện cụ thể của bản chất
và vai trò của nhà nước. Chính vì vậy, các chức năng của nhà nước được quy định
một cách khách quan bởi cơ sở kinh tế và xã hội của nhà nước.
Các chức năng của nhà nước ln có mối quan hệ gắn bó với nhau tạo thành một thể
thống nhất.
TGL101_Bai1_v1.0014103225
13
Bài 1: Sự hình thành và phát triển của nhà nước
Có nhiều cách phân loại chức năng nhà nước như chức năng lập pháp, chức năng
hành pháp, chức năng tư pháp hoặc chức năng cơ bản và chức năng không cơ bản
hoặc chức năng lâu dài và chức năng tạm thời. Nhưng cách phổ biến nhất là căn cứ
vào đối tượng tác động của chức năng nhà nước mà phân loại chức năng nhà nước
thành chức năng đối nội và chức năng đối ngoại. Bởi thực tế khách quan của tình
hình chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội trong nước và quốc tế trong từng thời kỳ lịch
sử cụ thể là tiền đề xác lập nên chức năng của nhà nước. Hai chức năng chính này
của nhà nước có mối quan hệ mật thiết với nhau. Các chức năng đối ngoại xuất phát
từ chức năng đối nội và phục vụ cho chức năng đối nội, còn ngược lại nếu thực hiện
tốt chức năng đối nội sẽ có thuận lợi trong việc thực hiện chức năng đối ngoại.
1.4.1. Chức năng đối nội
Đây là chức năng chủ yếu của nhà nước, vì chức năng này trực tiếp tác động vào điều
kiện tồn tại, phát triển của một chế độ xã hội của một quốc gia. Hay nói cách khác, chức
năng đối nội là những mặt hoạt động chủ yếu của nhà nước trong nội bộ đất nước như
bảo vệ chế độ chính trị, chế độ kinh tế, văn hố – xã hội, trấn áp các phần tử chống đối
chế độ, giữ gìn trật tự xã hội, gồm:
Chức năng chính trị: Nội dung chủ yếu của nhà nước là bảo vệ chủ quyền quốc gia,
bảo đảm an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội, trấn áp các phần từ chống đối chế
độ, xâm phạm quyền tự do dân chủ và lợi ích hợp pháp của cơng dân.
Chế độ xã hội: Nhà nước có vai trị tác động vào xã hội nhằm bảo đảm sự ổn định
và phát triển xã hội, đề ra các chính sách pháp luật và tạo điều kiện phát triển văn
hóa, giáo dục, y tế, lao động và việc làm, xóa đói giảm nghèo, bảo hiểm, cứu trợ xã
hội, phòng chống thiên tai, tệ nạn xã hội,….
Chế độ kinh tế: Mục tiêu quan trọng của nhà nước chính là xác lập và bảo vệ chế độ
kinh tế phù hợp với bản chất của nhà nước cũng như ban hành các chính sách, kế
hoạch về phát triển kinh tế của đất nước, tạo điều kiện cho các chủ thể kinh tế tiến
hành sản xuất kinh doanh,…
Chế độ bảo đảm trật tự xã hội: Đây là chức năng thể hiện mối quan hệ giữa nhà
nước và pháp luật. Nội dung chủ yếu của chức năng này là ban hành và xây dựng hệ
thống pháp luật phù hợp với yêu cầu của xã hội, bảo đảm các quyền và lợi ích chính
đáng của cơng dân cũng như hình thành các thiết chế để đảm bảo cho việc thực thi
pháp luật trong xã hội.
1.4.2. Chức năng đối ngoại
Chức năng đối ngoại thể hiện vai trò của nhà nước trong quan hệ với các nước, các dân
tộc trên thế giới như chống xâm lược từ bên ngoài, thiết lập mối quan hệ ngoại giao hợp
tác quốc tế bằng cách tham gia các hoạt động quốc tế vì lợi ích chung của cộng đồng
như bảo vệ mơi trường, chống khủng bố, cứu trợ quốc tế,...
1.5.
