VĂN HĨA
NGHIÊN CỨU
TƠN GIÁO TÍN NGƯỠNG VỚI SỰ HÌNH THÀNH LỐI SỐNG
CỦA CÁC TỘC NGƯỜI TẠI CHỖ Ở TÂY NGUYÊN
NGUYỄN THỊ N
Tóm tắt
Tín ngưỡng đa thần và vạn vật hữu linh đã góp phần hình thành nên lối sống canh tác nông nghiệp
nương rẫy - một lối sống đặc trưng bao trùm lên toàn bộ đời sống các tộc người tại chỗ vùng Tây
Nguyên mà nổi bật là lối sống cố kết và tương trợ trong cộng đồng. Từ sau năm 1975, sự chuyển đổi về
chính trị, kinh tế và văn hóa xã hội cùng các yếu tố ngoại sinh đã góp phần làm thay đổi dần lối sống
cổ truyền của họ mà biểu hiện là sự nhạt dần lối sống canh tác nương rẫy, là sự tiếp nhận lối sống gắn
kết dịng họ từ tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên của người Kinh, là sự tiếp thu lối sống công nghiệp do ảnh
hưởng từ các tôn giáo của người phương Tây. Điều này cho thấy lối sống của các tộc người Tây Nguyên
đang trong quá trình chuyển đổi với nhiều sắc thái đa dạng và phức tạp, thể hiện sự vận động tất yếu
của quá trình giao lưu văn hóa nói chung và tơn giáo tín ngưỡng nói riêng.
Từ khóa: Tơn giáo tín ngưỡng, lối sống, tộc người tại chỗ Tây Nguyên
Abstract
Polytheism and animism have contributed to the formation of the upland agricultural cultivation
- a characteristic way of life covering all ethnic groups living in the Central Highlands, especially
the cohesion and mutual assistance in the community. Since 1975, the political, economic, cultural
and social transformation and exogenous factors have contributed to the gradual change in their
traditional way of life, manifesting as the fading of the upland farming lifestyle, the reception of the
way of life that connects to the family learnt from the Kinh people’s ancestor worship custom, and the
adoption of the industrial way of life influenced by the religions from the West. This shows that the
way of life of ethnic groups in the Central Highlands is in transition with many diverse and complex
nuances that express the inevitable movement of cultural exchange process in general and religions belief in particular.
Keywords: Religion - belief, way of life, ethnic group in Central Highlands
T
heo một cách hiểu chung nhất, lối
sống được hiểu là những nét điển
hình, được lặp đi lặp lại và định hình
thành phong cách, thói quen trong đời sống
cá nhân, nhóm xã hội, dân tộc, hay là cả một
nền văn hóa (11). Từ giới thuyết như vậy, tơn
giáo tín ngưỡng với tư cách là một thành tố
văn hóa sẽ được chúng tơi xem xét trong mối
quan hệ với sự hình thành lối sống của các
tộc người tại chỗ Tây Nguyên trong truyền
thống và trong cuộc sống đương đại. Ở đây,
khái niệm lối sống của các tộc người tại chỗ
Tây Nguyên sẽ được xem xét dưới góc độ là lối
sống của nhóm tộc người.
28
Số 24 - Tháng 6 - 2018
1. Tơn giáo tín ngưỡng với sự hình thành lối
sống cổ truyền của các tộc người tại chỗ ở
Tây Nguyên
Chúng ta biết rằng, trong suốt một thời gian
dài, tín ngưỡng đa thần và vạn vật hữu linh đã
hiện diện trong đời sống của các tộc người tại
chỗ ở Tây Ngun, góp phần hình thành nên
lối sống canh tác nông nghiệp nương rẫy - một
lối sống đặc trưng mà một số nhà nghiên cứu
gọi là “nếp sống nương rẫy” vốn là nếp sống
chủ đạo, bao trùm lên toàn bộ các tộc người
trong vùng Tây Nguyên (7, tr.249-250). Cho
đến trước năm 1975, lối sống này vẫn cịn khá
phổ biến ở Tây Ngun. Có thể xem xét sự tác
TƠN GIÁO - TÍN NGƯỠNG
động của tơn giáo tín ngưỡng đối với sự hình
thành lối sống của các tộc người tại chỗ ở Tây
Nguyên qua các biểu hiện sau đây:
1.1. Lối sống cố kết và tương trợ lẫn nhau
trong cộng đồng
Thuộc hình thái xã hội tiền giai cấp nên mối
quan hệ giữa các thành viên trong xã hội cổ
