Tải bản đầy đủ (.pdf) (10 trang)

Xuất bản với cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 và công tác đào tạo cán bộ xuất bản, phát hành hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (174.37 KB, 10 trang )

VĂN HĨA
NGHIÊN CỨU

XUẤT BẢN VỚI CUỘC CÁCH MẠNG CƠNG NGHIỆP 4.0
VÀ CÔNG TÁC ĐÀO TẠO
CÁN BỘ XUẤT BẢN, PHÁT HÀNH HIỆN NAY
ĐỖ THỊ QUN

Tóm tắt
Cách mạng cơng nghiệp 4.0 (CMCN 4.0) ngày nay đang tác động lan tỏa vào mọi ngõ ngách của
đời sống xã hội nhân loại, từng phút, từng giờ tác động mạnh mẽ đến hết thảy các lĩnh vực kinh tế - xã
hội trên toàn cầu. Hoạt động xuất bản trong nước với những đặc thù riêng có trong lĩnh vực văn hóa
tư tưởng cũng đang chịu một sức ép lớn từ CMCN 4.0 với những thay đổi không chỉ ở phạm vi, quy mô,
phương thức mà cịn là sự thay đổi căn bản về tính chất hoạt động. CMCN 4.0 cũng đang đặt ra một số
yêu cầu cấp bách đối với công tác đào cán bộ xuất bản, phát hành hiện nay, đó cũng chính là nội dung
mà bài viết hướng tới.
Từ khóa: Cách mạng cơng nghiệp 4.0, xuất bản, phát hành, đào tạo cán bộ
Abstract
The 4th industrial revolution (4th IR) is now squeezing into every corner of human society in every
minute, every hour, having a strong impact on all sectors of the socio-economic field at the global level.
Domestic publishing activities with specific characteristics in the cultural and ideological domain are
under a great pressure from 4th IR with movements not only happening in scope, scale, method but also
in the base of the operation nature. 4th IR also shows some urgent requirements for personnel training
in the publishing field, which is the content that the article is aimed at.
Keywords: Industrial Revolution 4.0, publication, release, staff Training

CMCN 4.0 với những thành tựu của công
nghệ nền tảng và công nghệ ứng dụng đã và
đang có những tác động lớn trên phạm vi tồn
cầu. Những thay đổi mang tính đột phá có sức
lan tỏa tồn cầu diễn ra với tốc độ chóng mặt


làm chao đảo phương thức hoạt động truyền
thống của đại đa số các ngành nghề/lĩnh vực
kinh tế, văn hóa và xã hội. Sự xuất hiện của
Uber, Grap trên thị trường dịch vụ vận tải đã
làm cho ngành vận chuyển hành khách và taxi
truyền thống trở nên khốn khó, có nguy cơ phá
sản. Facebook, mạng xã hội lan tỏa mọi nơi,
mọi lúc từ thành phố đến nông thôn, từ đồng
bằng đến miền núi, không phân biệt lãnh thổ,
khu vực, biên giới quốc gia đã làm cho ngành
báo chí truyền thống vốn đầy sức mạnh truyền
thơng có lúc cũng trở tay không kịp.
98

Số 24 - Tháng 6 - 2018

Các ngành nghề trong lĩnh vực Văn hóa, Thể
thao và Du lịch cũng không phải là ngoại lệ,
đang chịu sự tác động sâu sắc của cuộc CMCN
4.0 không đơn thuần chỉ là số lượng, phạm vi,
quy mơ, phương thức mà cịn là sự thay đổi
căn bản về tính chất hoạt động. Khơng loại trừ
lĩnh vực văn hóa tư tưởng và yếu tố đặc thù,
CMCN 4.0 như một cuộc cách mạng lan tỏa và
kết nối, không giới hạn đối tượng, phạm vi ảnh
hưởng và tốc độ tác động đối với các ngành
công nghiệp văn hóa hiện nay. Sự bùng nổ và
phát triển mạnh cả về phạm vi, qui mơ và tính
chất hoạt động của các ngành Cơng nghiệp
văn hóa ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay

đã cho thấy sự tác động và ảnh hưởng sâu sắc
của cuộc CMCN 4.01.


TRAO ĐỔI

1. Hoạt động xuất bản và tác động của
CMCN 4.0
Xuất bản phẩm là dạng sản phẩm văn hóa
tinh thần có những đặc tính riêng2. Sự khác
biệt ở chỗ xuất bản phẩm vừa là sản phẩm
văn hóa tinh thần, vừa là sản phẩm vật chất.
Tuy nhiên, giá trị nội dung tư tưởng của xuất
bản phẩm là giá trị cốt lõi, xuyên suốt; giá trị
vật chất chỉ là vỏ bề ngoài bao bọc để chuyển
tải giá trị nội dung của sản phẩm. Giá trị vật
chất bên ngồi có ý nghĩa làm tăng hàm lượng
giá trị bên trong của xuất bản phẩm nhờ có
sự hỗ trợ tích cực của khoa học, kỹ thuật và
công nghệ (đối với xuất bản phẩm in trên giấy
truyền thống). Nhờ có cơng nghệ nền tảng và
cơng nghệ ứng dụng hiện nay, xuất bản phẩm
có những tính năng khác biệt và nổi trội hơn
hẳn các sản phẩm vật chất thơng thường khác,
xuất bản phẩm có thể được sản xuất, phổ biến
và tiêu dùng cùng lúc/trực tiếp dựa trên những
nền tảng cơng nghệ và mơi trường internet.
Chúng có thể thỏa mãn nhu cầu thụ hưởng tại
chỗ và tức thì của công chúng. Dựa trên nền
tảng công nghệ và internetkết nối vạn vật, tác

giả có thể trực tiếp sáng tạo và đưa xuất bản
phẩm đến công chúng, nhà xuất bản, cơng
ty sách có thể trực tiếp chuyển các xuất bản
phẩm đến khách hàng… Đó là đặc tính gần
như là duy nhất của xuất bản phẩm mà các
sản phẩm khác hầu hết khơng có. Các rào cản
về thời gian và khoảng cách địa lý trong việc
sản xuất và thụ hưởng xuất bản phẩm giờ đây
trở nên bị vơ hiệu hóa, thậm chí cả rào cản về
ngơn ngữ cũng khơng cịn là thách thức quá
lớn đối với nhân loại với sự hỗ trợ của cơng cụ
dịch tự động vơ cùng tiện ích.
Xuất bản là hoạt động đặc thù trong lĩnh
vực văn hóa tư tưởng. Điều 1 Luật Xuất bản quy
định: “Hoạt động xuất bản bao gồm các lĩnh vực
xuất bản, in và phát hành xuất bản phẩm”. Như
vậy, xuất bản là một hoạt động văn hóa. “Hoạt
động xuất bản thuộc lĩnh vực văn hóa, tư tưởng
nhằm phổ biến, giới thiệu tri thức thuộc các lĩnh
vực của đời sống xã hội, giá trị văn hóa dân tộc
và tinh hoa văn hóa nhân loại, đáp ứng nhu cầu
đời sống tinh thần của nhân dân, nâng cao dân
trí, xây dựng đạo đức và lối sống tốt đẹp của
người Việt Nam, mở rộng giao lưu văn hóa với
các nước, phát triển kinh tế - xã hội, đấu tranh
Số 24 - Tháng 6 - 2018