Bộ máy của nhà nước
1.5.1. Khái niệm
Bộ máy nhà nước là một yếu tố quan trọng của nhà nước. Nhờ có bộ máy nhà nước,
quyền lực nhà nước được thể hiện và phát huy hiệu lực, chức năng nhà nước được triển
khai, các mục tiêu, nhiệm vụ được thực hiện. Vì vậy, bộ máy nhà nước là hệ thống các
14
TGL101_Bai1_v1.0014103225
Bài 1: Sự hình thành và phát triển của nhà nước
cơ quan nhà nước, tổ chức và hoạt động theo những nguyên tắc chung thống nhất tạo
thành một cơ chế đồng bộ, thống nhất để thực hiện các nhiệm vụ và chức năng của nhà
nước. Vì vậy, cơ quan nhà nước khác với các cơ quan, tổ chức phi nhà nước những điểm
cơ bản sau:
Cơ quan nhà nước được thành lập theo ý chí nhà nước và được quyền nhân danh nhà
nước thực hiện quyền lực nhà nước.
Mỗi cơ quan nhà nước có địa vị pháp lý nhất định trong bộ máy nhà nước. Giới hạn
thẩm quyền của cơ quan nhà nước là giới hạn mang tính pháp lý vì được pháp luật
quy định.
Cơ quan nhà nước chỉ được hoạt động trong phạm vi thẩm quyền của mình và trong
phạm vi đó, nó hoạt động độc lập, chủ động và chịu trách nhiệm về hoạt động của
mình. Bên cạnh quyền được thực hiện quyền lực nhà nước thì khi cơ quan nhà nước
khơng thực hiện các quyền của mình hoặc từ chối thực hiện quyền và nghĩa vụ theo
quy định thì vi phạm pháp luật và phải chịu trách nhiệm trước pháp luật.
1.5.2. Cơ cấu của bộ máy nhà nước
Xuất phát từ tính chất, vai trị, vị trí của nhà nước, bộ máy nhà nước có hệ thống cơ
quan được bố trí rộng khắp từ trung ương xuống địa phương với đội ngũ công chức
và nhân viên hết sức đông đảo. Nhưng thông thường, bộ máy nhà nước nói chung
gồm ba loại cơ quan: cơ quan lập pháp, cơ quan hành pháp và cơ quan tư pháp. Ba
cơ quan này có mối liên hệ ràng buộc qua lại với nhau, vận hành theo một cơ chế
đồng bộ, thống nhất.
Các loại hình bộ máy nhà nước khác nhau có nguyên tắc tổ chức và hoạt động khác
nhau. Bộ máy nhà nước tư sản thường được tổ chức và hoạt động theo nguyên tắc
phân lập các quyền, quyền tư pháp, hành pháp, lập pháp độc lập nhau. Còn bộ máy
nhà nước xã hội chủ nghĩa được tổ chức theo nguyên tắc quyền lực nhà nước là
thống nhất, nhưng có sự phân cơng chức năng, phân định thẩm quyền rành mạch và
có sự phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện quyền lực lập pháp,
hành pháp và tư pháp. Đồng thời trong bộ máy xã hội chủ nghĩa cũng tạo ra một cơ
chế kiểm tra, giám sát lẫn nhau giữa các cơ quan nhà nước nhằm đảm bảo pháp chế
và kỷ luật trong quản lý nhà nước.
1.6.
Hình thức nhà nước
Hình thức nhà nước là một vấn đề rất có ý nghĩa. Bởi kết quả của sự thống trị về mặt
chính trị phụ thuộc phần lớn vào việc giai cấp thống trị đã tổ chức và thực hiện quyền
lực nhà nước theo hình thức nào. Hình thức nhà nước là cách tổ chức quyền lực nhà
nước và những phương pháp để tổ chức và thực hiện quyền lực nhà nước. Hình thức nhà
nước là khái niệm chung được hình thành từ ba yếu tố cụ thể: Hình thức chính thể, hình
thức cấu trúc nhà nước và chế độ chính trị.
1.6.1. Hình thức chính thể
Hình thức chính thể là cách tổ chức, trình tự thành lập và quan hệ giữa các cơ quan
quyền lực nhà nước tối cao cũng như mức độ tham gia của nhân dân vào việc thiết lập
các cơ quan này. Hình thức chính thể có hai dạng cơ bản là chính thể qn chủ và chính
thể cộng hịa.