truyền của các tộc người tại chỗ Tây Nguyên là
bình đẳng và có sự gắn kết với nhau bởi nhiều
mối ràng buộc. Điều đó được thể hiện khá rõ
qua việc thực hành nghi lễ, từ các nghi lễ trong
gia đình như cưới xin, tang ma, ăn trâu đến
các nghi lễ trong cộng đồng với sự tham gia
của nhiều người, từ đó góp phần hình thành
nên lối sống gắn kết các thành viên trong
cộng đồng. Ta biết rằng, để thực hiện một
nghi lễ cộng đồng cần sự đóng góp cơng sức
của rất nhiều người thuộc các đối tượng, lứa
tuổi khác nhau trong buôn làng. Ngoài việc
chuẩn bị vật dụng, lễ vật, đồ cúng, sửa sang
nhà rơng, làm và trang trí cây cột lễ,… người
ta cịn phải tham gia đội hình trình diễn nghệ
thuật, nam thì tấu cồng chiêng, nữ thì thuộc
đội hình múa. Đã thành nếp, là việc chung của
làng nên mọi người đều tự giác tham gia hết
mình với tinh thần trách nhiệm và sự nhiệt
tình. Điều đó đã ăn sâu vào nếp sống, trở
thành ý thức của các thành viên trong cộng
đồng từ rất sớm. Chính vì vậy khi viết về văn
hóa dân gian của người Ba Na, có tác giả đã
nhận xét: “Tham gia vào đội hình Soang, hay
đội hình chinh chiêng, trong kết cấu Soang,
là một hoạt động có tính chất nghĩa vụ của
tất cả mọi người. Một thành viên gái 8 đến
10 tuổi, không cần hội đồng già làng chỉ định
đã thấy phải sẵn sàng tham gia đội hình điệu
“Grong Pơsát”, nếu đó là một em gái phát triển
bình thường, khơng bị tật nguyền. Một thành
viên nam nhỏ tuổi ít nhất cũng sẵn sàng có
mặt trong đội hình chinh chiêng…” (6, tr.128).
Người Tây Nguyên vốn có rất nhiều nghi
lễ cộng đồng, ngoài các nghi lễ như lễ bắc
máng nước, lễ cúng nhà rơng,… cịn phải kể
đến hàng loạt các nghi lễ nông nghiệp được tổ
chức trong suốt chu trình sản xuất được diễn
ra quanh năm. Có thể thấy, làm bất cứ việc gì
họ cũng tổ chức cúng thần. Tùy từng tộc người
mà việc tổ chức các nghi lễ nông nghiệp diễn
ra ở phạm vi cộng đồng với mức độ nhiều ít
khác nhau. Chẳng hạn, so với các tộc người
khác thì các nghi lễ nơng nghiệp của người
Số 24 - Tháng 6 - 2018
Ba Na được diễn ra trong phạm vi cộng đồng
nhiều hơn, từ nghi lễ sửa lò rèn, phát rẫy, đốt
rẫy, gieo hạt, cầu mưa,... đến lễ ăn lúa giống
còn lại và lễ mừng năm mới... (10, tr.291-338).
Nhìn chung, nghi lễ nơng nghiệp của các tộc
người vùng Tây Nguyên rất phong phú với
những biểu hiện đa dạng khác nhau ở từng tộc
người. Theo sách Phong tục tập quán cổ truyền
một số dân tộc thiểu số ở Nam Tây Ngun thì
ở đây có tới 21 nghi lễ nơng nghiệp liên quan
đến vịng cây trồng (5, tr.179-270). Đó cũng
chính là mơi trường cho sự hình thành và ni
dưỡng lối sống gắn kết cộng đồng của người
tại chỗ ở Tây Ngun.
Ngồi ra, mơi trường sinh hoạt nghi lễ cịn
góp phần hình thành lối sống đồn kết tương
trợ lẫn nhau trong cộng đồng thể hiện qua sự
giúp đỡ lẫn nhau trong công việc, là sự chia sẻ
hiểu biết về tri thức dân gian, phong tục tập
quán, kỹ năng nghệ thuật,… của các thế hệ
trong cộng đồng.
Có lẽ vì vậy mà chỉ có ở các tộc người Tây
Nguyên mới có các nghi lễ liên quan đến cởi
bỏ kiêng kị và lời khấn trong lễ mừng mùa thu
hoạch với nội dung: xin các thần cho phép
chúng tôi được qua lại rẫy của nhau. Được
phép hái rau, quả trong rẫy của nhau…
Việc đóng góp đồ ăn thức uống để tổ chức
các bữa ăn cộng cảm trong các nghi lễ cộng
đồng cũng là một cách để người ta gắn kết
cộng đồng. Đồng bào Tây Nguyên nói chung
rất hiếu khách, mơi trường nghi lễ chính là
dịp thể hiện sự ân cần, hiếu khách của họ.
Nói cách khác, tiếp đãi khách cũng là một chu
trình quan trọng của các nghi lễ cộng đồng
của các tộc người Tây Ngun mà thơng qua
đó sự cố kết cộng đồng cịn mở rộng ra phạm
vi nhiều làng.