chống mọi tư tưởng và hành vi làm tổn hại lợi ích
quốc gia, góp phần vào sự nghiệp xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.3. Xuất

bản còn là một hoạt động truyền thông với các
công cụ truyền thông đa chiều vơ cùng tiện
ích (bao gồm tính năng của loại hình xuất bản
phẩm truyền thống in trên giấy và loại hình
xuất bản phẩmđiện tử); Xuất bản đồng thời là
hoạt động kinh tế - tạo ra hiệu quả kinh tế từ
việc xuất bản, phát hành và phổ biến tri thức
thông qua các xuất bản phẩm trong xã hội. Dù
ở phương diện nào, hoạt động xuất bản đều
hướng tới mục đích thỏa mãn tốt nhu cầu xuất
bản phẩm cho nhân dân cả nước, xây dựng và
phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp
ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước
theo đúng tinh thần của Nghị quyết số 33-NQ/
TW ngày 9 tháng 6 năm 2014 của Ban Chấp
hành Trung ương Đảng khóa XI.
Điểm khác biệt của hoạt động xuất bản
với các hoạt động sản xuất kinh doanh hàng
hóa thơng thường chính là quy trình sản xuất,
phổ biến (lưu thơng/trao đổi, mua bán) và tiêu
dùng/thụ hưởng xuất bản phẩm có thể diễn ra
trực tiếp, đồng thời cùng lúc dựa trên nền tảng
công nghệ và môi trường internet. Các nhà
xuất bản, các cơng ty, nhà sách ngày nay có
thể xuất bản và bán trực tiếp xuất bản phẩm
cho công chúng theo số lượng đơn hàng yêu
cầu (có thể mỗi lần chỉ 01 bản hoặc nhiều bản),
cơng chúng cũng có thể đặt đơn hàng và nhận
ngay sản phẩm sau khi đặt hàng và thanh
tốn (download bản mềm cuốn sách xuống

máy tính/ thiết bị điện tử cá nhân). Bỏ qua các
công đoạn in chế bản truyền thống phức tạp,
chiếm nhiều thời gian, tốn kém nguồn lực vật
chất và công sức người lao động, sách điện tử
ra đời khơng những góp phần làm trong sạch
mơi trường, bảo vệ sức khỏe mà cịn đảm bảo
tính tiện ích trong thỏa mãn nhu cầu về sách
và phát triển tri thức của con người. Người sử
dụng/thụ hưởng xuất bản phẩm khơng mất
chi phí thời gian vật chất, phương tiện và sự rủi
ro đi lại để đến các nhà sách, trung tâm sách
truyền thống tìm mua, thỏa mãn nhu cầu…
Nhìn từ góc độ kỹ thuật, việc xuất bản, phát
hành điện tử và tiêu dùng/thụ hưởng trực tiếp
các xuất bản phẩm phù hợp tuyệt đối với công
nghệ trong môi trường internet kết nối vạn vật.

VĂN HÓA
NGHIÊN CỨU

99


VĂN HĨA
NGHIÊN CỨU

Hoạt động xuất bản có thể giúp cơng chúng
thực hiện việc mua bán, thanh toán, nhận xuất
bản phẩm (sở hữu) và thụ hưởng tại chỗ đúng
nghĩa. Tuy nhiên ở góc độ quản lý, việc bảo hộ

bản quyền sách vẫn cịn đang là một thách
thức lớn đối với cơng tác quản lý nhà nước, đòi
hỏi những giải pháp tháo gỡ kịp thời của các
cơ quan quản lý chức năng. Cơng nghệ xuất
bản, cơng nghệ kinh doanh phát triển địi hỏi
công nghệ và năng lực quản lý, điều hành phải
thay đổi và phát triển phù hợp.
Đối với hoạt động xuất bản, tác động của
CMCN 4.0 đã và đang tạo ra những thay đổi
lớn mang tính đột phá, những khác biệt căn
bản trong hoạt động của các nhà xuất bản,
các đơn vị phát hành hiện nay. CMCN 4.0 tạo
nên những nền tảng căn bản cho quá trình
phát triển của xuất bản truyền thống sang
xuất bản hiện đại: Công nghệ in trên giấy sang
công nghệ xuất bản điện tử, xu hướng xuất bản
trực tiếp trong môi trường internet, phương thức
kinh doanh truyền thống sang phương thức kinh
doanh trực tuyến, từ hoạt động tạo nội dung và
phân phối nội dung sang hoạt động tạo ra các
dịch vụ nội dung trên phạm vi toàn cầu; Các giao
dịch mua bán, chuyển nhượng sách và bản
quyền trên tồn cầu ít bị giới hạn bởi bất cứ
yếu tố khách quan, chủ quan; rút ngắn khoảng
cách và thời gian tạo ra tác phẩm, gắn kết tác
giả với bạn đọc, tác phẩm đến thị trường…
Ngành công nghệ xuất bản hiện nay xuất
hiện và song hành tồn tại 3 mô hình đặc trưng
như:
Mơ hình truyền thống tập trung vào cơng

nghệ in ấn và tạo ra tác phẩm in truyền thống/
sách giấy trên thị trường đáp ứng nhu cầu mua
và sử dụng truyền thống của người đọc. Đây
là mơ hình hoạt động khá phổ biến từ trước
cho đến thời điểm hiện tại ở Việt Nam với hệ
thống trên 60 nhà xuất bản, gần 1500 cơ sở
in và 15000 công ty, nhà sách lớn nhỏ, phủ
khắp trên cả nước. Các đầu sách đa dạng về
hình dáng, kích thước, màu sắc có mặt trên
thị trường được bày bán đa dạng phong phú
trong các nhà sách/trung tâm phát hành sách
truyền thống phủ khắp các tỉnh thành phố
trên phạm vi tồn quốc. Mơ hình này còn bao
gồm cả các gian trưng bày, giới thiệu và tiêu
thụ sách giấy trên các Website bán hàng hoặc
100

Số 24 - Tháng 6 - 2018

sử dụng các trang mạng xã hội để giới thiệu và
bán sách của nhà xuất bản, cơng ty/nhà sách
cũng khá hiệu quả.
Mơ hình kết hợp giữa các phương tiện truyền
thông nhằm tạo nội dung và phân phối nội
dung trên các kênh, mạng lưới truyền thông; sử
dụng hiệu quả mạng xã hội. Chuỗi quá trình
từ ý tưởng sáng tạo đến tiếp thị, phân phối,
khách hàng luôn luôn có thể được thích nghi
với các cơng nghệ mới và môi trường kinh
doanh. Tất cả những người tham gia trong

