Tải bản đầy đủ (.pdf) (65 trang)

Luận văn tốt nghiệp giáo dục gia đình của người công giáo ở việt nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (645.85 KB, 65 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN, ĐHQGHN

KHOA TRIẾT HỌC
------------

PHAN THỊ YẾN

GIÁO DỤC GIA ĐÌNH CỦA NGƢỜI CƠNG GIÁO
Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

KHĨA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
NGÀNH TRIẾT HỌC
Hệ đào tạo: Chính quy
Khóa học: QH-2016-X

HÀ NỘI, 2020


TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN, ĐHQGHN

KHOA TRIẾT HỌC
------------

PHAN THỊ YẾN

GIÁO DỤC GIA ĐÌNH CỦA NGƢỜI CƠNG GIÁO
Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

KHĨA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
NGÀNH TRIẾT HỌC
Hệ đào tạo: Chính quy


Khóa học: QH-2016-X
Người hướng dẫn: TS. Hà Thị Bắc

HÀ NỘI, 2020


MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN ......................................................................................................5
LỜI CẢM ƠN ............................................................................................................6
DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU VÀ CHỮ VIẾT TẮT .............................................7
MỞ ĐẦU ....................................................................................................................1
Chƣơng 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ GIÁO DỤC GIA ĐÌNH VÀ GIA
ĐÌNH CƠNG GIÁO ..................................................................................................4
1.1.

Khái qt về giáo dục gia đình. ........................................................................4

1.1.1.

Một số khái niệm cơ bản ...............................................................................4

1.1.2.

Vai trị và nội dung của giáo dục gia đình .....................................................6

1.2. Gia đình Cơng giáo ............................................................................................13
1.2.1. Khái qt về gia đình cơng giáo ......................................................................13
1.2.2. Đặc điểm của gia đình người Cơng giáo. ........................................................15
1.2.3. Giá trị của gia đình người Cơng giáo. .............................................................18
Tiểu kết chương 1......................................................................................................23

Chƣơng 2: VAI TRÒ VÀ NỘI DUNG GIÁO DỤC GIA ĐÌNH CỦA NGƢỜI
CƠNG GIÁO Ở VIỆT NAM HIỆN NAY. ............................................................24
2.1. Vai trị giáo dục gia đình của người Cơng giáo .................................................24
2.1.1 Giáo dục gia đình người Cơng giáo góp phần hình thành và phát triển nhân
cách cho thế hệ trẻ .....................................................................................................25
2.1.2. Duy trì tín ngưỡng tơn giáo, bảo lưu và phát huy các giá trị văn hóa truyền
thống ..........................................................................................................................27
2.2. Nội dung cơ bản trong giáo dục gia đình của người Cơng giáo ........................29
2.2.1. Giáo dục đức tin tín ngưỡng ...........................................................................29
2.1.2. Giáo dục đạo đức.............................................................................................32
2.1.3. Giáo dục trí thức..............................................................................................38
2.1.4. Giáo dục thể chất và thẩm mỹ .........................................................................40
2.1.5. Giáo dục giới tính, tình u và hơn nhân ........................................................41
2.2. Những vấn đề đặt ra và một số giải pháp nhằm nâng cao vai trị giáo dục gia
đình của người Cơng giáo ở Việt Nam hiện nay.......................................................44
2.2.1. Những vấn đề đặt ra trong giáo dục gia đình của người Cơng giáo hiện nay.44


2.2.2. Một số giải pháp nhằm nâng cao vai trò giáo dục gia đình của người Cơng
giáo ............................................................................................................................50
Tiểu kết chương 2......................................................................................................53
KẾT LUẬN ..............................................................................................................55
TÀI LIỆU THAM KHẢO ......................................................................................57


LỜI CAM ĐOAN
Tơi xin cam đoan khóa luận này là kết quả nghiên cứu của riêng tôi dưới
sự hướng dẫn của TS. Hà Thị Bắc. Các tư liệu, tài liệu được sử dụng trong
luận án là trung thực, khách quan và có nguồn gốc rõ ràng.
Hà Nội, ngày 03 tháng 6 năm 2020

Sinh viên

Phan Thị Yến


LỜI CẢM ƠN

Xin trân trọng cảm ơn các Thầy, Cô giáo khoa Triết học – trường Đại học
Khoa học xã hội và Nhân văn - những người thầy đã dạy dỗ tôi trong bốn năm
đại học
Và hơn hết, tôi muốn gửi lời cảm ơn chân thành đến TS. Hà Thị Bắc,
người thầy đã ln hướng dẫn tơi trong q trình làm nghiên cứu khóa luận.
Mặc dù tơi đã có nhiều cố gắng song khóa luận vẫn cịn có những thiếu
sót. Vì vậy tơi rất mong nhận được những đóng góp q báu của q thầy cơ
và các bạn để khóa luận của tơi được hồn thiện hơn.
Tơi xin chân thành cảm ơn!

Sinh viên

Phan Thị Yến


DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU VÀ CHỮ VIẾT TẮT

Đnl

Bài trích sách Đệ Nhị Luật.

Ga


Tin mừng theo thánh Gio-an.

GLCG

Giáo Luật Công giáo.



Tơng huấn về Gia Đình của Đức Giáo hồng Gioan
Phaolơ II, 1981

Ep

Thư gửi tín hữu của Ê-phê-xơ

Lv

Sách Lê Vi (sách Cựu Ước)

Mc

Tin mừng theo thánh Mac-cơ

Rm

Trích thư gửi tín tơng đồ của thánh Rơ- ma

Xh

Bài trích sách Xuất Hành.



MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Hiện nay, hơn nhân chính là điều kiện đầu tiên cần thiết cho sự thiết lập
một gia đình và với người dân Cơng giáo cũng vậy, con người sống không thể
tách rời gia đình và gia đình hay giáo dục gia đình ln in dấu ấn đậm nét
nhất trong cuộc đời của mỗi con người bởi gia đình có vai trị trực tiếp tới sự
hình thành thể lực, trí lực và nhân cách, văn hóa của mỗi con người.
Từ xa xưa, giáo dục là một yếu tố rất quan trọng trong việc hình thành và
phát triển nhân cách của con người. Chính vì thế có ý kiến cho rằng, muốn
biết tương lai của một xã hội thì hãy nhìn vào thực trạng giáo dục hiện có của
xã hội ấy. Thơng thường khi nói đến giáo dục, người ta nghĩ ngay đến nhà
trường, các mối quan hệ thầy - trị. Nhưng q trình giáo dục của một con
người không chỉ ở trên ghế nhà trường, trong các mối quan hệ thầy - trò mà
còn xảy ra chính ngay trong gia đình người đó nữa. Bởi vậy, người thầy đầu
tiên của con trẻ là chính cha mẹ của mình. Cho nên, khi nghiên cứu về vấn đề
giáo dục gia đình của người Cơng giáo giúp chúng ta có cách nhìn nhận tồn
diện hơn về sự hội nhập, giao thoa của giáo dục gia đình truyền thống với
giáo dục gia đình của người Cơng giáo. Hơn nữa, nghiên cứu đề tài này sẽ
giúp chúng ta hiểu được vai trị giáo dục gia đình của người Cơng giáo và một
số vấn đề đang đặt ra trong giáo dục gia đình của người Cơng giáo đặc biệt là
phương pháp giáo dục như thế nào để trở thành một người sống tốt với đời,
đẹp đạo đồng thời có trách nhiệm bảo tồn, phát huy truyền thống văn hóa dân
tộc của người Việt.

Với những lí do trên, tác giả lựa chọn vấn đề “Giáo dục gia đình của người
Cơng giáo ở Việt Nam hiện nay” làm đề tài khóa luận.

1



2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích của đề tài là trên cơ sở làm rõ một số vấn đề lí luận khóa luận sẽ
phân tích vai trị và nội dung giáo dục gia đình của người Cơng giáo. Từ đó
phân tích một số vấn đề đặt ra đồng thời đề xuất một số giải pháp nhằm nâng
cao vai trị giáo dục gia đình của người Cơng giáo.
Để đạt được mục đích trên, khóa luận tập trung giải quyết những nhiệm vụ
sau đây:
- Làm rõ một số vấn đề lý luận về giáo dục gia đình và gia đình Cơng
giáo.
- Phân tích vai trị và nội dung giáo dục gia đình của người Cơng
giáo.
- Phân tích một số vấn đề đặt ra và đề xuất một số giải pháp nhằm
nâng cao vai trị giáo dục gia đình của người Công giáo.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu.
Đối tượng nghiên cứu đề tài là giáo dục gia đình của người Công giáo ở
Việt Nam hiện nay.
Phạm vi nghiên cứu đề tài là: Trong khuôn khổ của đề tài này, khóa luận
tập trung nghiên cứu vai trị và nội dung nền giáo dục gia đình của người
Cơng giáo ở Việt Nam hiện nay (Trong đó, chủ thể giáo dục gia đình là cha
mẹ, đối tượng được giáo dục là con cái).
4. Cơ sở lí luận và phƣơng pháp nghiên cứu.
Đề tài dựa trên cơ sở lí dựa trên quan điểm của chủ nghĩa Mác- Lenin, chủ
trương chính sách của Đảng và Nhà nước về tôn giáo, về hôn nhân và giáo
dục gia đình.
Trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy
vật lịch sử, tác giả khóa luận chú trọng vận dụng các phương pháp: phân tích
và tổng hợp, diễn dịch và quy nạp.
2



5. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn.
Ý nghĩa lý luận:
- Kết quả nghiên cứu của đề tài góp phần nâng cao nhận thức về vấn đề
giáo dục gia đình của người Cơng giáo và những giá trị của nó đối với
người Cơng giáo nói chung và cộng đồng tín hữu Cơng giáo nói riêng.
Ý nghĩa thực tiễn:
- Nâng cao sự hiểu biết về giá trị giáo dục gia đình Cơng giáo ở Việt Nam
hiện nay, từ đó thay đổi nhận thức và phát huy truyền thống tốt đẹp của
nền giáo dục gia đình Cơng giáo.
6. Kết cấu của khóa luận.
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, khóa luận
gồm 2 chương, 5 tiết và 12 tiểu tiết được chia phù hợp với kết cấu của bài.

3


Chƣơng 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ GIÁO DỤC GIA ĐÌNH
VÀ GIA ĐÌNH CƠNG GIÁO
Khái qt về giáo dục gia đình.

1.1.

1.1.1. Một số khái niệm cơ bản
* Khái niệm “gia đình”
Gia đình có một vị trí, vai trị vơ cùng quan trọng trong xã hội, là đối
tượng được nhiều ngành chọn làm chủ đề nghiên cứu. Chủ đề nghiên cứu về
gia đình ln có sự thu hút rất đặc biệt đối với các nhà nghiên cứu khoa học

trên toàn thế giới. Có rất nhiều khái niệm khác nhau về “gia đình” xuyên suốt
quá trình hình thành và phát triển của xã hội loài người.
Theo C.Mác và Ăng-ghen định nghĩa về gia đình trong tác phẩm
"Hệ tư tưởng Đức" (1845) có viết: “Hằng ngày tái tạo ra đời sống của bản
thân mình, con người cịn tạo ra những người khác sinh sơi nảy nở - đó là
quan hệ giữa chồng và vợ, cha mẹ và con cái, đó là gia đình” [21, tr. 41]. Ta
có thể hiểu khái niệm đó theo hai nội dung chính sau đây:
Một là, gia đình được tạo nên chủ yếu từ quan hệ hôn nhân vợ
chồng, là nơi tái tạo, sinh sôi nảy nở con người.
Hai là, giữa cha mẹ và con cái có một mối quan hệ huyết thống không
thể tách rời.
Khái niệm “gia đình” mang tính pháp lý ở Việt Nam được thể hiện
thông qua điều 8 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 [3, tr.16]. Trong
điều 8 đã xác định rất rõ: “Gia đình là tập hợp những người gắn bó với nhau
do quan hệ hơn nhân, quan hệ huyết thống, hoặc do quan hệ nuôi dưỡng, làm
phát sinh các nghĩa vụ và quyền lợi giữa họ với nhau qua luật định” [3, tr.16].
Mặc dù có nhiều quan niệm khác nhau về gia đình, nhưng chúng ta có
thể hiểu gia đình được thừa nhận ở các quan hệ cơ bản sau:

4


Một là, gia đình được hình thành trên cơ sở quan hệ hôn nhân. Quan
hệ hôn nhân là sự kết hợp giữa một người nam và một người nữ theo quy định
của pháp luật, để cùng nhau chung sống và xây dựng gia đình hạnh phúc.
Trong các xã hội có giai cấp, quan hệ hôn nhân là một hiện tượng mang tính
giai cấp tiêu biểu. Hình thái kinh tế - xã hội khác nhau, có các kiểu hơn nhân
đặc trưng khác nhau, giai cấp thống trị đề ra luật để điều chỉnh các mối quan
hệ hơn nhân gia đình cho phù hợp.
Hai là, cùng chung quan hệ huyết thống với nhau. Quan hệ huyết

thống là sự cùng chung một hệ dịng máu, là hệ quả của cuộc hơn nhân và
được duy trì và phát triển tốt đẹp khi quan hệ hơn nhân chân chính và hạnh
phúc.
Ba là, quan hệ ni dưỡng là mối quan hệ hình thành trên sự ni
dưỡng giữa chủ thể và đối tượng. Họ gắn bó với nhau, có trách nghiệm và
nghĩa vụ với nhau, được luật pháp công nhận và bảo vệ.
Như vậy, dù diễn đạt về khái niệm gia đình ở nhiều phương diện
khác nhau, song chúng ta có thể hiểu: “Gia đình là một cộng đồng người được
xây dựng trên cơ sở các mối quan hệ như quan hệ hôn nhân, quan hệ huyết
thống và mối quan hệ nuôi dưỡng các thành viên được xã hội và pháp luật
thừa nhận và bảo vệ”.
* Khái niệm “giáo dục gia đình”
Giáo dục gia đình là sự giáo dục được thực hiện trong phạm vi gia đình,
do thế hệ trước thực hiện, tác động tới thế hệ sau với mục đích củng cố trong
thế hệ sau những phẩm chất, năng lực tốt phù hợp với chuẩn mực của xã hội.
Đây là một hoạt động tự giác, có ý thức, có mục đích, có kế hoạch, có sự
chuẩn bị của những người trong gia đình, tác động một cách thường xuyên,
liên tục tới đối tượng được giáo dục, nhằm đạt mục đích mà người giáo dục
mong muốn [6, tr.12].
Trong cuộc sống tương lai của con trẻ, sự giáo dục gia đình đóng vai
trị cơ bản và quyết định. Bởi gia đình là mơi trường quan trọng bậc nhất của
5


sự phát triển cá nhân, đặc biệt là khi còn nhỏ, bởi đây là mơi trường chính yếu
hình thành nên nhân cách của mỗi cá nhân. Tại gia đình, ai cũng được ni
dưỡng, chăm sóc và được dạy bảo từ những việc cơ bản để sống làm người.
1.1.2. Vai trò và nội dung của giáo dục gia đình
* Vai trị của giáo dục gia đình
Vai trị giáo dục gia đình quả thực rất quan trọng đối với sự hình thành

giáo dục đầu tiên cho con trẻ. Do vậy, tác giả rút ra được các vai trị của gia
đình như sau:
Một là, giáo dục gia đình là cơ sở nền tảng của giáo dục nhà trường và
xã hội. Bởi, gia đình là môi trường giáo dục đầu tiên, nơi mà mỗi cá nhân từ
khi chào đời đến phát triển, trưởng thành liên tục được tiếp nhận những tình
cảm tốt đẹp từ các thành viên giá trị cốt lõi của văn hóa xã hội, tạo nền tảng
vững chắc cho nối tiếp giáo dục của nhà trường và xã hội. Nhận thức tầm
quan trọng của gia đình với ý nghĩa là nền tảng, tế bào của xã hội; đồng thời
cũng là môi trường quan trọng, trực tiếp giáo dục nếp sống, hình thành và
phát triển nhân cách con người, nơi giữ vai trò đặc biệt quan trọng liên quan
tới số lượng, chất lượng dân số và cơ cấu dân cư của quốc gia, Văn kiện Ðại
hội XII của Đảng nêu rõ: “Thực hiện chiến lược phát triển gia đình Việt Nam.
Phát huy giá trị truyền thống tốt đẹp, xây dựng gia đình no ấm, tiến bộ, hạnh
phúc, văn minh. Xây dựng mỗi trường học thật sự là một trung tâm văn hóa
giáo dục, rèn luyện con người”[5, tr.128]. Muốn được như thế thì cần phải
tăng cường công tác giáo dục đời sống gia đình. Cung cấp tới từng gia đình
các kiến thức, kỹ năng sống, như: kỹ năng làm cha mẹ, kỹ năng ứng xử giữa
các thành viên trong gia đình với nhau và với cộng đồng hơn nữa.
Hai là, giáo dục của gia đình đặt cơ sở hết sức quan trọng cho sự hình
thành phẩm chất, nhân cách gốc của trẻ, thúc đẩy sự hình thành nhân cách ở
tuổi thanh niên, củng cố, giữ gìn nhân cách con người ở tuổi trưởng thành và
khi về già. Trong tác phẩm Luận cương về Phoiơbắc, C. Mác viết: “Bản chất
con người không phải là một cái trừu tượng cố hữu của cá nhân riêng biệt.
6


Trong tính hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hòa những quan hệ xã
hội” [21, tr.569]. Từ quan điểm này, có thể xác định, nhân cách chính là tổng
hợp các yếu tố phản ánh bản chất xã hội của con người, nhưng được hình
thành trên cơ sở, điều kiện, tiền đề sinh học của con người, chứ không đối lập,