1.2. Lối sống tôn trọng và đề cao vai trị
người phụ nữ trong gia đình
Vùng Tây Nguyên là địa bàn duy nhất ở
nước ta hiện nay còn bảo lưu chế độ mẫu hệ
và song hệ trong gia đình, đặc biệt là chế độ
mẫu hệ phổ biến ở các tộc Ê Đê, Gia Rai, Chu
Ru, Raglai, Cơ Ho, Mnơng, Chăm,... Trong đó,
hầu hết các tộc nói ngơn ngữ Nam Đảo đều
thuộc gia đình mẫu hệ. Chế độ mẫu hệ được
hiểu là hệ thống gia đình mà ở đó người ta
thuộc về dịng dõi người mẹ, theo họ mẹ (chế
độ phụ hệ gọi là “họ ngoại”), người con gái
VĂN HÓA
NGHIÊN CỨU
29
VĂN HÓA
NGHIÊN CỨU
được thừa kế tài sản, được quyền đem lễ vật
đi hỏi và cưới người con trai về làm chồng; sau
khi lấy vợ người đàn ông cư trú bên nhà vợ.
Nói cách khác, đó là các vấn đề liên quan đến
thiết chế dịng họ, hơn nhân và gia đình. Thiết
chế mẫu hệ đã hình thành nên các sắc thái văn
hóa riêng liên quan đến hơn nhân, gia đình và
dịng họ ở Tây Nguyên gắn với các thủ tục nghi
lễ cưới xin, tang ma... mà ở đó người phụ nữ
giữ vị thế chủ động.
Vị thế của người phụ nữ còn thể hiện ở việc
họ được quản lý tài sản và nắm quyền quyết
định các vấn đề trong gia đình. Ngơi nhà dài
với nhiều thế hệ và nhiều gia đình nhỏ cư trú
của người Ê Đê chính là một biểu hiện tiêu
biểu của mơ hình gia đình theo mẫu hệ ở Tây
Nguyên, ở đó bà chủ nhà là người duy nhất
nắm giữ kho thóc, coi sóc và phân phát việc ăn
uống trong gia đình. Do vậy, bà là người chủ
trì chính trong các nghi lễ nông nghiệp, chẳng
hạn nghi lễ cúng Mẹ Lúa, cúng kho thóc, nghi
lễ cúng trong lễ mừng mùa thu hoạch xong...
mà cùng với sự tôn trọng của mọi người thì
bao giờ bà cũng là người uống ngụm rượu
cúng thần đầu tiên.
1.3. Lối sống cộng cư, tôn trọng và bình
đẳng với thần linh và tự nhiên
Từ tín ngưỡng đa thần và quan niệm sâu
đậm về vạn vật hữu linh nên đời sống của
người Tây Nguyên được vây bọc trong thế
giới của các vị thần, từ những vị thần trong tự
nhiên như thần Trời, thần Đất, thần Sông, thần
Núi, thần Cây, thần Đá, muông thú,… đến các
thần ngự trong các vật dụng như thần Cột,
thần Trống, thần Chiêng, thần Ché, các vật
ni, cây trồng… Vì nhìn đâu cũng thấy thần
nên đã hình thành ở họ lối sống cộng cư với
thần, làm bất cứ điều gì cũng phải hỏi ý kiến
thần, dị ý thần. Chẳng hạn, người Tây Ngun
khơng dùng phân bón cho cây trồng vì sợ làm
ơ uế thần Đất, khơng dùng dao để cắt lúa vì sợ
làm thần Lúa đau sẽ bỏ đi…
Với quan niệm người sao thần vậy nên mối
quan hệ giữa người và thần khá bình đẳng và
sự tôn trọng là cơ sở cho những ứng xử đầy
tính nhân văn giữa con người với tự nhiên của
họ. Chẳng hạn với quan niệm cọp là chó săn
của thần, tê giác là heo của thần, voi là trâu
của thần... nên khi săn được những con thú lớn
này họ phải làm lễ tạ tội với thần, thậm chí với
30
Số 24 - Tháng 6 - 2018
việc giết cọp người ta còn mở phiên tòa “xét
xử” người giết cọp theo luật tục (5, tr.387-398).
Hoặc như người Ba Na khi chặt các cây to có
nhiều tầm gửi thì cho rằng có thần ở trong cây
nên phải thuê người chặt rồi khiêng đến nơi xa
để bỏ rồi khóc lóc như có đám tang, sau đó về
nhà làm lễ cúng với quan niệm làm đám tang
cho thần (10, tr.302-304). Quan niệm ngang
hàng, thân thiện, bình đẳng với thần được
thể hiện qua nội dung lời cúng thần đã thành
khuôn mẫu ở mọi tộc người đã được tác giả Tô
Ngọc Thanh tổng kết như sau:
“Ơi hỡi các thần... (kể tên từng vị)
Chúng tôi muốn... (kể yêu cầu của con
người)
Chúng tôi đã cho các vị... (kể tên các vật hiến tế)
Mong chúng tơi đạt được ý muốn.
Ngồi ra, có nơi cịn thêm lời “giao hẹn”:
Nếu các vị không giúp chúng tôi
Sang năm chúng tôi không cúng các vị nữa...”