TGL101_Bai1_v1.0014103225
15
Bài 1: Sự hình thành và phát triển của nhà nước
Chính thế quân chủ
o Chính thể quân chủ là hình thức trong đó quyền lực tối cao của nhà nước tập
trung toàn bộ hay một phần trong tay người đứng đầu nhà nước theo nguyên tắc
thừa kế (Quốc Vương, Sa Hồng, Vua).
o Trong chính thể qn chủ được chia thành chính thể quân chủ tuyệt đối và chính
thể quân chủ hạn chế.
Đối với chính thể quân chủ tuyệt đối thì người đứng đầu nhà nước có quyền
lực vơ hạn, như Vua trong nhà nước phong kiến trước đây.
Trong nhà nước chính thể quân chủ hạn chế, người đứng đầu nhà nước chỉ
nắm một phần quyền lực nhà nước tối cao, bên cạnh đó cịn một cơ quan
quyền lực khác như nghị viện trong các nhà nước tư sản có chính thể qn
chủ. Hiện nay trên thế giới, Anh, Nhật, Hà Lan,.. là những nước có hình thức
chính thể quân chủ đại nghị. Ở những nước này, Nguyên thủ (Vua) tồn tại
mang tính hình thức và truyền thống. Quyền lực nhà vua không ảnh hưởng
trong lập pháp và trong hành pháp cũng bị hạn chế nhiều, chính phủ đứng đầu
là Thủ tướng có quyền lực lớn.
Chính thể cộng hịa
o Là hình thức trong đó quyền lực tối cao của nhà nước được thực hiện bởi những
cơ quan đại diện được bầu theo một thời kỳ nhất định.
o Chính thể cộng hịa cũng được chia thành cộng hịa dân chủ và cộng hòa quý tộc.
Đối với các nhà nước có chính thể cộng hịa dân chủ, quyền tham gia bầu cử
để lập ra cơ quan đại diện quyền lực nhà nước được quy định cho tất cả các
tầng lớp nhân dân. Nhưng trên thực tế, giai cấp thống trị của các nước bóc lột
thường đặt ra nhiều quy định để hạn chế quyền bầu cử của nhân dân lao động.
Trong các nước có hình thức chính thể cộng hịa q tộc thì quyền bầu cử
được quy định cho các tầng lớp quý tộc.
Trong mỗi giai đoạn lịch sử phát triển, ở các nhà nước khác nhau do nhiều yếu tố tác
động như mối tương quan giữa các giai cấp, truyền thống dân tộc,… mà hình thức
chính thể của chúng có những điểm khác biệt. Do vậy, khi nghiên cứu hình thức
chính thể của một nhà nước cần xem xét các điều kiện lịch sử cụ thể của nhà
nước đó.
1.6.2. Hình thức cấu trúc nhà nước
Hình thức cấu trúc nhà nước được hiểu là cơ cấu hành chính – lãnh thổ của nhà nước,
đặc điểm của mối quan hệ qua lại giữa các bộ phận hành chính – lãnh thổ của nhà nước,
giữa các cơ quan nhà nước, giữa trung ương và địa phương. Có hai hình thức cấu trúc
nhà nước cơ bản: nhà nước đơn nhất và nhà nước liên bang.
Hình thức cấu trúc nhà nước đơn nhất
o Là hình thức trong đó lãnh thổ quốc gia được chia thành các đơn vị hành chính
lãnh thổ (như tỉnh, thành phố, huyện, xã, phường) và có những cơ quan quyền lực
quản lý thống nhất từ trung ương đến địa phương. Ví dụ như Việt Nam, Lào,
Pháp, Trung Quốc,… là các nhà nước đơn nhất.
o Ở các nhà nước đơn nhất, các bộ phận hành chính lãnh thổ khơng có chủ quyền
quốc gia.