chuỗi giá trị phải được tham gia thông qua
cơ sở hạ tầng công nghệ thông tin, dựa trên
nền tảng Internet. Người sử dụng phương tiện
truyền thơng cũng có thể trao đổi ý tưởng cho
mọi người, không chỉ chia sẻ các kênh truyền
thơng xã hội mà cịn có thể biên soạn hoặc
thậm chí tạo ra các sản phẩm truyền thơng
của riêng mình trên nền tảng nội dung có sẵn.
Các nhà xuất bản cần xây dựng chiến lược sản
phẩm và tạo ra các dịch vụ hướng tới nhu cầu
đa dạng của khách hàng, thu thập thông tin
để quản lý tốt sản phẩm sáng tạo.
Mơ hình tạo ra các dịch vụ nội dung dựa trên
nền tảng và khách hàng (cung cấp dịch vụ nội
dung để tạo ra các tác phẩm phái sinh như tác
phẩm điện ảnh, kịch, trị chơi, chương trình
truyền hình, giải trí…). Mơ hình này, trên thế
giới hiện nay phát triển rất mạnh, song ở Việt
Nam chưa có nhiều. Trên thực tế đã có một số
ít tác phẩm văn học (truyện, tiểu thuyết) được
chuyển thể sang dạng kịch sân khấu, truyền
hình hoặc phim điện ảnh như phim Sóng ở đáy
sơng được chuyển thể từ tiểu thuyết Sóng ở
đáy sơng của nhà văn Lê Lựu; phim Vợ chồng A
Phủ được chuyển thể từ tác phẩm cùng tên hay
nhất trong tập Truyện Tây Bắc của nhà văn Tơ
Hồi; Mẹ vắng nhà được chuyển thể từ truyện
ngắn nổi tiếng của nhà văn Nguyễn Thi có tên
Người mẹ cầm súng; Bộ phim Chị Dậu được
chuyển thể từ cuốn tiểu thuyết Tắt đèn của nhà

văn Ngô Tất Tố; Bộ phim Làng Vũ Đại ngày ấy
thể hiện trung thành nguyên tác ba tác phẩm
văn học nổi tiếng của nhà văn Nam Cao như
Chí Phèo, Lão Hạc và Trăng sáng; Bộ phim Bến
không chồng được chuyển thể từ tiểu thuyết
cùng tên của nhà văn Dương Hướng; bộ phim
Thời xa vắng được chuyển thể từ cuốn tiểu
thuyết Thời xa vắng của nhà văn Lê Lựu; Đừng


TRAO ĐỔI

đốt của biên kịch và đạo diễn NSND Đặng
Nhật Minh được chuyển thể từ cuốn nhật ký
bán chạy nhất năm 2006 của liệt sĩ Đặng Thùy
Trâm; Tuổi thơ dữ dội của tác giả Phùng Quán
được biên kịch và đạo diễn bởi NSƯT Nguyễn
Vinh Sơn; bộ phim Mùa len trâu (Biên kịch và
đạo diễn: Nguyễn Võ Nghiêm Minh) được xây
dựng dựa trên hai truyện Một cuộc đời bể dâu
và Mùa len trâu trong tập Hương rừng Cà Mau
của nhà văn Sơn Nam,…
Trọng tâm của mơ hình này là tăng sự sử
dụng của khách hàng bằng các dịch vụ nội
dung ngày càng tăng (thay vì các sản phẩm và
số lượng bản in hoặc phiên bản điện tử xuất
bản phẩm) và tăng cường kết nối với khách
hàng và đối tác. Các Hội chợ sách trong nước
và quốc tế ngày càng được tổ chức thường
xuyên, tạo điều kiện cho các tập đoàn xuất

bản, in, phát hành ngoài nước, các đơn vị trong
nước như nhà xuất bản, cơ sở in, cơng ty, nhà
sách có điều kiện quảng bá, giới thiệu, trao
đổi mua bán sách, bản quyền sách, thúc đẩy
các dịch vụ nội dung sách phát triển mang lại
những giá trị/chuỗi giá trị mới trong các ngành
cơng nghiệp văn hóa và văn minh tiêu dùng
văn hóa hiện nay.
Dựa trên nền tảng và phát triển của khoa
học, kỹ thuật và công nghệ, công nghệ xuất
bản và cơng nghệ kinh doanh có sự chuyển
biến về mơ hình và quy trình xuất bản, sự xuất
hiện sách điện tử và các thiết bị đọc sách điện
tử, phương thức xuất bản mới, sử dụng kênh
truyền thông đa phương tiện, công nghệ quản
lý, quản trị nhà xuất bản, quản trị mạng lưới
bán hàng… Nhu cầu thị hiếu và sự thỏa mãn
nhu cầu về sản phẩm và dịch vụ bán hàng của
nhà xuất bản, các doanh nghiệp kinh doanh
xuất bản phẩm trên thị trường thay đổi, địi hỏi
các quy trình tác nghiệp phải thay đổi cho phù
hợp, khơng chỉ địi hỏi sự thay đổi của các quy
trình hoạt động trong mơi trường internet mà
ngay cả các quy trình tác nghiệp truyền thống
cũng địi hỏi thay đổi để kịp thời thích ứng với
tình hình và bối cảnh mới.
CMCN 4.0 đã tác động trực tiếp đến nguồn
nhân lực của hoạt động xuất bản hiện nay.
Những yêu cầu cơ bản đối với đội ngũ cán bộ
quản lý và làm nghề chính là năng lực chun

mơn, bên cạnh sự đòi hỏi cao về năng lực
Số 24 - Tháng 6 - 2018

ngoại ngữ và tin học để có thể tiếp cận và ứng
dụng cơng nghệ thơng tin trong hoạt động
quản lý và chuyên môn tương ứng với các vị
trí việc làm trong các nhà xuất bản, các doanh
nghiệp phát hành. Việc tách bạch khâu in (vốn
được coi đơn thuần là khâu công nghệ, kỹ
thuật) như lâu nay cũng cần phải nhìn nhận
thấu đáo, khi mà hoạt động xuất bản trong bối
cảnh CMCN 4.0 với các nền tảng Dữ liệu lớn,
Internet kết nối vạn vật… thì xuất bản trực tiếp
sẽ là một tất yếu khách quan. Từ đó công nghệ
quản lý từ quản lý nhà nước đến quản trị nhà
xuất bản và quản trị doanh nghiệp phát hành
cũng phải thay đổi. Nhân lực điều hành và trực
tiếp thực hiện các công việc trên cần được đào
tạo mới, đào tạo lại nhằm trang bị những kiến
thức và kỹ năng cần thiết đáp ứng các yêu cầu
của hoạt động thực tiễn đặt ra.
2. Yêu cầu đối với công tác đào tạo cán bộ
xuất bản, phát hành hiện nay
Đối với công tác đào tạo - khâu then chốt
quyết định chất lượng nguồn nhân lực đáp
ứng nhu cầu tuyển dụng của ngành và xã hội
trong bối cảnh CMCN 4.0, cần có sự đổi mới
mạnh mẽ:
- Thứ nhất, cập nhật điều chỉnh, bổ sung mục
tiêu, nội dung chương trình đào tạo phù hợp với

những thay đổi và phát triển của các cơ quan,
tổ chức, doanh nghiệp xuất bản, phát hành
trong hoạt động thực tiễn và xu hướng phát
triển chung của ngành công nghiệp xuất bản
thế giới.
+ Xây dựng nội dung, mục tiêu chương
trình đào tạo phải gắn với chuẩn đầu ra và
vị trí việc làm của nhà tuyển dụng. Một mặt,
bổ sung những mơn học/học phần mới vào
chương trình đào tạo, thay thế cho những
mơn học/nghiệp vụ cũ, lạc hậu khơng cịn đáp
ứng trong thực tiễn công tác. Mặt khác, trong
từng môn học/học phần cụ thể của chương
trình đào tạo cần thường xuyên cập nhật, bổ
sung kiến thức, kỹ năng mới cho phù hợp với
sự phát triển của thực tiễn xuất bản.
+ Trong chương trình đào tạo cần chú trọng
chương trình thực tập nghề nghiệp cho sinh
viên. Xây dựng nội dung, yêu cầu của chương
trình thực tập đảm bảo tính khoa học, phù hợp
gắn kết mục tiêu đào tạo của nhà trường với