(4, tr.161-162)
Quan niệm thần và người thân thiện và
gần gũi còn được thể hiện qua các tác phẩm
sử thi mà ở đó mỗi người anh hùng thường có
một hoặc nhiều vị thần hộ mệnh. Theo đó thần
được hình dung như một tráng sĩ, cũng ăn mặc
chải chuốt, đeo khí giới lên đường ra trận cùng
các anh hùng, trò chuyện, uống rượu cùng
người anh hùng trong lễ mừng chiến thắng…
Như vậy, với người Tây Nguyên trước đây
thì thần cũng như người, tốt thì chơi, xấu thì
bỏ, thậm chí có thể đánh lừa hoặc mặc cả với
thần. Đó cũng chính là ảnh xạ về mối quan hệ
dân chủ và bình đẳng giữa người với người
trong xã hội chưa có giai cấp. Tác giả Tô Ngọc
Thanh đã cho rằng “Trong các nghi lễ, con
người Bahnar đi tìm đồng minh chứ khơng đi
tìm Đức chúa” (6, tr.46).
Do còn bảo lưu các yếu tố nguyên thủy
chịu sự chi phối của tín ngưỡng vạn vật hữu
linh nên lối sống của các tộc người Tây Nguyên
là sự thể hiện lối sống khoan dung, hòa hợp,
hòa đồng giữa người với người, giữa người với
thiên nhiên, giữa người với vạn vật. Ở đó con
người khơng chỉ bình đẳng với thần linh mà
cịn tơn trọng và ứng xử hết sức nhân văn với
thiên nhiên và với vật nuôi, cây trồng. Điều đó
thể hiện qua các quy định đã trở thành luật
TƠN GIÁO - TÍN NGƯỠNG
tục: khơng vơ cớ giết hại thú lớn, không chặt
phá bừa bãi cây rừng, không khai thác cạn kiệt
lâm thổ sản, không giết hại các con vật giống
cái đang mang bào thai,v.v.. Có thể coi đó là
những ứng xử văn hóa rất đáng trân trọng khi
mà hiện nay nhu cầu bảo vệ môi trường đang
là vấn đề của cả tồn cầu. Tinh thần nhân văn
đó cịn được thể hiện một cách sinh động qua
nghi lễ bắc máng nước với cả một hệ thống
các lễ thức mang ý nghĩa tạ ơn, nâng niu và
trân trọng thần Nước.
Lối sống nương rẫy nói trên đã tồn tại lâu
dài trong đời sống các tộc người Tây Nguyên
tại chỗ góp phần hình thành nên những đặc
trưng văn hóa của vùng Tây Ngun - Trường
Sơn nói chung. Vì vậy người ta thường biết
đến vùng Tây Nguyên với đặc điểm là vùng đất
với những lễ hội triền miên, với tục say sưa “ăn
năm uống tháng” mà gắn liền với nó là những
giá trị văn hóa độc đáo của nghệ thuật biểu
diễn cồng chiêng, nghệ thuật múa, nghệ thuật
điêu khắc tượng nhà mồ, trang trí cây cột lễ…
Ngồi ra, Tây Ngun cịn biết đến với những
tục lệ cổ sơ liên quan đến phép thử ma lai, tục
săn máu hay tục cà răng căng tai,…
2. Tơn giáo tín ngưỡng với sự hình thành lối
sống của các tộc người tại chỗ ở Tây Nguyên
trong cuộc sống đương đại
Từ sau năm 1975, đất nước được giải phóng
và thống nhất, Tây Nguyên cùng cả nước đi lên
chủ nghĩa xã hội theo con đường cơng nghiệp
hố và hiện đại hố. Sự chuyển đổi về chính trị,
kinh tế và văn hóa xã hội cùng các yếu tố ngoại
sinh khác, chẳng hạn như sự có mặt đơng đảo
của người Kinh, sự du nhập đạo Tin Lành,... đã
làm cho bộ mặt văn hóa Tây Nguyên thay đổi
nhanh chóng, trong đó có sự thay đổi của tơn
giáo tín ngưỡng. Điều đó đã tác động làm thay
đổi lối sống cổ truyền của các tộc người Tây
Nguyên tại chỗ với những biểu hiện đa dạng
khác nhau.
2.1. Xu hướng nhạt dần lối sống canh tác
nương rẫy ở bộ phận cư dân cịn bảo lưu tơn
giáo truyền thống
Ngày nay, nhìn chung tín ngưỡng đa thần
và quan niệm vạn vật hữu linh đã phai nhạt
dần ở các tộc người Tây Nguyên tại chỗ, kể cả
đối với các tộc người cư trú ở vùng sâu vùng
xa. Điều đó được giải thích bởi tác động của sự
thay đổi phương thức canh tác nương rẫy cổ
Số 24 - Tháng 6 - 2018
truyền và bởi việc người dân được học tập tiếp
thu các kiến thức khoa học cũng như vận dụng
các tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất
nông nghiệp,... Đây cũng là nguyên nhân cơ
bản dẫn đến sự phai nhạt dần lối sống nương
rẫy của đồng bào hiện nay.