cũng không tách rời khỏi tiền đề sinh học của nó. Nhân cách của một con
người khơng phải là sản phẩm tự nhiên do bẩm sinh và di truyền, nhân cách
được hình thành dần dần trong hoạt động và giao tiếp của con người suốt cuộc
đời từ ấu thơ đến khi trưởng thành. Giá trị của nhân cách mỗi con người sẽ
không bị mất đi cùng với cái chết sinh học mà giá trị đó sẽ được tồn tại trong
sản vật mà họ đã làm ra cũng như trong đời sống tâm lý - xã hội của nhóm –
tập thể mà nó gia nhập vào.
Ba là, giáo dục gia đình góp phần bảo lưu các giá trị, đặc điểm, văn hóa
truyền thống của dân tộc gồm: thứ nhất, phát huy giá trị đạo đức thể hiện qua
các mối quan hệ giữa các thành viên trong gia đình: vợ - chồng (sống u
thương, tình nghĩa, thủy chung, hịa thuận); cha mẹ - con cái (cha mẹ hiền từ,
sẵn sàng hy sinh, chăm sóc cho con, con cái có hiếu với cha mẹ); ông bà - con
cháu (ông bà gương mẫu, hòa thuận, con cháu hiếu thảo, hiền lành, chăm
ngoan); anh/chị - em (anh, chị, em hòa thuận, thương yêu, gắn bó, đồn kết,
giúp đỡ lẫn nhau); hoặc với làng xóm xung quanh là đùm bọc, sẻ chia . Thứ
hai, phát huy nền văn hóa cha ơng ta: tình u nước, đồn kết, chịu thương,
chịu khó, hiếu học, nhân ái…của dân tộc Việt Nam. Thứ ba, bảo tôn các di
sản văn hóa vật thể: di tích lịch sử - văn hóa danh lam thắng cảnh, di vật, cổ
vật và bảo vật quốc gia, phi vật thể của cha ông để lại: tập tục tín ngưỡng dân
gian, lễ hội truyền thống, nghề thủ cơng truyền thống… Giáo dục gia đình là
nơi kế thừa, phát huy các giá trị truyền thống tốt đẹp của gia đình Việt Nam;
tiếp thu có chọn lọc các giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc; tiếp đến giáo
dục con trẻ góp phần bảo lưu các giá trị văn hóa cho con cháu ngàn đời sau.
Thực tế đã cho chúng ta thấy rằng, sự chăm sóc và giáo dục trong gia
đình có một vai trị đặc biệt vơ cùng to lớn, vì ni dưỡng và giáo dục trong
7


gia đình là mơi trường giáo dục đầu tiên của mỗi người từ khi sinh ra và lớn
lên. Vai trò của giáo dục gia đình được thể hiện thơng qua một số nội dung cơ

bản như: giáo dục tri thức, đạo đức và lối sống, giáo dục về thể chất thẩm mỹ,
giao tiếp ứng xử… được diễn ra trong mọi hoạt động của con người và được
thực hiện qua tất cả các hoạt động, tổ chức đời sống vật chất của con người.
Giáo dục gia đình đã góp phần vào việc đào tạo con người và phát triển đạo
đức văn hóa, dân tộc của mỗi một quốc gia [2, tr 18].
*Nội dung cơ bản của giáo dục gia đình
Về nội dung, giáo dục của gia đình là nền giáo dục toàn diện bao gồm
giáo dục đạo đức, giáo dục học tập văn hóa, giáo dục lao động và rèn luyện
tính tự lập cho trẻ, giáo dục thể chất và thẩm mỹ, giáo dục giới tính, tình u
và hơn nhân cho thế hệ trẻ.
Một là, giáo dục đạo đức
Đạo đức là những chuẩn mực của xã hội, để từ đó mọi người tự điều
chỉnh hành vi của mình cho phù hợp với mọi người. Trong gia đình, cần giáo
dục cho con trẻ về sự kính trọng người lớn tuổi, lịng hiếu thảo với ông bà,
cha mẹ. thể hiện qua các cử chỉ ăn nói, hành động lễ phép chào hỏi. Mỗi một
gia đình là một mơi trường khác nhau, vì vậy chúng ta nên giáo dục cho trẻ về
sự cảm thông hồn cảnh cuộc sống của gia đình mình. Để trẻ khơng so sánh
hay so bì, ăn chơi theo những đứa trẻ gia đình có điều kiện hơn gia đình mình.
Để tạo lên sự hịa thuận, khơng khí vui vẻ, đầm ấm trong gia đình. Và giúp trẻ
có ý chí nghị lực vươn lên trong cc sống.
Đạo đức trong gia đình khơng chỉ thể hiện qua sự kính trọng, lễ phép
với người lớn tuổi mà còn thể hiện qua cách cư xử giữa anh chị em. Anh, chị,
em ai cũng đều có quyền bình đẳng như nhau, khơng phân biệt nam hay nữ.
Ai cũng đều có trách nhiệm phải xây dựng mái ấm gia đình, đùm bọc lấy
nhau. Anh, chị lớn phải biết nhường nhịn, bao bọc em út của mình. Phận làm
em phải biết tôn trọng anh, chị, nghe theo những điều phải mà anh chị nói,
khơng nên ghen ghét hay nói xấu anh chị mình.
8



Ngồi những mối quan hệ trong gia đình ra, cịn có những mối quan hệ
khác ngồi xã hội như quan hệ bạn bè, cộng đồng, dân tộc, cần giáo dục co
con trẻ những nội dung sau:
Lòng nhân ái: lòng nhân ái là lòng yêu thương, quý mến con người.
giáo dục lịng nhân ái là giáo dục tình u thương, q mến giữa người với
người. Sự khác nhau giữa con người và động vật đó là sự thấu cảm và đồng
cảm. Ca dao tục ngữ Việt Nam có câu “Lá lành đùm lá rách” hay “Thương
người như thể thương thân” để nói lên sự đồng cảm, thấu hiểu, sự giúp đỡ
giữa người với người trong cuộc sống. Dù chúng ta sống trong bất kì hồn
cảnh nào, đều phải có lịng u thương nhân ái. Gia đình phải giáo dục con
cái ngay từ những buổi đầu biết nhận thức về lòng nhân ái, sự bao dung và
giúp đỡ người khác, không tham lam lấy của người khác để trở thành một
người tốt.
Tính trung thực: quy luật tồn tại và phát triển trong cuộc sống đòi hỏi
con người phải biết giao tiếp và ứng xử. Giao tiếp và ứng xử muốn có sức
thuyết phục và sự tin tưởng của mọi người hay không là phải nhờ vào tính
chân thực của mỗi con người qua lời nói và hành động. Ngay từ những ngày
cịn bé, gia đình đã giáo dục cho con cái mình về tính chân thực qua mỗi lời
nói, cử chỉ hành động và suy nghĩ, để giúp trẻ tránh xa những sự dối trá,
hướng trẻ đến những điều chân thật. giúp trẻ biết nhận lỗi sai, khuyết điểm
khi mình làm chưa đúng, giám đối mặt với thực tế hiện tại. Con người có đức
tính trung thực cũng nói lên phẩm chất của bản thân mình. Người khác khơng
hể coi thường, khinh bỉ được, đồng thời cũng là giữ uy tín của mình trog mọi
mối quan hệ.
Tính khiêm tốn: khiêm tốn là một phẩm chất quan trọng trong mỗi nhân
cách của con người. Khiêm tốn là sự bày tỏ kính trọng, khiêm nhường, có ý
thức và thái độ chuẩn mực trong mọi công việc. Cũng như sự đánh giá bản
thân, không tư kiêu, tự cang, cho mình là nhất. Gia đình ln giáo dục hệ tư
tưởng cho trẻ phải luôn biết tỏ ra khiêm tốn, không tự mãn, chủ quan, ngạo
9