16
TGL101_Bai1_v1.0014103225
Bài 1: Sự hình thành và phát triển của nhà nước
Hình thức cấu trúc nhà nước liên bang
Là nhà nước của hai hoặc nhiều quốc gia hợp lại. Nhà nước liên bang có hai
hoặc nhiều hệ thống cơ quan quyền lực và quản lý, có hai hay nhiều hệ thống
pháp luật: một hệ thống chung cho toàn liên bang và một hệ thống cho mỗi nước
thành viên.
o
Nhà nước có cấu trúc liên bang có chủ quyền quốc gia chung cho nhà nước liên
bang và mỗi nước thành viên có chủ quyền riêng. Ví dụ như Mỹ, Nga, Ấn Độ,…
o
Cần phân biệt nhà nước liên bang và nhà nước liên minh. Nhà nước liên minh là
sự liên kết tạm thời của các nhà nước với nhau nhằm thực hiện một số mục đích
nhất định. Và sau khi đạt được các mục đích đó, nhà nước liên minh có thể tự tan
rã và có thể phát triển thành nhà nước liên bang. Ví dụ như Mỹ từ 1776 đến 1787
là nhà nước liên mình sau trở thành nhà nước liên bang.
o
1.6.3. Chế độ chính trị
Chế độ chính trị là tổng thể những phương pháp, những biện pháp mà các cơ quan
nhà nước sử dụng để thực hiện quyền lực nhà nước. Trong lịch sử xã hội có giai cấp,
các giai cấp thống trị đã sử dụng nhiều phương pháp, biện pháp để thực hiện quyền
lực nhà nước.
Nhìn chung những phương pháp, biện pháp này được phân ra hai loại chính: phương
pháp, biện pháp dân chủ và phương pháp, biện pháp phản dân chủ.
Các phương pháp dân chủ: cũng có nhiều dạng thức như dân chủ thực sự và dân
chủ giả hiệu, rộng rãi và hạn chế, trực tiếp và đại diện,…Chế độ dân chủ xã hội
chủ nghĩa được đặc trưng bởi sự sử dụng các hình thức dân chủ thực sự, rộng rãi.
Chế độ dân chủ tư sản đặc trưng bởi sự hiện diện các phương pháp dân chủ hình thức.
o
Các phương pháp phản dân chủ: thể hiện tính độc tài, cực quyền và có nhiều
dạng. Đáng chú ý là phương pháp này phát triển đến mức độ cao trở thành
phương pháp tàn bạo, quân phiệt và phát xít.
o
Nhận xét
Hình thức chính thể, hình thức cấu trúc nhà nước ln có liên quan mật thiết với
chế độ chính trị. Ba yếu tố này có tác động qua lại lẫn nhau tạo thành khái niệm
hình thức nhà nước, phản ánh bản chất và nội dung của nhà nước. Nhưng trong
một số trường hợp, ba yếu tố này lại không phù hợp với nhau như chế độ chính trị
phát xít, quân phiệt có thể có hình thức chính thể cộng hịa dân chủ.
Tóm lại, hình thức nhà nước là sự kết hợp của ba yếu tố: hình thức chính thể, hình
thức cấu trúc nhà nước và chế độ chính trị. Các hình thức nhà nước trong lịch sử
rất đa dạng và điều đó được lý giải bởi hàng loạt các điều kiện kinh tế, chính trị,
xã hội, văn hóa.
1.7.
Kiểu nhà nước
1.7.1. Khái niệm
Kiểu nhà nước là một trong những khái niệm cơ bản của khoa học lý luận chung về
nhà nước và pháp luật.
TGL101_Bai1_v1.0014103225
17
Bài 1: Sự hình thành và phát triển của nhà nước
Kiểu nhà nước là tổng thể các dấu hiệu cơ bản, đặc thù của nhà nước, thể hiện bản
chất của nhà nước và những điều kiện tồn tại và phát triển của nhà nước trong một
hình thái kinh tế – xã hội nhất định. Như vậy, khái niệm kiểu nhà nước có ý nghĩa
đặc biệt quan trọng cho phép nhận biết các đặc điểm, đặc thù, đặc trưng chung cho
mọi nhà nước, do chế độ kinh tế của xã hội quyết định. Thông qua khái niệm kiểu
nhà nước thấy được bản chất giai cấp của nhà nước, bởi khái niệm kiểu nhà nước chỉ
ra rằng nhà nước ấy là cơng cụ của giai cấp nào, nó thể hiện nền chuyên chính của ai.
Các học giả tư sản phân chia nhà nước thành hai loại là nhà nước tự do và nhà nước
độc tài. Phân chia như vậy nhằm mục đích là che đậy bản chất giai cấp của bộ máy
nhà nước.