Đối với các buôn làng truyền thống ở
vùng sâu vùng xa nơi các tộc người cịn sống
tập trung ít có sự xen kẽ với các tộc khác thì
các giá trị văn hóa cổ truyền vẫn được duy trì
theo hướng chọn lọc, trong đó có tơn giáo
tín ngưỡng. Nhóm người Xơ Teng (thuộc tộc
người Xơ Đăng) ở huyện Tu Mơ Rông, tỉnh Kon
Tum là một ví dụ. Tại đây người ta vẫn duy trì
thường xun một số nghi lễ cộng đồng xung
quanh ngơi nhà rông như nghi lễ bắc máng
nước, nghi lễ mừng mùa thu hoạch. Một số
làng khi tổ chức mừng nhà rông mới vẫn tổ
chức lễ ăn trâu cúng thần. Tương tự, nghi lễ
ăn trâu trong phạm vi gia đình vẫn cịn duy
trì,… Ta biết rằng việc bảo tồn các nghi lễ cộng
đồng chính là một cách để duy trì lối sống gắn
kết, tương trợ lẫn nhau trong cộng đồng. Tuy
nhiên, để phù hợp với cuộc sống đương đại
thì ngày nay, việc tổ chức nghi lễ cộng đồng
ở đây cũng đã có nhiều thay đổi như giản lược
về thời gian, nội dung và hình thức để chỉ giữ
lại những nội dung cơ bản của nghi lễ. Cùng
với việc thay đổi chức năng của ngơi nhà rơng
thì việc tổ chức các nghi lễ cộng đồng chủ yếu
là duy trì phong tục tập quán cổ truyền nhiều
hơn là mục đích cầu thần. Điều đó có căn
nguyên từ sự suy giảm niềm tin vào các vị thần
dẫn đến các lễ thức cũng như lời cúng thần chỉ
được thực hiện một cách tượng trưng. Theo
như vậy, người dân tham gia nghi lễ với nhu
cầu giao lưu gặp gỡ là chính, thời gian dành
cho cộng đồng cũng giảm nhiều hơn so với
trước đây.
Từ việc thay đổi niềm tin và quan niệm về
thần linh mà người ta cũng xa rời dần lối sống
cộng cư, bình đẳng, nhìn đâu cũng thấy thần.
Một trong những biểu hiện rõ nhất là người
dân ở nhiều nơi, kể cả ở các vùng sâu vùng
xa, đều có xu hướng bỏ dần các nghi lễ nơng
nghiệp, khơng tin và khơng cịn thờ thần Lúa
nữa. Chẳng hạn người ta đã bỏ dần những
kiêng kị sợ làm đau thần Lúa nên phải tuốt lúa
bằng tay, sợ ô uế thần Đất mà không dám bón
phân,... Tương tự, người ta cũng giải thiêng
dần vai trò của các bộ cồng chiêng. Nếu trước
VĂN HÓA
NGHIÊN CỨU
31
VĂN HÓA
NGHIÊN CỨU
đây cồng chiêng chỉ được phép tấu lên trong
các nghi lễ cúng thần, trước và sau khi cúng
phải có lễ cúng thần chiêng thì ngày nay cồng
chiêng đã được sử dụng vào nhiều mục đích
khác nhau, chẳng hạn như phục vụ du lịch.
Điều đó cũng đã góp phần hình thành dần lối
sống độc lập, tự chủ trước thần linh mà đi liền
với nó là sự mai một dần lối sống cộng cư, tôn
trọng tự nhiên và vạn vật.
Đối với các làng định cư ở nơi ở mới hoặc là
ở khu vực gần thành thị thì cịn có nhiều lý do
hơn để người ta loại bỏ dần các nghi lễ cộng
đồng. Đó là do mơi trường cư trú mới khơng
cịn gắn liền với rừng, cùng việc đa dạng hóa
cây trồng và nghề nghiệp đã phá vỡ kinh tế
canh tác nương rẫy cổ truyền, kết hợp với việc
người dân được học hành tiếp thu khoa học
kỹ thuật nâng cao nhận thức nên khơng cịn
tin vào sự tồn tại của thần linh... Hay như sự
thay thế của các hình thức giếng khoan, ống
dẫn nước và bể chứa nước hiện đại cũng đã
khiến người ta khơng cịn nhu cầu tổ chức lễ
bắc máng nước để cúng thần nước hàng năm.
Hoặc, có nơi sự thiếu vắng những ngơi nhà
rơng cùng vai trị tập hợp của già làng cũng là
nguyên nhân dẫn đến sự vắng bóng của các
nghi lễ ăn trâu cộng đồng. Mặt khác, kinh tế
thị trường cũng có vai trị tác động vào tâm lý
thực tế khiến nhiều nơi bỏ không tổ chức các
nghi lễ ăn trâu vì cho rằng tốn kém công sức
và tiền của.