VĂN HÓA
NGHIÊN CỨU

101


VĂN HÓA
NGHIÊN CỨU


mục tiêu tuyển dụng của doanh nghiệp; đảm
bảo thời lượng của chương trình thực tập, để
người học có đủ thời gian học/thực hành thực
tế công việc chuyên môn; thao tác, rèn luyện,
bồi dưỡng kỹ năng nghiệp vụ chuyên môn
trong thực tiễn.
+ Đối với các môn học/học phần trong
chương trình đào tạo, khi thiết kế đề cương/
bài giảng hoặc giáo trình cần hướng tới mục
tiêu đào tạo nghề, tăng cường khả năng làm
nghề của người học; Tăng cường thời lượng
thảo luận, bài tập tình huống trên lớp, bài tập
thực hành trực tiếp tại cửa hàng, doanh nghiệp
của các môn học trong chương trình đào tạo.
+ Trong những điều kiện nhất định, xây
dựng/thiết kế chương trình đào tạo cần tham
khảo và dựa trên một số khung chương trình
đào tạo chuẩn quốc tế cùng lĩnh vực nhằm
tạo sự đồng bộ về yêu cầu kiến thức kỹ năng,
loại hình cán bộ, vị trí việc làm của các chương
trình đào tạo; cơ hội tuyển dụng của doanh
nghiệp và việc làm của người học sau khi ra
trường trên thị trường tuyển dụng lao động
trong và ngoài nước.
- Thứ hai, phương pháp giảng dạy và đánh
giá năng lực sinh viên cần được chú trọng trong
từng mơn học đến tổng thể chương trình đào
tạo. Các hoạt động đào tạo tập trung theo
hướng đào tạo ứng dụng, đào tạo kỹ năng

làm nghề, thao tác nghề nghiệp bên cạnh việc
người học được tiếp cận hệ thống cơ sở lý luận
nghiệp vụ của ngành đào tạo. Gắn kết hoạt
động đào tạo và nghiên cứu khoa học của nhà
trường với doanh nghiệp - nơi sử dụng nguồn
nhân lực được đào tạo của nhà trường. Thu
hút sự tham gia và cống hiến của đội ngũ các
nhà khoa học, các chuyên gia trong lĩnh vực
nhằm nâng cao chất lượng hoạt động đào
tạo và chuyển giao kết quả nghiên cứu khoa
học ứng dụng trong hoạt động của nhà xuất
bản, các đơn vị phát hành; Đối với thời lượng
thực hành, xử lý tình huống thực tế trong mỗi
mơn học/học phần trong chương trình đào
tạo cần tranh thủ sự tham gia đào tạo của các
nhà chuyên môn, các doanh nghiệp trực tiếp
tổ chức hoạt động chuyên môn nghiệp vụ, kết
quả học tập của người học sẽ hiệu quả hơn rất
nhiều.
102

Số 24 - Tháng 6 - 2018

- Thứ ba, phối kết hợp chặt chẽ với các tổ chức
chính trị, đồn thể như Đồn thanh niên, Hội
sinh viên, Câu lạc bộ định hướng nghề nghiệp,
Câu lạc bộ truyền thông… của nhà trường tổ
chức các hoạt động định hướng nghề nghiệp,
bồi dưỡng tăng cường kỹ năng mềm giúp
sinh viên có nhận thức đầy đủ và định hướng

nghề nghiệp rõ ràng trong quá trình học tập
và rèn luyện ở trường. Mặt khác sinh viên có
khả năng tự xây dựng kế hoạch, lộ trình, chủ
động thời gian học tập và tốt nghiệp ra trường
cũng như khả năng tự định lượng và trau dồi
những kiến thức kỹ năng cơ bản, cần thiết của
ngành đào tạo, không bỡ ngỡ, lúng túng với
công việc thực tế sau khi tốt nghiệp.
- Thứ tư, một trong những yêu cầu của công
tác đào tạo trong bối cảnh CMCN 4.0 hiện nay,
đồng thời là yếu tố mang tính điều kiện then
chốt cho sự thành cơng của cơng tác đào tạo
chính là đội ngũ cán bộ quản lý giỏi và giảng
viên trình độ cao. Họ là trung tâm có tính quyết
định mọi hoạt động của nhà trường (từ việc
xây dựng chương trình đào tạo, xác định đúng
mục tiêu đào tạo, thiết kế nội dung chương
trình đào tạo sát hợp với thực tiễn nhu cầu vị
trí việc làm xã hội cần)… Trong đó, vai trị của
người thầy vơ cùng quan trọng, thầy phải là
tấm gương sáng về đạo đức, lối sống và năng
lực chuyên môn cho người học. Giảng viên
phải ln có ý thức tự học hỏi, trao dồi và cập
nhật kiến thức, nâng cao năng lực và trình độ
chun mơn bên cạnh việc gìn giữ phẩm chất
đạo đức của nhà giáo…
Nâng cao năng lực và trình độ chuyên mơn
của đội ngũ cán bộ giảng viên là một địi hỏi
tất yếu và cấp bách hiện nay, bên cạnh yêu
cầu chuẩn hóa về năng lực tin học và ngoại

ngữ giúp người dạy có thể xử lý và đáp ứng
tốt các cơng tác chun mơn của ngành đào
tạo hiện nay. Vì vậy chuẩn hóa đội ngũ cán bộ
giảng viên trình độ cao là công việc cấp bách
trong bối cảnh hiện tại, cần phải thực hiện
ngay thông qua công tác đào tạo và tự đào
tạo trong và ngồi nước; cơng tác nghiên cứu
khoa học và tự nghiên cứu theo hướng nghiên
cứu chuyên sâu của các lĩnh vực chuyên môn
sâu của ngành đào tạo.