mạn, chê bai người khác, khơng tự cho mình là biết hơn người khác. Tính
khiêm tốn tường được thơng qua bằng những cử chỉ, biểu hiện trong ngôn
ngữ, cách giao tiếp với người khác. Không dùng những từ ngữ khiếm nhã để
nói chuyện, ln biết giữ ý và phép tắc khi nói chuyện trong gia đình cũng
như ngồi xã hội. Khiêm tốn giúp chúng ta học những điều hay, ý đẹp, mà
cịn giúp chúng ta có cách cư xử cẩn trọng, chu đáo, không thô lỗ, khoe
khoang. Những hành động khiêm tốn luôn được người khác để ý và coi trọng.
Hai là, giáo dục tri thức
Giáo dục tri thức đóng một vai trị vơ cùng quan trọng khác với các
trường lớp, giáo dục tri thức trong gia đình là một q trình các thế hệ đi trước
như cha mẹ, ơng bà, anh chị, cơ dì, chú bác đúc kết ra và chỉ bảo cho những đứa
trẻ những kiến thức cơ bản giúp trẻ nhận biết và làm quen. Trẻ còn đang trong
giai đoạn sơ sinh, các thành viên trong gia đình đã giúp trẻ kích thích nhữn giác
quan của trẻ, vì sự phát triển của các giác quan đánh dấu sự hình hành phát triển
ban đầu của nhận thức. Bằng những hành động như chơi đùa nói chuyện với trẻ,
treo nhiều đồ chơi nhiều màu sắc để giúp trẻ phát triển thị giác, cho trẻ nghe
nhạc…Khi trẻ lớn hơn, tư duy của trẻ lúc này đã biết cách suy luận đơn giản,
thành viên trong gia đình thường cho trẻ hoạt động vui chơi thông qua các hoạt
động nhẹ để phát triển thể chất và chí tuệ. Trả lời những câu hỏi của trẻ nhằm
giúp trẻ có những định hướng đúng đắn về suy nghĩ.
Bên cạnh đó khi đến giai đoạn trẻ đến trường, là một giai đoạn mới mẻ
với trẻ, khi đó trẻ cần được chuẩn bị về mọi mặt thật tốt. Sự giáo dục của gia
đình và của nhà trường sẽ giúp trẻ phát triển về mọi mặt tư duy cũng như tâm
sinh lý. Giai đoạn này, gia đình phải chú ý tới trẻ, trò chuyện với trẻ để hiểu
trẻ đang suy nghĩ gì hơn vì tâm sinh lý của trẻ rất nhạy cảm. Sự kết hợp giữa
gia đình và nhà trường trong giai đoạn này rất quan trọng trong việc ni
dưỡng tâm hồn và chăm sóc trẻ.


10


Ba là, giáo dục về thể chất, thẩm mỹ
Xã hội ngày càng văn minh và phát riển, nhu cầu thưởng thức những
cái đẹp của con người này một tăng cao và được trú trọng hơn. Khi con người
hướng về cái đẹp, muốn thưởng thức ái đẹp, là một người có trình độ văn hóa
tốt, họ ln tìm cách tránh xa những cái xấu. Nhờ những sự chỉ bảo, tiếp thu
từ phía gia đình mà con người mới tìm ra được những cái đẹp đầu tiên. Gia
đình có một vị trí vô cùng quan trọng, đặc biệt là các bậc cha mẹ trong việc
giáo dục con em mình về giáo dục thẩm mỹ.
Khi con cái bắt đầu biết tiếp thu, những thứ xung quanh chúng có thể
để lại những ấn tượng vơ cùng sâu sắc. Có thể là tiếng nói chuyện của cha mẹ
với chúng, tiếng hát ru à ơi, những gam màu sắc rực rỡ xung quanh, để lại
những kỉ niệm vơ cùng tốt đẹp trong kí ức. Những mầm mống về cái đẹp
được gia đình truyền cho con cái là những viên gạch đầu tiên đặt nền tảng để
xây dựng cái đẹp trong một con người.
Các hoạt động văn hóa nghệ thuật, thơ ca, truyện đều chứa đựng rất
nhiều vẻ đẹp thuần túy của nghệ thuật, nên việc giáo dục, bồi dưỡng cho con
cái để có được những cảm xúc, tình cảm thẩm mỹ là vơ cùng quan trọng, bất
cứ gia đình nào cũng đều nỗ lực để giúp con em mình có thể lĩnh hội được.
Khơng chỉ bồi dưỡng và rèn luyện cho con cái về sự cảm nhận những cảm
xúc thẩm mỹ trong nghệ thuật mà mỗi bậc cha mẹ cũng phải rèn luyện cho
con em mình sự cảm nhận thẩm mỹ về cái đẹp trong giao tiếp, qua cách xưng
hô, cử xử, cử chỉ, hành động giữa người với người trong xã hội.
Trong mỗi gia đình, bậc làm cha mẹ nào cũng đều phải dạy con mình từ
những cách ăn nói, xưng hơ sao ch phù hợp với chuẩn mực xã hội. Bởi vậy, các
cụ xưa có câu “học ăn, học nói, học gói, học mở” để nói lên sự dạy dỗ, chỉ bảo
của các bậc cha mẹ đối với con cái. Cái đẹp luôn đi liền với cái “thiện” để thể
hiện một nhân cách tốt đẹp của một con người. Trong giao tiếp ngoài xa hội, nếu