Nghi lễ cộng đồng của người Tây Ngun
cổ truyền là một sinh hoạt văn hóa tín ngưỡng
tập thể, được cấu thành bởi nhiều thành tố văn
hóa nghệ thuật mang đậm sắc thái văn hóa
tộc người. Đó là nghệ thuật biểu diễn cồng
chiêng, nghệ thuật múa, nghệ thuật điêu khắc
tượng nhà mồ, trang trí cây cột lễ,... Đồng thời
đây cũng là mơi trường giao lưu văn nghệ qua
đó lưu truyền các bài dân ca, là nơi các thế hệ
đi trước trao truyền cho thế hệ sau các tri thức
lao động sản xuất, các lễ nghi và văn hóa ứng
xử trong cộng đồng... Vì vậy, sự chối bỏ các
nghi lễ cộng đồng một mặt phản ánh sự thay
đổi quan niệm và nhận thức của người dân về
thế giới quan và hệ thống thần linh nhưng mặt
khác cũng làm mất đi những giá trị văn hóa
nghệ thuật đặc sắc của tộc người. Điều đó đã
và đang đặt ra một bài tốn cho việc bảo tồn
di sản văn hóa của các tộc người tại chỗ ở Tây
Nguyên trong cuộc sống đương đại.
32
Số 24 - Tháng 6 - 2018
2.2. Xu hướng hình thành lối sống gắn kết
dịng họ do du nhập tín ngưỡng thờ cúng tổ
tiên của các tộc người khác
Ở người Tây Nguyên tại chỗ nói chung chưa
có khái niệm rõ ràng và cụ thể về tổ tiên cùng
các lễ thức thờ cúng tổ tiên như ở người Kinh
và các tộc người thiểu số phía Bắc. Chính vì
vậy mà với nghi lễ bỏ mả được diễn ra trong
khoảng thời gian sớm hoặc muộn tùy theo
quy định và quan niệm của từng tộc người
thì người chết sẽ được tiễn đưa một cách dứt
khốt về với tổ tiên mà khơng cịn quan hệ
ràng buộc gì với người sống nữa, phổ biến
là trong nhà khơng lập bàn thờ, hàng năm
khơng có giỗ chạp, khơng có ngày tưởng niệm
riêng dành cho người chết, khơng chăm sóc
mồ mả… Trong các nghi lễ, thường người ta
chỉ khấn ông bà tổ tiên một cách chung chung
với một hình dung mơ hồ về một thế giới cư
trú riêng của họ. Theo đó, giữa người sống và
người chết khơng cịn quan hệ thưởng phạt
nên “Người sống không hề lo lắng cho cuộc
sống sau khi chết”, thái độ của người sống
đối với người chết “là một thái độ thực tế chứ
không phải một thái độ tôn giáo” (2, tr.105).
Hiện nay, cùng với việc được học hành và
giao lưu tiếp xúc với văn hóa hoặc quan hệ hơn
nhân với người Kinh và các tộc người thiểu số
phía Bắc mà tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên giống
như ở người Kinh cũng đã bắt đầu xuất hiện
trong đời sống của một bộ phận người Tây
Nguyên tại chỗ. Thường đó là các cán bộ cấp
xã huyện, các cán bộ công nhân viên chức ở
khu vực thành thị, các gia đình có quan hệ hơn
nhân với người Kinh và một số tộc người thiểu
số miền núi phía Bắc. Theo đó, trong gia đình
người ta cũng lập bàn thờ để thờ cúng ông bà
tổ tiên và cha mẹ, cũng xây mộ, thăm mộ, tổ
chức giỗ chạp hàng năm và cúng lễ vào các
ngày rằm, mồng một hàng tháng… Điều này
cho thấy sự ứng xử khác hẳn với truyền thống
không chỉ về quan niệm mà cả về lễ thức đối
với tổ tiên. Điểm khác là do ảnh hưởng của chế
độ mẫu hệ hoặc song hệ nên việc thờ cúng tổ
tiên và cha mẹ của người Tây Nguyên có khi
là do người con gái thực hiện chứ không hẳn
phải giao cho người con trai trong gia đình
như ở người Kinh.
Tuy chưa phải là phổ biến song việc thờ
cúng tổ tiên đã dần hình thành nên lối sống
gắn kết dịng họ ở các tộc người Tây Nguyên
TƠN GIÁO - TÍN NGƯỠNG
tại chỗ mà cùng với nó đã làm thay đổi quan
niệm về tổ tiên và các lễ thức thờ cúng tổ tiên
của họ.