TRAO ĐỔI

Cần có sự kết hợp chặt chẽ giữa nhà trường
với doanh nghiệp và hợp tác quốc tế trong
khu vực và thế giới về cơng tác đào tạo nói
chung, cơng tác đào tạo và nâng cao trình độ
đội ngũ giảng viên của ngành đào tạo xuất
bản nói riêng.
- Thứ năm, cơ sở hạ tầng, trang thiết bị phục
vụ công tác đào tạo cũng là yếu tố không kém
phần quan trọng hỗ trợ tích cực cho sự nghiệp
đào tạo. Trong bối cảnh CMCN 4.0, nền tảng
công nghệ và môi trường internet kết nối vạn
vật, các cơ sở đào tạo cần đầu tư đủ hiện đại
hệ thống phịng học có máy tính kết nối mạng
internet, máy chiếu và các điều kiện vật chất
khác đảm bảo tốt cho việc chuyển giao, kiểm
chứng kiến thức, trao đổi, thảo luận và trình

bày, đánh giá ý tưởng sáng tạo của sinh viên/
nhóm sinh viên một cách công khai minh
bạch; tạo sự hứng thú và hiệu quả trong q
trình dạy và học của cả thầy và trị.
Hệ thống học liệu (bao gồm giáo trình, bài
giảng, tài liệu chuyên khảo, tham khảo) dùng
cho học tập và nghiên cứu cũng cần được
trang bị đầy đủ. Nhà trường cần có lộ trình và
chính sách để khuyến khích giảng viên nghiên
cứu khoa học, thực hiện các cơng trình nghiên
cứu khoa học các cấp, tham gia viết bài đăng
các tạp chí khoa học chun ngành trong và
ngồi nước; viết giáo trình hoặc tài liệu tham
khảo phục vụ môn học do cá nhân đảm nhận;
đặt hàng các chuyên gia trong lĩnh vực viết
giáo trình hoặc tài liệu tham khảo phục vụ các
mơn học của ngành đào tạo.
Xây dựng một cơ sở thực hành hiện đại của
ngành đào tạo. Một nhà sách chuẩn kiểu mẫu
được trang bị các trang thiết bị kỹ thuật hiện
đại phục vụ việc thực hành, tác nghiệp trực
tiếp các nghiệp vụ kinh doanh đầu vào, đầu
ra và tổ chức quản lý của quy trình hoạt động
xuất bản cho sinh viên của ngành học; Liên
kết chặt chẽ với các nhà sách/công ty/doanh
nghiệp sách trên địa bàn thực hiện đào tạo
mảng thực hành nghiệp vụ cho từng môn học
song hành với các chương trình thực tập nghề
nghiệp trong chương trình đào tạo (bao gồm
thực tập giữa khóa và thực tập tốt nghiệp)


Số 24 - Tháng 6 - 2018

- Thứ sáu, tăng cường công tác hợp tác quốc
tế trong đào tạo, từ việc chuẩn hóa chương
trình đào tạo, chuẩn hóa đội ngũ cán bộ giảng
dạy và các điều kiện cơ sở vật chất phục vụ
đào tạo khác… Thực hiện trao đổi giảng viên,
trao đổi sinh viên giữa các cơ sở đào tạo trong
nước và ngoài nước; giúp các cơ sở đào tạo
trong và ngồi nước có thể trao đổi đào tạo
sinh viên trong cùng khóa học hoặc đào tạo
tiếp ở những bậc học cao hơn của ngành đào
tạo; Mở rộng cơ hội học tập và nghiên cứu cho
người học ở môi trường quốc tế cũng như cơ
hội việc làm hấp dẫn cho người học sau khi
tốt nghiệp trên thị trường lao động trong và
ngoài nước.
CMCN 4.0 hiện nay đang lan tỏa, tác động
mạnh mẽ đến mỗi cá nhân và cả xã hội. Việc
tiếp cận và ứng dụng những thành tựu của
CMCN 4.0 trong thực tiễn hoạt động xuất bản
cũng như công tác đào tạo là một công việc
cần thiết cấp bách nhưng cũng cần có lộ trình
theo từng giai đoạn cụ thể. Song nhận diện
những tác động, cơ hội và thách thức của hoạt
động xuất bản, trong bối cảnh CMCN 4.0, phát
hiện đâu là khâu bị tác động mạnh nhất, vấn
đề gì là then chốt, cốt lõi để hoạt động xuất
bản thích ứng và tiếp tục phát triển là một quá

trình phải giải quyết từng bước, đòi hỏi vai trò
chỉ đạo và quản lý của cơ quan chỉ đạo Đảng,
cơ quan quản lý Nhà nước, vai trò trực tiếp của
các nhà xuất bản, đơn vị in, doanh nghiệp phát
hành.
Đối với cơ sở đào tạo cán bộ xuất bản, phát
hành, bối cảnh mới không chỉ đặt ra các yêu
cầu xoay quanh chương trình đào tạo (thời
lượng, nội dung chương trình, mục tiêu đào
tạo hướng tới) mà còn đặt ra các yêu cầu đồng
bộ về các điều kiện đảm bảo thực hiện chương
trình đào tạo (năng lực của đội ngũ cán bộ
giảng dạy, hệ thống học liệu giáo trình, cơ sở
vật chất, trang thiết bị máy móc phục vụ q
trình đào tạo, cơng tác quản lý điều hành đào
tạo…), yêu cầu về hợp tác đào tạo với doanh
nghiệp nhằm nâng cao tính ứng dụng và thực
tiễn của chương trình đào tạo.
CMCN 4.0 đã thổi một luồng gió mới, đặt
nền tảng bước đầu, cơ hội đổi mới và phát
triển sự nghiệp đào tạo cán bộ xuất bản, phát

VĂN HÓA
NGHIÊN CỨU

103


VĂN HÓA
NGHIÊN CỨU


hành trong bối cảnh hiện nay. Đồng thời
CMCN 4.0 cũng đặt ra những thách thức lớn về
sứ mệnh và trách nhiệm đào tạo cán bộ xuất
bản, phát hành của nhà trường trong việc đáp
ứng nguồn nhân lực cao cho các nhà xuất bản,
đơn vị phát hành thời đại 4.0.
Đ.T.Q
(PGS.TS, Trưởng khoa Xuất bản, Phát hành
Trường ĐHVH HN)
Chú thích
Theo Quyết định 1755/QĐ-TTg ngày
08/09/2016 của Thủ tướng Chính phủ về Phê
duyệt Chiến lược phát triển các ngành cơng
nghiệp văn hóa Việt Nam đến năm 2020, tầm
nhìn đến năm 2030, các ngành cơng nghiệp văn
hóa Việt Nam bao gồm: Quảng cáo; kiến trúc;
phần mềm và các trị chơi giải trí; thủ công mỹ
nghệ; thiết kế; điện ảnh; xuất bản; thời trang;
nghệ thuật biểu diễn; mỹ thuật, nhiếp ảnh và
triển lãm; truyền hình và phát thanh; du lịch văn
hóa trở thành những ngành kinh tế dịch vụ quan
trọng,…; Theo />cơng_nghiệp_văn_hóa, Cơng nghiệp văn hóa
gồm Cơng nghiệp giải trí, Cơng nghiệp âm nhạc,
Cơng nghiệp điện ảnh, Cơng nghiệp truyền
hình, Cơng nghiệp thể thao, Công nghiệp xuất
bản, Công nghiệp du lịch, Công nghiệp sáng tạo.
Hàng hóa sáng tạo (Creative goods) gồm: Thiết
kế (Design), Sản phẩm nghệ thuật và thủ công
mỹ nghệ (Arts and Crafts), Sản phẩm nghệ thuật