thiếu đi sự thẩm mỹ thì các câu từ sẽ trở nên lộn xộn, cẩu thả, thiếu sự tế nhị

11


khiến cho người đối diện cảm thấy khó chịu. Vì vậy trong gia đình ln phải
quan tâm tới những hành vi trong giá trị thẩm mỹ nếp sống của trẻ nhỏ.
Bốn là, giáo dục về giới tính, tình u, hơn nhân
Như bao sự giáo dục khác đến từ gia đình thì giáo dục về giới
tính, tình u, hơn nhân giúp trẻ định hướng được con đường đi đến hạnh
phúc trong cuộc sống gia đình sau này. Về giáo dục giới tính, cha mẹ nên giải
đáp và cung cấp các thơng tin về sự phát triển của cơ thể, giới tính, tình dục,
và các mối quan hệ, cùng với xây dựng kỹ năng để giúp con trẻ giao tiếp và
đưa ra quyết định liên quan đến tình dục và sức khỏe tình dục của họ một
cách đúng đắn. Giáo dục giới tính sẽ bao gồm thơng tin về tuổi dậy thì, biện
pháp tránh thai và bao cao su, các mối quan hệ, phịng chống bạo lực tình dục,
hình ảnh cơ thể, giới tính và khuynh hướng tình dục. Nó cần phải được giảng
dạy bởi các giáo viên được đào tạo chuyên mơn. Giáo dục giới tính cần đến
với tuổi mới lớn bằng những bài học đầy đủ nhất về kiến thức ngăn ngừa
mang thai ngoài ý muốn và các bệnh lây truyền qua đường tình dục, nhưng
giáo dục giới tính cũng cần phải tôn trọng các quyền lợi cơ bản của giới trẻ và
cần truyền đạt một cách trung thực. Giáo dục giới tính thực sự cần thiết đối
với con trẻ bởi: thứ nhất, việc cung cấp các kiến thức giáo dục giới tính về sức
khỏe sinh sản, sức khỏe tình dục, biện pháp tránh thai để phòng tránh những
hiệu quả tiêu cực như tệ nạn phá thai ở trẻ vị thành niên hiện nay. Thứ hai,
giáo dục giới tính giúp con trẻ có cách nhìn nhận một mối quan hệ tình yêu
lành mạnh, giảm bớt độ tuổi quan hệ tình dục sớm, có định hướng tình u
trong sáng và giảm tình trạng bạo lực tình dục trong giới trẻ hiện nay. Thứ ba,
giáo dục giới tính giúp trẻ nhận thức được giá trị của bản thân: giáo dục giới
tính khơng chỉ dạy cho người trẻ những điều cơ bản vể sự phát triển của tuổi

dậy thì, mà cịn cung cấp nhận thức về quyền quyết định muốn hay không
muốn làm điều gì, chẳng hạn từ chối tham gia vào những hoạt động tình dục
khơng mong muốn.

12


Từ những bước đệm của giáo dục giới tính, con trẻ có nhận thức vững
vàng hơn khi bước vào tình yêu, tình yêu là sự phát triển cao nhất giữ tình
cảm của hai người – để hướng tới hơn nhân và tình yêu gia đình. Trước hết,
cần giáo dục cho trẻ những tâm sinh lý thay đổi ở tuổi mới lớn, cùng nhau trò
chuyện với con trẻ để thấu hiểu và cho con những lời khuyên khi bước vào
câu chuyện u thích ai đầu đời, giúp con có những hướng đi phù hợp và
những nhận thức đúng đắn vào tình u, xa hơn chính là tìm một người phù
hợp với bản thân để đi đến hơn nhân gia đình.
Trên đây là những vai trị giáo dục của gia đình đối với con cái. Ta có
thể thấy giáo dục gia đình đóng góp rất lớn trong việc hình thành và phát triển
nhân cách cho thế hệ trẻ, giúp các em có những kiến thức nền tảng để bước
vào đời, và luôn đồng hành song song với các em trên mỗi chặng đường
tương lai sau này.
1.2. Gia đình Cơng giáo
1.2.1. Khái qt về gia đình cơng giáo
Trước hết là vài nét về đạo Cơng giáo: Cơng giáo là một nhánh đạo
chính của Kito giáo có nguồn gốc từ đạo Do Thái, do Chúa Giê-su sáng lập.
Theo các tin hữu Ki-tơ hữu thì Cơng giáo là tơn giáo do chính Chúa Giê-su
khai sinh và giảng dạy để mang ơn cứu độ của Thiên Chúa đến cho tất cả mọi
người thành tâm đón nhận Thiên Chúa để được cứu rỗi và sống đẹp đạo đời
đời. Giáo hội Công Giáo hội do Chúa Giê-su thiết lập để tiếp tục rao giảng và
chuyển ơn cứu độ đó đến cho những ai muốn tiếp nhận. Giáo hội này được
đặt dưới quyền lãnh đạo của giáo hoàng, người duy nhất nối tiếp sứ vụ chăn

dắt đoàn chiên của Chúa Ki-tô với sụ hiệp thông và vâng phục chọn vẹn của
Giám Mục trong tồn Giáo hội.
Sách Kinh thánh chính thống mà người Công giáo tôn sùng gồm hai
phần: Cựu Ước và Tân Ước. Cơng giáo có một hệ thống giáo lý và giáo luật
đồ sộ. Khi nói đến giáo lý, giáo luật Công giáo người ta thường nhắc ngay
đến “Kinh Bổn” (bổn phận của người Công giáo khi học về giáo lý) gồm các
13


kinh cơ bản: Mười điều răn, Kinh Lạy Cha, Kinh Kính Mừng, Kinh Phúc… là
các giáo lý cơ bản dạy các tín hữu sống đẹp đời, đẹp đạo…
Đạo cơng giáo được truyền vào Việt Nam từ những năm 1533 do giáo
sĩ Phương Tây tên là In-Nê-Khu đến làng Ninh Cường và Quần Anh của
huyện Nam Chấn và Làng Trà Lũ, huyện Giao Thủy tỉnh Nam Định để truyền
đạo. Đạo Công giáo du nhập vào Việt Nam trong hoàn cảnh giai đoạn xã hội,
kinh tế của Việt Nam đang rơi vào tình trạng khủng hoảng nội chiến kéo dài,
đất nước bị chia cắt thành Đàng trong và Đàng ngoài.Trong giai đoạn này,
Giáo hội Cơng giáo hồn vũ đang phát động truyền giáo vào sâu bên trong
các nước Châu Á, trong đó có Việt Nam. Việc truyền giáo vào Việt Nam nhận
được những kết quả từ những năm 1615. Đến đầu thế kỉ XX, Cơng giáo Việt
Nam đã có hơn 1 triệu tín đồ theo Đạo. Uy tín cũng như uy thế được tăng lên
rất nhiều. Các cơ sở Công giáo được xây dựng lên nhiều, chức sắc, giáo sĩ
càng ngày càng có địa vị và vị thế lớn trong xã hội. Đi qua nhiều sự thăng
trầm của lịch sử từ những ngày đầu truyền giáo đến nay, Giáo hội Công giáo
đã có số lượng tín đồ lên đến hơn 6 triệu trên khắp cả đất nước, là một trong
những đạo có số lượng tín đồ cao đứng thứ hai của cả nước (sau Phật giáo).
Với nhiều hoạt động đa dạng và có những ảnh hưởng lớn trong đời sống văn
hóa – xã hội đạo Cơng giáo có sức ảnh hưởng đặc biệt với gia đình người
Cơng giáo từ trước đến nay.
Vì thế ta có cách nhìn khách quan về gia đình người Cơng giáo như