2.3. Xu hướng tiếp thu lối sống công
nghiệp do ảnh hưởng của các tôn giáo
phương Tây du nhập
Trong khoảng hơn chục năm trở lại đây, số
người bản địa ở Tây Nguyên gia nhập đạo mới
(Công giáo hoặc Tin Lành) đã tăng một cách
đáng kể. Nhiều làng theo Tin Lành gần như
tồn bộ, có làng một nửa theo Công giáo, một
nửa theo Tin Lành. Đối với những người theo
đạo thì sự chối bỏ tập tục truyền thống được
coi là tuân thủ theo quy định của đạo. Chẳng
hạn như từ bỏ các nghi lễ tổ chức theo cách
thức cổ truyền, từ bỏ nghe hát kể sử thi,…
mà đồng nghĩa với đó là từ bỏ các lối sống cổ
truyền gắn với tín ngưỡng đa thần và quan
niệm vạn vật hữu linh. Qua đây cũng cho thấy
đã và đang có một sự biến đổi sâu sắc trong đời
sống tinh thần của một bộ phận các tộc người
tại chỗ ở Tây Nguyên mà nguyên nhân chính
là do sự thắng thế của các tơn giáo mới trước
tơn giáo tín ngưỡng và văn hóa cổ truyền của
họ. Sự phụng thờ độc tôn Đức Chúa Trời cùng
các lễ thức theo cách của người phương Tây
đã dần hình thành nên một lối sống mới khác
hẳn lối sống nông nghiệp nương rẫy ở những
người theo đạo, mà ở đây chúng tôi tạm gọi là
lối sống công nghiệp.
Trước hết, sự du nhập các tôn giáo mới
đã hình thành nên một thiết chế quản lý mới
về tôn giáo ở các làng theo đạo thay thế cho
vai trị của già làng. Đó là vai trị của người có
chức sắc trong đạo gọi là “giao phu” là người
có nhiệm vụ đứng ra tổ chức các lễ cầu nguyện
cho dân trong làng vào các chiều thứ bảy và
sáng chủ nhật.
Về lễ thức, đồng bào theo đạo thường đến
nhà thờ để cầu kinh vào cuối tuần. Hàng năm
có tổ chức những ngày lễ lớn như Noel (ngày
25 tháng 12) hoặc lễ Phục sinh (vào tháng 3
hoặc tháng 4) ở những điểm tập trung của
cộng đồng giáo xứ. Việc duy trì các lễ thức tơn
giáo đã dần hình thành nên những thói quen
mới trong sinh hoạt của họ. Chẳng hạn như từ
thói quen đi lễ nhà thờ vào cuối tuần đã dẫn
đến thói quen khơng làm việc vào các ngày
chủ nhật. Điều này trái ngược với lối sống cư
trú trên nương rẫy của đồng bào trước đây.
Số 24 - Tháng 6 - 2018
Về giáo lý, khi đến nhà thờ, đồng bào theo
đạo được dạy những kiến thức mới trong đối
nhân xử thế, về sự sống sau cái chết (thiên
đàng và địa ngục),… Một trong những lợi ích
mà tơn giáo mới - cụ thể là Tin Lành, mang lại
cho các giáo dân là vì tuân thủ giáo luật mà
đồng bào bỏ hút thuốc, bỏ uống rượu, chú
tâm vào công việc làm ăn,…
Những năm gần đây, để dung hịa với tơn
giáo truyền thống ở Tây Ngun, các tơn giáo
mới du nhập đã có những điều chỉnh đáng kể
để bảo tồn phát huy văn hóa truyền thống của
đồng bào. Chẳng hạn như hệ thống nhà thờ
của người Giarai ở huyện Chư Sê, tỉnh Gia Lai
được mơ phỏng theo kiến trúc nhà rơng, ngồi
sử dụng kinh sách bằng tiếng bản tộc thì cịn
sử dụng dân ca, dân vũ trong các nghi thức tôn
giáo, sử dụng âm nhạc dân tộc (cồng chiêng,
đàn t’rưng) trong âm nhạc Kitơ giáo. Ngồi ra,
giáo dân cũng được tun truyền, giới thiệu và
hướng dẫn kỹ thuật canh tác giống cây trồng
mới, ứng dụng khoa học kỹ thuật vào trong
sản xuất theo cách “cầm tay chỉ việc”, mở lớp
dạy nghề thủ công mỹ nghệ,… (3, tr.105-106).
Đặc biệt, ở nhiều nơi, các nghi lễ cộng đồng
vẫn được người theo đạo Công giáo bảo lưu
theo cách riêng với mục đích duy trì phong
tục tập quán cổ truyền. Theo đó, người ta vẫn
tổ chức các nghi lễ cộng đồng nhưng khơng
có nghi thức lấy máu hiến sinh, không rước
hồn lúa, thay lời khấn thần bằng đọc kinh cầu
nguyện Đức Chúa Trời.
Như vậy, sự du nhập của các tôn giáo mới,
bên cạnh việc làm thay đổi hồn tồn thế giới
quan đa thần của đồng bào, thì cịn góp phần
hình thành nên những hình thức sinh hoạt
cộng đồng mới thay thế cho các sinh hoạt
cộng đồng cổ truyền, tạo nên sự năng động,
tiến bộ theo lối sống của phương Tây hiện đại.
Đây cũng là một cách thức để duy trì lối sống
gắn kết cộng đồng của bộ phận đồng bào
Tây Nguyên tại chỗ theo đạo trong cuộc sống
đương đại. Đương nhiên, bên cạnh những
ưu điểm thì sự du nhập tơn giáo mới cũng có
những bất cập do sự đa dạng các giáo phái dẫn
đến những phức tạp trong việc lơi kéo tín đồ
hoặc sự lợi dụng tơn giáo nhằm mục đích chính
trị của các thế lực phản động… Tuy nhiên, đây
không phải là vấn đề bàn luận ở đây.