thị giác (Visual Arts), Xuất bản (Publishing), Âm
nhạc (Music), Ứng dụng truyền thông mới (New
media), Sản phẩm nghe nhìn) và Dịch vụ sáng tạo
và nhượng quyền(Creative services and royalties)
gồm: Dịch vụ giải trí và nghệ thuật biểu diễn, Âm
nhạc; Dịch vụ xuất bản, Dịch vụ nghe nhìn và các
dịch vụ có liên quan, Phim ảnh, Thiết kế, Quảng
cáo nghiên cứu thị trường và dịch vụ quần chúng
(EBOPS 278, l.3), Dịch vụ kiến trúc, cơng trình và
các dịch vụ kỹ thuật khác (EBOPS 280, l.3), Dịch
vụ nghiên cứu và phát triển (EBOPS 279, l.3), Dịch
vụ cá nhân, văn hóa và giải trí (EBOPs 287, l. 1),
Chi phí nhượng quyền thương mại. (theo https://
vi.wikipedia.org/wiki/công_nghiệp_sáng_tạo).
2
Khoản 4, 9 và 10 điều 4 Luật Xuất bản số
19/2012/QH13 đã quy định: “4. Xuất bản phẩm
là tác phẩm, tài liệu về chính trị, kinh tế, văn hóa,
xã hội, giáo dục và đào tạo, khoa học, công nghệ,
văn học, nghệ thuật được xuất bản thông qua
nhà xuất bản hoặc cơ quan, tổ chức được cấp
1

104

Số 24 - Tháng 6 - 2018

giấy phép xuất bản bằng các ngơn ngữ khác
nhau, bằng hình ảnh, âm thanh và được thể hiện
dưới các hình thức sau đây:

a) Sách in;
b) Sách chữ nổi;
c) Tranh, ảnh, bản đồ, áp-phích, tờ rời, tờ gấp;
d) Các loại lịch;
đ) Bản ghi âm, ghi hình có nội dung thay sách
hoặc minh họa cho sách”
9. Xuất bản phẩm điện tử là xuất bản phẩm
quy định tại các điểm a, c, d, đ khoản 4 Điều
này được định dạng số và đọc, nghe, nhìn bằng
phương tiện điện tử
10. Phương tiện điện tử là phương tiện hoạt
động dựa trên cơng nghệ điện, điện tử, kỹ thuật
số, từ tính, truyền dẫn không dây, quang học,
điện từ hoặc công nghệ tương tự quy định tại
khoản 10 Điều 4 của Luật giao dịch điện tử”.
3
Quy định tại Điều 3 Luật Xuất bản: Vị trí mục
đích của hoạt động xuất bản.
Tài liệu tham khảo
1. Chỉ thị 16/CT-TTg ngày 04/05/2017 của
Chính phủ về Tăng cường năng lực tiếp cận cuộc
cách mạng công nghiệp lần thứ 4.
2. Phan Xuân Dũng (2018), Cách mạng công
nghiệp lần thứ tư. Cuộc cách mạng của sự hội tụ và
tiết kiệm, Nxb. Khoa học và Kỹ thuật, Hà Nội.
3. Trần Thị Vân Hoa (2017), Cách mạng công
nghiệp 4.0. Vấn đề đặt ra cho phát triển kinh tế - xã
hội và hội nhập quốc tế của Việt Nam, Nxb. Chính
trị Quốc gia Sự thật, Hà Nội.
4. Khoa Xuất bản, Phát hành - Trường Đại học

Văn hóa Hà Nội (2018), “Đào tạo cán bộ xuất bản,
phát hành trong bối cảnh cách mạng công nghiệp
4.0”, Kỷ yếu Hội thảo khoa học, tháng 6, Hà Nội
5. Nguyễn Mạnh Hùng - Tổng Giám đốc Tập
đồn Viettel (2018), Bài phát biểu về Cách mạng
cơng nghiệp 4.0 tại Hội nghị Khoa học Đào tạo
nguồn nhân lực chất lượng cao trong thời kỳ Cách
mạng công nghiệp 4.0 do trường Đại học Công
nghiệp Hà Nội tổ chức ngày 26/2/2018 tại Hà Nội.
Ngày nhận bài: 26 - 5 - 2017
Ngày phản biện, đánh giá: 15 - 6 - 2018
Ngày chấp nhận đăng: 25 - 6 - 2018


TIN TỨC - SỰ KIỆN

Điểm tin Hội thảo khoa học cấp Khoa trường ĐHVH HN năm học 2017-2018
* Hội thảo khoa học “Đổi mới đào tạo Ngành Quản lý Văn hóa” do Khoa Quản lý Văn hóa Nghệ
thuật tổ chức ngày 11/4/2018, nội dung chủ yếu xoay quanh một số vấn đề đang thu hút sự quan
tâm của giảng viên và sinh viên hiện nay như: nhu cầu cấp thiết cần tiến hành đổi mới ngành Quản
lý Văn hóa trong bối cảnh Đổi mới và Hội nhập quốc tế; những kinh nghiệm xây dựng nâng cao
chất lượng chương trình đào tạo ngành QLVH, phương pháp nghiên cứu, giảng dạy tích cực, nâng
cao năng lực tự học, tự nghiên cứu cho sinh viên; đánh giá, kiểm tra để đổi mới, nâng cao chất
lượng đào tạo sinh viên ngành Quản lý Văn hóa, đáp ứng nguồn nhân lực Quản lý Văn hóa cho xã
hội; kết nối đào tạo các tổ chức, đơn vị văn hóa nghệ thuật và các tổ chức xã hội…
* Hội thảo khoa học “Nâng cao chất lượng đào tạo chuyên ngành đạo diễn sự kiện” do khoa Nghệ
thuật Đại chúng tổ chức ngày 18/4/2018. Nội dung các ý kiến trao đổi trong Hội thảo tập trung
vào một số vấn đề sau: đánh giá khung chương trình đào tạo của chuyên ngành Đạo diễn sự kiện
hiện nay đã khá đầy đủ và phù hợp với sinh viên, cần bổ sung thêm một số mơn như: Kinh tế học
văn hóa, Thiết kế quảng cáo hay Âm thanh, ánh sáng, thiết kế sự kiện... Các chuyên gia cũng nhấn