Học thuyết Mác-Lênin về hình thái kinh tế – xã hội là cơ sở khoa học để phân chia
các nhà nước trong lịch sử thành các kiểu. Các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác-Lênin đã
coi sự thay thế một hình thái kinh tế – xã hội này bằng một hình thái kinh tế – xã hội
khác là quá trình lịch sử tự nhiên. Trong lịch sử nhân loại từ khi xuất hiện xã hội có
giai cấp đã tồn tại bốn hình thái kinh tế – xã hội: Chiếm hữu nô lệ, Phong kiến, Tư
sản và xã hội chủ nghĩa. Tương ứng với bốn hình thái kinh tế xã hội đó, có bốn kiểu
nhà nước, đó là
o Kiểu nhà nước chủ nô
o Kiểu nhà nước phong kiến
o Kiểu nhà nước tư sản
o Kiểu nhà nước xã hội chủ nghĩa
Các kiểu nhà nước: chủ nô, phong kiến và tư sản tuy có những đặc điểm riêng về bản
chất, chức năng, vai trò xã hội nhưng đều là nhà nước bóc lột được xây dựng trên nền
tảng của chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất, là công cụ để duy trì và bảo vệ sự thống
trị của giai cấp bóc lột đối với đơng đảo nhân dân lao động trong xã hội, là nhà nước
của thiểu số giai cấp bóc lột. Nhà nước xã hội chủ nghĩa là kiểu nhà nước mới và là
kiểu nhà nước cuối cùng trong lịch sử xã hội lồi người, có sứ mệnh lịch sử là hạn
chế dần và đi đến xoá bỏ chế độ bóc lột giữa người với người, là nhà nước của đông
đảo nhân dân lao động trong xã hội, tiến tới xây dựng một xã hội công bằng, bình
đẳng khơng có áp bức, bóc lột.
Khái niệm kiểu nhà nước thể hiện sự thống nhất các đặc trưng cơ bản của các nhà
nước có cùng chung bản chất giai cấp và vai trò xã hội cũng như điều kiện tồn tại
tương tự của chúng.
Tóm lại: kiểu nhà nước là tổng thể các đặc trưng (dấu hiệu) cơ bản của nhà nước, thể
hiện bản chất giai cấp, vai trò xã hội và những điều kiện phát triển của nhà nước
trong một hình thái kinh tế – xã hội nhất định.
1.7.2. Sự thay thế các kiểu nhà nước
Tính tất yếu khách quan của sự thay thế kiểu nhà nước bằng kiểu nhà nước khác
trong kiến trúc thượng tầng chính trị – pháp lý là một biểu hiện quan trọng của quy
luật phát triển và thay thế các hình thái kinh tế – xã hội do C.Mác và Ph.Ăngghen
phát hiện.
Quy luật này gắn liền với quy luật phát triển và thay thế của kiểu nhà nước bằng kiểu
nhà nước khác: “tới một giai đoạn phát triển nào đó của chúng, các lực lượng sản
xuất vật chất của xã hội sẽ mâu thuẫn với những quan hệ sản xuất hiện có, là biểu
18
TGL101_Bai1_v1.0014103225
Bài 1: Sự hình thành và phát triển của nhà nước
hiện pháp lý của những quan hệ sản xuất, mâu thuẫn với những quan hệ sở hữu,
trong đó từ trước đến nay các lực lượng sản xuất vẫn phát triển. “Từ chỗ là những
hình thức phát triển của các lực lượng sản xuất, những quan hệ ấy trở thành những
xiềng xích của lực lượng sản xuất. Khi đó bắt đầu một thời đại của một cuộc cách
mạng xã hội. Cơ sở kinh tế thay đổi thì tất cả các kiến trúc thượng tầng đồ sộ cũng bị
đảo lộn ít nhiều nhanh chóng”.