sau: gia đình Cơng giáo cũng như các gia đình truyền thống: là một gia đình
hạt nhân gồm một đến hai thế hệ cùng chung sống với nhau. Nhưng điểm
khác nhau giữa một gia đình Cơng Giáo với gia đình người Việt truyền thống
là có thêm đời sống đức tin tín ngưỡng hướng về Chúa trong cuộc sống hằng
ngày của họ. Ngoài ra, quan niệm về gia đình, hơn nhân của người Cơng giáo
mang ý nghĩa thiêng liêng đặc biệt: gia đình là nguồn gốc của tình yêu, do bàn
tay Chúa đưa hai người nam và nữ đến với nhau tạo thành một gia đình Thánh

14


Gia. Để hiểu rõ hơn về gia đình Cơng giáo, ta đi tìm hiểu rõ hơn về đặc điểm
gia đình người Công giáo ở phần sau.
1.2.2. Đặc điểm của gia đình ngƣời Cơng giáo.
Khi du nhập vào nước ta, gia đình với người Cơng giáo ở Việt Nam
ln được coi là hình ảnh thiêng liêng của Thiên Chúa về tình yêu, là một
Giáo hội thu nhỏ và là nền tảng của xã hội. Gia đình đặt nền tảng trên sự lựa
chọn tự do của hai vợ chồng muốn kết hợp với nhau trong hôn nhân, điều
khác biệt là đối với một gia đình truyền thống của người dân Việt Nam đó là
có sự hiện diện của chính Thiên Chúa trong gia đình Cơng giáo. Do vậy, gia
đình Cơng giáo ở Việt Nam mang đầy đủ những đặc điểm của gia đình nói
chung như sau: gia đình Cơng giáo dựa trên quan hệ hôn nhân mang giá trị
thiêng liêng, quan hệ thuyết thống, quan hệ ni dưỡng sống theo gia đình
Thánh Gia…Tuy nhiên, ngồi những đặc điểm chung gia đình Cơng giáo cịn
có những đặc điểm nổi bật sau:
Thứ nhất, gia đình Cơng giáo được hình thành dựa trên cơ sở hôn nhân
tự do, tự nguyện của hai người và mang giá trị thiêng liêng.
Một đám cưới của người Công giáo được xem là thành sự khi người
nam và người nữ tự do yêu thương, tự nguyện đến với nhau. Sự tự do không
ép buộc khi kết hôn tạo thành một gia đình thể hiện trong Thánh lễ hơn phối ở

nhà thờ Công giáo, chủ tế thánh lễ bao giờ cũng hỏi người nam và người nữ
xem họ có thật sự tự do yêu thương, có thật sự tự nguyện đi đến hôn nhân hay
không [12, tr.13]. Chỉ khi nào họ trả lời rằng “Có” khi ấy linh mục mới thực
hiện nghi thức Bí tích Hơn nhân tiếp theo. Trước khi được thánh hiến với một
bí tích riêng và chịu phép Thánh thể, người nam (chú rể) trao nhẫn cho người
nữ (cơ dâu) và nói lời giao ước với người nữ: “Anh là X… xin nhận em T…
làm vợ của anh và hứa giữ lòng chung thủy với em, khi thịnh vượng cũng như
lúc gian nan, khi mạnh khỏe cũng như lúc đau yếu, để yêu thương và tôn
trọng em mọi ngày cho đến suốt đời anh”[10. tr 56] như một thời thề ước giữa
hai người trước Thiên Chúa và những người chứng dám cho họ tại nhà thờ.
15


Họ cùng nhau ký vào sổ hơn phối, chính thức là đôi vợ chồng. Thông qua
nghi lễ hôn nhân tổ chức trong nhà thờ dưới sự chủ trì của vị linh mục mà hôn
nhân Công giáo trở nên thiêng liêng. Giá trị thiêng đó có nguồn ủy thác từ
Kinh Thánh, bởi chính Thiên Chúa đã tác hợp cho người nam và người nữ để
họ trở thành vợ chồng. Giá trị thiêng được chuẩn nhận qua Thánh lễ tổ chức
long trọng ở nhà thờ Cơng giáo dưới sự chủ trì của chủ tế, sự chứng giám của
Thiên Chúa. Và khi đã nên vợ, nên chồng, họ “thánh hóa” lẫn nhau và cùng
nhau tơn vinh Thiên Chúa.
Thứ hai, gia đình Cơng giáo đặc biệt coi trọng lối sống thủy chung một
vợ một chồng.
Hôn nhân được người Công giáo xem là việc hệ trọng của cuộc đời,
liên quan đến chính cuộc đời của họ từ khi kết hôn cho đến khi qua đời. Ngay
từ nhỏ, qua các lớp giáo lý, các em đã được linh mục, gia đình, hoặc các giáo
lý viên cung cấp những hiểu biết về giới tính, về ý nghĩa của hôn nhân. Khi
trưởng thành, người Công giáo đều phải học giáo lý hơn nhân, hiểu cặn kẽ
tính thánh thiêng (Bí tích) hơn nhân, vai trị trách nhiệm của người vợ và
người chồng. Sau kỳ học họ phải thông qua sát hạch. Chỉ khi nào đủ tiêu

chuẩn, được cấp giấy cơng nhận việc học mới được hồn tất. Đây là một trong
những điều kiện bắt buộc của bất kỳ đôi nam nữ nào muốn kết hôn
Do hiểu rõ giá trị của hôn nhân nên người Công giáo luôn xem hôn
nhân là một việc thiêng liêng và đúng đắn. Việc tìm hiểu người bạn đời với họ
phải thật kỹ càng. Vì khi đã kết hơn rồi họ khơng có quyền ly dị (trừ một vài
trường hợp đặc biệt: bạo lực gia đình từ người chồng như đánh đập, xúc phạm
thể xác người phụ nữ…). Bởi người Công giáo chỉ được phép hơn nhân một
vợ, một chồng theo quan niệm: “Sự gì Thiên Chúa đã phối hợp, lồi người
khơng được phân ly” [Mc 10, 9]. Đó là nguyên tắc bất khả phân ly, hay cịn
gọi là tính đơn nhất (một vợ, một chồng). “Khi đã kết hôn, người nam không
thể là chồng của người nữ nào khác ngồi vợ mình, và người nữ cũng không