mạnh: làm nghề sự kiện, sinh viên phải luôn được đi thực hành, thực tế cả ở bên trong và bên
ngoài nhà trường thì mới tự tích lũy được các bài học cho bản thân, do đặc thù này nên khi còn học
tập trong trường thì các thầy cơ cũng cần bổ sung thêm mơn học hay các buổi nói chuyện chun
đề liên quan đến vấn đề quản lý và xử lý rủi ro cho sinh viên.
* Hội thảo khoa học “Nâng cao chất lượng điều tra, nghiên cứu thực địa của giảng viên” do Khoa
Văn hóa dân tộc thiểu số tổ chức ngày 24/4/2018 đã nhận được sự tham gia của đông đảo giảng
viên và các chuyên gia trong ngành. Các tham luận tập trung vào các vấn đề sau: Thực trạng, vai
trò nghiên cứu khoa học đối với nâng cao chất lượng giảng dạy của giảng viên; Kinh nghiệm hoà
nhập cộng đồng ở địa bàn điền dã; Tầm quan trọng, kỹ năng sử dụng ngôn ngữ bản tộc trong
nghiên cứu điền dã; Xây dựng đề cương, khung phỏng vấn sâu, bảng hỏi,... (các công cụ) thu thập
dữ liệu ở thực địa; Kỹ năng lựa chọn đối tượng phỏng vấn, điều tra bảng hỏi... ở địa bàn điền dã; Kỹ
năng xử lý dữ liệu, chuẩn bị viết báo cáo khoa học; Kinh nghiệm, kỹ năng viết báo cáo khoa học....
Xen kẽ với những báo cáo là trao đổi, thảo luận giữa giảng viên và các nhà nghiên cứu về kinh
nghiệm điền dã, những lưu ý khi nghiên cứu vùng đồng bào dân tộc thiểu số, vấn đề nâng cao
chất lượng nghiên khoa học, đặc biệt là cứu thực địa của giảng viên (mở lớp học ngắn hạn tại thực
địa cho giảng viên có sự hướng dẫn của các chuyên gia giàu kinh nghiệm; xây dựng cẩm nang điền
dã; xây dựng đề cương và công tác chuẩn bị trước khi đi nghiên cứu điền dã… ). Hội thảo cũng đề
cập đến vấn đề làm thế nào để truyền và nuôi dưỡng ngọn lửa đam mê nghiên cứu thực địa cho
giảng viên trẻ cũng như việc đẩy mạnh phong trào NCKH cho giảng viên trong nhà trường.
* Tọa đàm khoa học “Biến đổi cấu trúc gia đình - So sánh liên châu lục” do Khoa Gia đình và Cơng
tác xã hội tổ chức ngày 4/5/2018. Nội dung các ý kiến trao đổi trong Hội thảo tập trung vào hai vấn
đề sau: Những thách thức của CNH-HĐH, hội nhập tới cấu trúc gia đình (quá trình CNH-HĐH và
hội nhập làm biến đổi cấu trúc gia đình truyền thống, địi hỏi việc nghiên cứu, nhận diện những
hình thái mới với các cấu trúc - chức năng mới để thích ứng với các điều kiện ngoại cảnh, đồng thời
quá trình này cũng tạo ra những xung đột, khi các biến đổi từ gia đình chưa kịp điều tiết để thích
ứng với sự vận động quá nhanh của xã hội); Những điểm mới trong nghiên cứu gia đình (nghiên
cứu sự vận động, biến đổi của cấu trúc gia đình tại một số quốc gia, vùng miền trên thế giới với
những đặc điểm chung, những dị biệt… để đối chiếu, so sánh với hiện trạng ở Việt Nam giúp chia
sẻ kinh nghiệm nghiên cứu, hướng tiếp cận và gợi mở các điểm mới trong khoa học về gia đình).
Những vấn đề được nêu và thảo luận trong Hội thảo đã giúp Trường Đại học Văn hóa Hà Nội, Khoa

Gia đình và Cơng tác xã hội nhìn nhận sâu sắc hơn về sự vận động của cấu trúc gia đình trong sự
biến chuyển xã hội, cũng như có thêm những kinh nghiệm, phương pháp, cách tiếp cận mới trong

VĂN HÓA
NGHIÊN CỨU

Số 24 - Tháng 6 - 2018

105


VĂN HĨA
NGHIÊN CỨU

nghiên cứu gia đình, từ đó góp phần hội nhập vào môi trường học thuật của thế giới, nâng cao vị
thế của Trường, Khoa và từng bước phát triển, hồn thiện để đáp ứng những địi hỏi mới của xã
hội trong đào tạo nguồn nhân lực quản lý về gia đình và cơng tác xã hội.
* Hội thảo khoa học “Đào tạo cán bộ xuất bản, phát hành trong bối cảnh cách mạng công nghiệp
4.0” do Khoa Xuất bản - Phát hành tổ chức ngày 5/6/2018. Nội dung của Hội thảo tập trung vào
các vấn đề: Nhận diện về CMCN 4.0; Những tác động của CMCN 4.0 đối với hoạt động xuất bản
hiện nay; Cơ hội và thách thức của CMCN 4.0 đối với hoạt động xuất bản hiện nay; Những vấn đề
cấp bách do yêu cầu của CMCN 4.0 đang đặt ra với công tác đào tạo cán bộ xuất bản, phát hành;
Yêu cầu đào tạo về kiến thức và kĩ năng trong chương trình đào tạo ngành Kinh doanh XBP thời
đại CMCN 4.0; Ứng dụng công nghệ 4.0 trong giảng dạy, đào tạo cán bộ xuất bản, phát hành hiện
nay; Bổ sung, hồn thiện chương trình đào tạo/môn học phù hợp với nhu cầu doanh nghiệp và
thị trường lao động trong bối cảnh CMCN 4.0; Giải pháp nâng cao chất lượng đào tạo cán bộ xuất
bản, phát hành trong bối cảnh CMCN 4.0.
* Hội thảo khoa học “Mối liên hệ giữa cơ sở đào tạo với xã hội trong đào tạo nhân lực du lịch ở Việt
Nam hiện nay” do Khoa Văn hóa Du lịch tổ chức ngày 15/6/2018. Đặc điểm đào tạo nhân lực du lịch
hiện nay là đào tạo theo nhu cầu và yêu cầu xã hội, với phương châm đó, khoa VHDL ln đặt ra

những yêu cầu trong kế hoạch đào tạo, liên hệ chặt chẽ giữa lý thuyết với thực tiễn hoạt động du
lịch ở Việt Nam hiện nay. 15 tham luận trình bày tại hội thảo với các nội dung: Vai trò của cơ quan
quản lý nhà nước trong đào tạo du lịch; Mối liên hệ giữa cơ sở đào tạo với xã hội trong đào tạo
nhân lực du lịch ở Việt Nam hiện nay; Ứng dụng mạng xã hội trong quảng bá hình ảnh cơ sở đào
tạo nguồn nhân lực; Hoạt động đào tạo, quản lý hướng dẫn viên du lịch; Liên kết giữa nhà trường
và daonh nghiệp khách sạn trong đào tạo nguồn nhân lực du lịch...
* Hội thảo khoa học “Bảo tàng với việc bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa phi vật thể” do
Khoa Di sản văn hóa tổ chức ngày 19/06/2018 đã thu hút sự tham gia của các nhà nghiên cứu và
giảng dạy chuyên ngành bảo tàng học, các nhà quản lý bảo tàng, những cán bộ chuyên môn hiện
đang công tác tại các bảo tàng. Hội thảo là nơi các nhà nghiên cứu chia sẻ những kinh nghiệm,
những trăn trở và nhận thức mới về vai trò của bảo tàng trong việc bảo tồn và phát huy giá trị văn
hóa phi vật thể. Đa số các chuyên gia đều thống nhất ý kiến khi bàn về thực trạng nguồn nhân lực
tham gia công tác bảo tồn và phát huy di sản văn hóa phi vật thể ở các địa phương còn nhiều hạn
chế, cần được nâng cao nhận thức, trau dồi chun mơn hơn về di sản văn hóa phi vật thể. Thực
tế hiện nay, các bảo tàng tỉnh, địa phương thường chú trọng đến việc sưu tầm, nghiên cứu, trưng
bày hiện vật thể khối, mảng trưng bày văn hóa phi vật thể còn nhiều bất cập, hạn chế. Do vậy, Bảo
tàng cần có nhận thức mới về vấn đề nghiên cứu, sưu tầm, trưng bày văn hóa phi vật thể, thực hiện
xây dựng các chương trình bảo tồn, phát huy giá trị di sản văn hóa phi vật thể tại Bảo tàng hướng
đến công chúng.
Hội thảo khoa học “Ý nghĩa và giá trị trường tồn của Đề cương văn hóa Việt Nam năm 1943”
Sáng ngày 17/5/2018, tại hội trường nhà D, Trường Đại học Văn hóa Hà Nội đã tổ chức Hội thảo
khoa học “Ý nghĩa và giá trị trường tồn của Đề cương văn hóa Việt Nam năm 1943”. Đây là hoạt động
khoa học hướng tới kỉ niệm 75 năm Đề cương văn hóa Việt Nam, nhằm ơn lại và nhìn nhận rõ hơn
giá trị, ý nghĩa, tác dụng định hướng của bản Đề cương, qua đó nhận thức đúng hơn về vai trị
của văn hóa trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong giai đoạn hiện nay. Tinh thần của
Hội thảo đã thu hút sự quan tâm của đông đảo cán bộ, giảng viên và các nhà nghiên cứu trong và
ngoài trường.
Hội thảo đã nhận được hơn 40 bài tham luận cùng nhiều ý kiến của các đồng chí lãnh đạo, các
nhà khoa học, các nhà nghiên cứu. Nội dung các tham luận đã làm rõ được những vấn đề về bối