Kiểu nhà nước cũ bị thay thế bằng một kiểu nhà nước mới thông qua một cuộc cách
mạng xã hội, bởi lẽ giai cấp thống trị cũ đại diện cho quan hệ sản xuất cũ không bao
giờ tự nguyện rời bỏ những đặc quyền, đặc lợi mà mình đang có, vì thế giai cấp đại
diện cho phương thức sản xuất mới tiến bộ phải tập trung lực lượng tiến hành cách
mạng xã hội đấu tranh với các giai cấp thống trị trước đó. Kiểu nhà nước mới ra đời
nghĩa là quyền lực nhà nước đã chuyển giao từ tay giai cấp này qua tay giai cấp khác,
và do vậy bản chất, vai trò xã hội của nhà nước mới cũng thay đổi so với nhà nước
cũ trước đó.
Kiểu nhà nước mới theo quy luật bao giờ cũng tiến bộ hơn so với kiểu nhà nước cũ
bởi nó được xây dựng trên một phương thức mới tiến bộ hơn.
Sự thay thế kiểu nhà nước cũ bằng một kiểu nhà nước mới không phải đều diễn ra
giống nhau ở mọi nơi, không diễn ra tuần tự, hết kiểu nhà nước này rồi đến kiểu nhà
nước khác, mà có thể bỏ qua những kiểu nhà nước nhất định. Điều này do nhiều yếu
tố như: hoàn cảnh lịch sử cụ thể của mỗi quốc gia, bối cảnh quốc tế... chẳng hạn như
nước ta đi lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa, vì thế
kiểu nhà nước tư sản không tồn tại ở Việt Nam.
TGL101_Bai1_v1.0014103225
19
Bài 1: Sự hình thành và phát triển của nhà nước
TÓM LƯỢC CUỐI BÀI
20
Qua bài này, chúng ta đã biết được các học thuyết đã lý giải sự xuất hiện nhà nước như thế
nào. Nhưng dù được lý giải theo cách nào thì nhà nước chính là sản phẩm của cuộc đấu tranh
giai cấp.
Trên cơ sở nắm bắt được lịch sử hình thành nhà nước mà chúng ta hiểu rõ bản chất của nhà
nước luôn tồn tại song song hai thuộc tính, đó là tính giai cấp và tính xã hội ở bất kỳ nhà
nước nào. Nhưng mức độ thể hiện hai thuộc tính đó ở mỗi nhà nước lại khác nhau tùy thuộc
vào điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội,…
Từ đó, đưa ra 5 đặc trưng cơ bản phân biệt nhà nước với các tổ chức khác, đó là: Có quyền
quản lý dân cư và phân chia lãnh thổ thành các đơn vị hành chính, có quyền lực chính trị
cơng cộng, có chủ quyền quốc gia, có quyền ban hành pháp luật và có quyền ban hành chính
sách thuế.
Trong bài này, cũng giới thiệu một cách cơ bản về chức năng của nhà nước gồm 2 chức năng
chính là đối nội và đối ngoại cũng như chỉ ra được sự khác biệt cơ bản giữa giữa cơ quan nhà
nước (bộ máy nhà nước) với các cơ quan, tổ chức phi nhà nước.
Liên quan tới hình thức nhà nước, bài này cũng giới thiệu một cách khái quát các yếu tố cấu
thành nên hình thức nhà nước gồm Hình thức chính thể, Hình thức cấu trúc nhà nước và Chế
độ chính trị.
Cuối cùng, chỉ ra 4 kiểu nhà nước đặc trưng gồm nhà nước chủ nô, nhà nước phong kiến, nhà
nước tư sản và nhà nước XHCN sẽ được học cụ thể trong chương tiếp theo.
TGL101_Bai1_v1.0014103225
Bài 1: Sự hình thành và phát triển của nhà nước
CÂU HỎI ƠN TẬP
1. Trình bày định nghĩa nhà nước.
2. Trình bày điểm khác biệt cơ bản giữa nhà nước với tổ chức phi nhà nước.
3. Trình bày các đặc trưng của nhà nước.
4. Trình bày kiểu nhà nước theo quan điểm của chủ nghĩa Mac – Lênin .
5. Trình bày tính xã hội của nhà nước.
6. Trình bày tính giai cấp của nhà nước.
7. Trình bày khái niệm bộ máy nhà nước.
8. Trình bày chức năng của nhà nước (định nghĩa, phân loại, hình thức và phương pháp thực hiện).
9. Trình bày khái nệm chế độ chính trị của nhà nước.
10. Trình bày khái niệm hình thức chính thể? Cho ví dụ về từng loại chính thể.
11. Trình bày khái niệm hình thức cấu trúc nhà nước? Cho ví dụ.
BÀI TẬP
1. Theo anh chị yếu tố nào trong hình thức nhà nước là yếu tố quyết định phản ánh rõ nét nhất
bản chất nhà nước?