VĂN HÓA
NGHIÊN CỨU
33
VĂN HÓA
NGHIÊN CỨU
Cuối cùng, phải kể đến lối sống vị kỷ, thực
dụng, ỉ lại của một bộ phận người dân chỉ
trông chờ vào sự hỗ trợ của nhà nước. Điều
này cho thấy tính hai mặt của các chủ trương
chính sách đầu tư hỗ trợ của nhà nước đối với
đồng bào thiểu số nói chung, các tộc người
tại chỗ Tây Nguyên nói riêng. Chính vì vậy, từ
thực tế thành cơng của phương thức du nhập
các tôn giáo mới vào đồng bào Tây Nguyên
cho thấy nghệ thuật tuyên truyền, vận động,
hướng dẫn, đào tạo,… cũng là một vấn đề cần
thiết góp phần định hình lối sống mới ở các
tộc người tại chỗ ở Tây Nguyên hiện nay.
Kết luận
Từ thực trạng tác động của tơn giáo tín
ngưỡng đến lối sống của các tộc người tại
chỗ vùng Tây Nguyên hiện nay cho thấy văn
hóa nói chung, lối sống nói riêng của các tộc
người Tây Nguyên đã và đang trong quá trình
chuyển đổi với nhiều sắc thái đa dạng và phức
tạp, thể hiện quy luật vận động tất yếu của
quá trình giao lưu và ảnh hưởng văn hóa. Điều
đó phần nào cũng cho thấy có nhiều cách lựa
chọn lối sống khác nhau trong cộng đồng các
tộc người Tây Nguyên tại chỗ hiện nay. Nhìn
chung thì các cách thức lựa chọn đều hướng
tới sự kết hợp hài hòa giữa nhu cầu tiến bộ,
nhu cầu đổi mới với nhu cầu giữ gìn phát huy
bản sắc văn hóa dân tộc. Tuy nhiên, sự biến đổi
văn hóa nói chung, tơn giáo tín ngưỡng nói
riêng địi hỏi phải có q trình. Trong bối cảnh
hiện nay, có lẽ cách tốt nhất là tơn trọng các
cách thức lựa chọn để từ đó làm cơ sở cho việc
tìm kiếm những lựa chọn hợp lý nhất cho lối
sống của đồng bào trong tương lai. Đó là cơng
việc địi hỏi sự nỗ lực góp sức của nhiều người,
khơng chỉ là của người dân mà cịn của cả nhà
nghiên cứu và các nhà quản lý.
N.T.Y
(PGS.TS, Viện Nghiên cứu Văn hóa)
Tài liệu tham khảo
1. Bùi Minh Đạo (2011), Thực trạng phát triển
Tây Nguyên và một số vấn đề phát triển bền vững,
Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội.
2. Nguyễn Tấn Đắc (2005), Văn hóa, xã hội và
con người Tây Nguyên, Nxb. Khoa học xã hội, Hà
Nội.
34
Số 24 - Tháng 6 - 2018
3. Trần Thị Mỹ Hằng (2005), Sự biến đổi văn
hóa của người Giarai ở huyện Chư Sê, tỉnh Gia Lai
dưới tác động của xã hội đương đại, Luận án tiến sĩ
Văn hóa học, Học viện Khoa học Xã hội.
4. Đinh Gia Khánh, Cù Huy Cận (chủ biên)
(1995), Các vùng văn hóa Việt Nam, Nxb. Văn học,
Hà Nội.
5. Lê Văn Kỳ (chủ biên), Ngô Đức Thịnh,
Nguyễn Quang Lê (2007), Phong tục tập quán
một số dân tộc thiểu số ở Nam Tây Nguyên, Nxb.
Văn hóa dân tộc, Hà Nội.
6. Tô Ngọc Thanh (chủ biên), Đặng Nghiêm
Vạn, Phạm Hùng Thoan... (1988), Folklore Bahnar,
Sở Văn hóa Thơng tin tỉnh Gia Lai - Kon Tum,
Pleiku.
7. Ngơ Đức Thịnh (2004), Văn hóa vùng và
phân vùng văn hóa ở Việt Nam, Nxb. Trẻ, Thành
phố Hồ Chí Minh.
8. Ngơ Đức Thịnh (2006), Văn hóa, văn hóa tộc
người và văn hóa Việt Nam, Nxb. Khoa học xã hội,
Hà Nội.
9. Ngô Đức Thịnh (2007), Những mảng màu
văn hóa Tây Ngun, Nxb. Trẻ, Thành phố Hồ Chí
Minh.
10. Viện Nghiên cứu Văn hóa (2006), Nghi lễ và
phong tục các tộc người ở Tây Nguyên, Nxb. Khoa
học xã hội, Hà Nội.
11. />Ngày nhận bài: 13 - 4 - 2018
Ngày phản biện, đánh giá: 15 - 6 - 2018
Ngày chấp nhận đăng: 25 - 6 - 2018