106

Số 24 - Tháng 6 - 2018


TIN TỨC - SỰ KIỆN

cảnh lịch sử ra đời bản Đề cương văn hóa Việt Nam 1943; những giá trị tạo nền tảng cho quá trình
xây dựng và phát triển tư duy lý luận về văn hóa của Đảng; sự vận dụng Đề cương văn hóa Việt
Nam 1943 vào việc xây dựng nền văn hóa Việt Nam qua các thời kì lịch sử; từ những giá trị định
hướng trường tồn, tác dụng dẫn dắt soi đường của Đề cương văn hóa Việt Nam, suy nghĩ về trách
nhiệm và nghĩa vụ cống hiến của các thế hệ cán bộ văn hóa đối với sự nghiệp xây dựng, phát triển
nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc trong giai đoạn mới…
Hội thảo cũng đã nhận được những ý kiến trao đổi sôi nổi từ những chuyên gia, các nhà nghiên
cứu nhằm gợi mở một số cách tiếp cận mới trong việc nghiên cứu Đề cương văn hóa Việt Nam năm
1943, trong đó chú ý đến việc nhìn nhận theo tư duy của chủ nghĩa duy vật lịch sử để đánh giá
đúng giá trị của bản Đề cương. Các ý kiến trao đổi cũng tập trung vào việc khẳng định giá trị lịch
sử, giá trị khoa học và vai trị định hướng, đặt nền móng cho sự phát triển lý luận về văn hóa Việt
Nam trong suốt 75 năm qua và sự vận dụng tư tưởng của Đề cương văn hóa Việt Nam trong q
trình xây dựng nền văn hóa dân tộc.
Tọa đàm khoa học: “Cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 và những vấn đề đặt ra đối với cơng
tác đào tạo nguồn nhân lực văn hóa, thể thao và du lịch”
Sáng ngày 19/6/2018 tại Hội trường nhà D - Trường Đại học Văn hóa Hà Nội đã diễn ra tọa
đàm khoa học “Cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 và những vấn đề đặt ra đối với công tác đào tạo
nguồn nhân lực văn hóa, thể thao và du lịch”.
Tại tọa đàm, các tham luận đã tập trung làm rõ những đặc trưng, nền tảng của CMCN 4.0. Trong
đó, vai trị của khoa học và cơng nghệ được tập trung phân tích để làm bật lên bản chất của CMCN
4.0 so với các cuộc cách mạng công nghiệp diễn ra trước đó trong lịch sử nhân loại, đặc biệt là
trong đối sánh với CMCN 3.0 diễn ra vào thập niên 1970. Tác động của CMCN 4.0 tới đào tạo nguồn
nhân lực văn hóa, thể thao và du lịch là nội dung chủ yếu, được bàn luận từ những vấn đề chung

nhất tới những tác động cụ thể, gắn với thực tế đào tạo nguồn nhân lực ngành văn hóa, thể thao
và du lịch tại Trường Đại học Văn hóa Hà Nội. Từ việc nhận định bản chất CMCN 4.0, các tham luận
cùng với các ý kiến đóng góp tại tọa đàm đã chỉ ra những xu thế thay đổi trong việc làm và các kĩ
năng cần thiết trong tương lai, trong bối cảnh robot với trí tuệ nhân tạo có khả năng thay thế con
người trong nhiều cơng việc/giai đoạn trong chu trình sản xuất.
Trong lĩnh vực văn hóa, các dự báo từ những tác động của CMCN 4.0 trong các tham luận cho
thấy, ngành này không nằm ngồi vịng xốy của “cơn lốc” khoa học và cơng nghệ đang làm xóa
nhịa đi ranh giới giữa ảo và thực, tạo ra những nền tảng sản xuất vật chất mới và những thách
thức khơng hề nhỏ trong việc gìn giữ và khẳng định bản sắc. Bởi vậy, ngoài việc phân tích những
tác động tới nguồn nhân lực các ngành nghề trong tương lai nói chung, nhân lực ngành văn hóa,
thể thao và du lịch nói riêng, các tham luận đã hướng sự chú ý vào phân tích tình hình thực tiễn
trong công tác đào tạo tại Trường Đại học Văn hóa Hà Nội nhằm gợi mở, đề đạt những giải pháp
về chiến lược đầu tư, những giải pháp cụ thể để tạo thế chủ động thích ứng với CMCN 4.0. Nhìn
chung, khi bàn tới tác động của CMCN 4.0 tới nhân lực ngành văn hóa, thể thao và du lịch, các
tham luận và các ý kiến đóng góp tập trung phần lớn vào việc phân tích tác động của các yếu tố
công nghệ và ứng dụng công nghệ vào cơng tác giảng dạy, đào tạo.
Bên cạnh đó, việc phân tích xu hướng thị trường lao động, các kĩ năng cần thiết để đáp ứng
nhu cầu của việc làm trong tương lai cũng là một vấn đề được lưu tâm. Qua những tham luận và ý
kiến đóng góp, tọa đàm đã hệ thống được những tri thức về CMCN 4.0 để nhận diện bản chất của
cuộc cách mạng này, từ đó có cách tiếp cận trước những cơ hội và thách thức mà CMCN 4.0 đặt ra
đối với việc đào tạo nhân lực ngành văn hóa, thể thao và du lịch nói chung và đối với Trường Đại
học Văn hóa Hà Nội nói riêng trong việc định hướng, xây dựng và đổi mới chương trình giảng dạy
nhằm đáp ứng nhu cầu mới của xã hội.

VĂN HÓA
NGHIÊN CỨU

Số 24 - Tháng 6 - 2018

107




×