16


thể là vợ của người nam nào ngoài chồng của mình”[12, tr.21]. Do vậy, với
người Cơng giáo, khơng có gia đình đa thê.
Do quan niệm của Cơng giáo về hơn nhân là sự kết hợp giữa một người
nam và một người nữ và tự bản tính của hơn nhân là sự truyền sinh nên Công
giáo không chấp nhận hôn nhân đồng tính, coi đó là suy đồi, rối loạn tâm lý,
đặc biệt là chống lại sự trật tự của Thiên Chúa. Điều rất đáng ngạc nhiên là
Sách Cựu Ước, phần nói về tội liên quan đến gia đình đã lên án gay gắt hơn
nhân đồng tính: “Khi người đàn ơng nào nằm với một người đàn ông như nằm
với đàn bà, thì cả hai đã làm điều ghê tởm” [Lv 20, 13].
Như phần trên đề cập, mặc dù phản ứng rất gay gắt và lên án mạnh mẽ
hôn nhân đồng tính nhưng Giáo hội Cơng giáo vẫn “tơn trọng những người
đồng tính luyến ái một cách đầy đủ trong chính nhân phẩm của họ”[10, tr11].
Vấn đề hơn nhân đồng tính đang là vấn đề “nóng” trên thế giới cũng như ở
Việt Nam. Song với người Công giáo, hiện chúng tôi chưa có một tài liệu nào
cho thấy có hơn nhân đồng tính trong cộng đồng người Cơng giáo. Chính vì

vậy cho đến nay gia đình của người Cơng giáo vẫn giữ được nếp của gia đình
truyền thống.
Ba là, gia đình Cơng giáo Việt Nam ln sống theo mẫu gương gia
đình Chúa Giêsu Kitơ (được gọi là Thánh gia)
Người tín hữu Kito giáo ln hướng gia đình mình mơ hình Thánh gia
Nadarét, tức là đề cao tính Hiếu – Lễ trong gia đình. Mọi người trong gia đình
phải cư xử với nhau như ba Đấng trong thánh gia. Cụ thể là người chồng phải
yêu thương và phục vụ vợ con như thánh Giuse đã yêu mến và phục vụ Mẹ
Maria; người vợ phải yêu thương và săn sóc chồng như Mẹ Maria đã yêu mến
và phục vụ thánh Giuse; cha mẹ phải yêu mến và chăm lo cho con cái như
thánh Giuse và Mẹ Maria chăm lo phục vụ Chúa Giêsu; con cái trong gia đình
phải hiếu kính mẹ cha, biết thờ cha kính mẹ, phụng dưỡng cha mẹ như Chúa
Giêsu đã làm đối với Đức Mẹ và thánh Giuse[13, tr.14].

17


Vì thế trong gia đình Cơng giáo, con cái được cha mẹ quan tâm đến
việc dạy con cái biết chu tồn luật Thiên Chúa, biết giữ gìn và tránh xa tội lỗi,
sa đọa. Còn con cái được dạy dỗ từ nhỏ nên biết thực hiện bổn phận của mình
là phải tơn kính cha mẹ (lịng hiếu thảo). Đó là cách sống đạo mà con cái luôn
thực hiện để noi gương gia đình Thánh gia trong đời sống hàng ngày cũng
như trong đời sống đức tin của mình.
1.2.3. Giá trị của gia đình ngƣời Cơng giáo.
“Gia đình đặt nền tảng trên sự lựa chọn tự do của hai vợ chồng muốn
kết hợp với nhau trong hôn nhân, đồng thời trên sự tôn trọng ý nghĩa và các
giá trị của định chế này, một định chế không tuỳ thuộc con người mà tuỳ
thuộc chính Thiên Chúa: vì ích lợi của vợ chồng và con cái, cũng như vì ích
lợi của xã hội, dây liên kết linh thiêng này khơng cịn tuỳ thuộc một mình
quyết định của con người nữa. Chính Thiên Chúa là tác giả của cuộc hôn

nhân; Ngài đã ban cho hơn nhân những ơn ích và mục tiêu khác nhau” [12,
tr.36]. Do vậy, giá trị của các tơn giáo có thể có những điểm giống so với các
giá trị văn hóa. Điều này thể hiện rõ hơn ở các quốc gia có hệ tư tưởng tơn
giáo đóng vai trị quyết định và chỉ đạo cũng như chi phối toàn xã hội. Ở đó
mối quan hệ giữa tơn giáo và văn hóa ngày càng được đưa lên cao. Từ khi du
nhập vào Việt Nam, đạo Công giáo đã phải trải qua nhiều sóng gió, với tinh
thần hịa nhập của những lớp thế hệ người Công giáo, tổ chức tôn giáo này đã
tiến tới hội nhập được với văn hóa dân tộc và càng ngày càng khẳng định
được vai trò và những giá trị của đạo Công giáo. Với một hệ thống tổ chức
chặt chẽ từ trên xuống dưới, những đạo luật, giáo lý nghiêm ngặt của Công
giáo, đã xây dựng nên một luồng sáng sức sống mới cho những người theo
đạo Công giáo ở Việt Nam. Đặc biệt nổi bật nhất của đạo Cơng Giáo Việt
Nam đó là về giá trị gia đình. Chúng ta có thể kể tới các giá trị sau của một
gia đình Cơng giáo ở Việt Nam:
Một là giá trị bền vững của gia đình: một trong những đặc trưng cơ bản
của đạo Công giáo Việt Nam. Giá trị này được biểu hiện ở rất nhiều nội dung
18


×