2. Phân tích mối quan hệ giữa tính giai cấp và tính xã hội trong bản chất nhà nước?
3. Phân tích nguyên nhân xuất hiện nhà nước theo quan điểm của chủ nghĩa Mac – Lênin ?
4. Chỉ ra sự khác biệt giữa nhà nước với các thiết chế chính trị khác trong xã hội?
5. Phân tích điểm khác biệt giữa nhà nước đơn nhất và nhà nước liên bang?
TGL101_Bai1_v1.0014103225
21
Bài 1: Sự hình thành và phát triển của nhà nước
THUẬT NGỮ
B
Bộ máy nhà nước
Là hệ thống các cơ quan nhà nước, tổ chức
và hoạt động theo những nguyên tắc chung
thống nhất tạo thành một cơ chế đồng bộ,
thống nhất để thực hiện các nhiệm vụ và
chức năng của nhà nước.
C
Chức năng của nhà nước
Là những phương diện hoạt động cơ bản của
nhà nước, nhằm thực hiện những nhiệm vụ
đặt ra trước nhà nước.
Chế độ chính trị
Là tổng thể những phương pháp, những biện
pháp mà các cơ quan nhà nước sử dụng để
thực hiện quyền lực nhà nước.
Chức năng đối nội
Là những mặt hoạt động chủ yếu của nhà
nước trong nội bộ đất nước.
Chức năng đối ngoại
Là những hoạt động cơ bản của đất nước với
các quốc gia khác, dân tộc khác.
Chính thể qn chủ
Là hình thức trong đó quyền lực tối cao của
nhà nước tập trung toàn bộ hay một phần
trong tay người đứng đầu nhà nước theo
nguyên tắc thừa kế.
Chính thể cộng hịa
Là hình thức trong đó quyền lực tối cao của
nhà nước được thực hiện bởi những cơ quan
địa diện được bầu theo một thời kỳ nhất định.
H
Hình thức nhà nước
Hình thức chính thể
Là sự tổ chức những cơ quan tối cao của nhà
nước, cơ cấu và trình tự thiết lập những cơ
quan ấy, mối quan hệ qua lại của chúng với
nhân dân và mức độ tham gia của nhân dân
vào quá trình hình thành những cơ quan đó.
Hình thức cấu trúc nhà nước
Là cơ cấu hành chính – lãnh thổ của nhà
nước, đặc điểm của mối quan hệ qua lại giữa
các bộ phận hành chính – lãnh thổ của nhà
nước, giữa các cơ quan nhà nước, giữa trung
ương và địa phương.
Hình thức cấu trúc nhà nước đơn nhất
Là hình thức trong đó lãnh thổ quốc gia
được chia thành các đơn vị hành chính lãnh
thổ và có những cơ quan quyền lực quản lý
thống nhất từ trung ương đến địa phương.
Hình thức cấu trúc nhà nước liên bang
Là nhà nước của hai hoặc nhiều quốc gia
hợp lại.
K
Kiểu nhà nước
Là tổng thể các dấu hiệu cơ bản, đặc thù của
nhà nước, thể hiện bản chất của nhà nước và
những điều kiện tồn tại và phát triển của nhà
nước trong một hình thái kinh tế – xã hội
nhất định.
N
Nhà nước
Là một tổ chức đặc biệt có bộ máy chuyên
cưỡng chế và quản lý đặc biệt nhằm duy trì
trật tự XH, thực hiện những mục đích của
nhà nước, và bảo vệ lợi ích của giai cấp
thống trị trong xã hội.
Là cách thức tổ chức và thiết chế quyền lực
nhà nước và những biện pháp để thực hiện
quyền lực ấy.
22
TGL101_Bai1_v1.0014103225
Bài 1: Sự hình thành và phát triển của nhà nước
TGL101_Bai1_v1.0014103225
23